Thầy trò bên
nhau (Mùa hè Làng Mai 2008) |
„Một tuần tu học bên các thầy, các sư cô và đại chúng tại Làng
đã giúp con thêm niềm tin và khẳng định được hướng đi, lối sống
của đời mình. Bây giờ con biết con không còn đơn độc trên con
đường ấy“.
Đó là những tâm tình của Nguyễn trước những thiền sinh đồng bào
người Việt trong buổi pháp đàm tại xóm Trung, thuộc
Làng Mai,
tại miền Nam nước Pháp trong khóa tu mùa hè 2008 vào cuối tháng
Bảy.
Nguyễn là nghiên cứu sinh từ Hà nội. Đây là lần đầu tiên Nguyễn
đến
Làng Mai tu học. Cùng đi với Nguyễn có bốn bạn trẻ khác. Họ
là những giảng viên, sinh viên các trường Đại học ở Hà nội và
đang thực tập ở nhiều Đại học khác nhau tại Âu châu.
Nguyễn biết
Làng Mai từ năm 2005, khi Sư ông Nhất Hạnh về Việt
Nam lần đầu. Trên đường phố Hà Nội, tình cờ một sáng nọ Nguyễn
bắt gặp hình ảnh cả trăm thầy tu, trong đó có nhiều thầy, sư cô
người nước ngoài, đang đi thong dong, chậm rãi trên đường phố.
Nguyễn chưa bao giờ chứng kiến một hình ảnh bình yên như vậy, dù
là của những người tu trên thủ đô đất nước. Nguyễn dừng xe đứng
ngắm và nghe trong lòng mình một niềm xôn xao trỗi dậy. Giữa
không khí xô bồ hối hả, chen lấn của từng lớp xe cộ, giữa bao
nét mặt căng thẳng của rừng người tới lui vì phải lo toan cho
cuộc sống đời thường, Hà Nội chợt có đoàn người bước những bước
chân thong dong, tự tại. Họ đi chậm như đang đếm từng bước. Mắt
người nào cũng rực sáng niềm vui, môi ai cũng nở một nụ cười
xinh xắn như muốn chia sẻ niềm hạnh phúc với người qua lại hoặc
san sẻ tình thương cho cả cỏ cây hoa lá bên đường.
Các thầy cô mặc những chiếc áo màu nâu quen thuộc, nón lá che
đầu, dù là nam hay nữ. Nguyễn thấy đẹp quá, gần gũi và tự nhiên
quá! Màu áo nâu của người dân quê chân đất, của ruộng đồng miền
Bắc, màu áo ngày xưa mẹ Nguyễn vẫn thường mặc. Còn chiếc nón lá,
bấy lâu cứ ngỡ ngày một vắng đi giữa thành phố để nhường cho
những chiếc mũ vải, những nón nhựa, nón sắt, nón bảo hộ… giờ
được cả trăm thầy cô trang trọng che đầu, che nắng, dịu dàng
thân thương.
Nguyễn mơ hồ tìm lại được một vẻ đẹp khác của Hà Nội. Đó không
phải là vẻ đồ sộ, nguy nga của những cao ốc mới mọc, khoe mình
trên bầu trời thủ đô. Không phải là vẻ tân thời của các cửa
hàng, cửa hiệu siêu thị ngày càng nhiều máy móc, đồ dùng hiện
đại, cũng không phải là những „mode“ áo quần thời trang
của giới trẻ như Nguyễn mà chính là vẻ bình thường dung dị của
người dân, của những người lao động. Vẻ đẹp của những người mẹ,
người cha như cha mẹ Nguyễn đã một thời vất vả cực nhọc chăm sóc
nuôi nấng anh chị em Nguyễn, dạy dỗ Nguyễn nên người. Chính hình
ảnh đơn giản đó - hôm nay Nguyễn tình cờ gặp lại trên đường phố
qua đoàn các thầy, các sư cô làng Mai về thăm đất nước.
Nguyễn hỏi thăm thêm một số tin tức về sinh hoạt của tăng đoàn
Làng Mai ở Hà Nội. Nguyễn sắp xếp công việc để có thể tham dự
một buổi nói chuyện của Sư ông
Làng Mai. Nguyễn tìm mua những
băng giảng, những cuốn sách của Sư ông viết về đạo Phật. Nguyễn
đọc say sưa „Đường xưa mây trắng“ và „Trái tim của Bụt“
và Nguyễn khám phá ra một con người mới thật sự có mặt trong
Nguyễn. Con người với đời sống tâm linh. Nguyễn cũng tìm thấy
một đạo Phật mới, khác với đạo Phật của lễ bái và cầu nguyện mà
từ nhỏ Nguyễn thường đi với mẹ, đạo Phật của cuộc đời - đạo Phật
đi vào cuộc đời.
Ở độ tuổi ba mươi, với những thành công nhất định trong nhà
trường, với công việc ổn định nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia
đình, Nguyễn có thể tự hào là một thanh niên trí thức thành
công. Là một chuyên viên của ngành tin học, Nguyễn cũng có những
say sưa với nghề và được xã hội trọng dụng. Chuyến đi du học
nước ngoài lần này là một ví dụ. Nhưng từ tiềm thức nằm sâu
trong lòng Nguyễn, có một cái gì đó mà Nguyễn đang trăn trở.
Cuộc sống hằng ngày của xã hội chung quanh với bao bon chen,
giành giựt đã khiến Nguyễn tự hỏi, chẳng lẽ sống trên đời chỉ là
như vậy thôi ư? Chẳng lẽ suốt một đời người trên thế gian này
chỉ là những lo toan về cơm áo, gạo tiền, giành giựt, bức hại
lẫn nhau? Xã hội kêu than đạo đức xuống cấp, nhưng cả xã hội vẫn
cứ lao mình vào dòng thác hỗn loạn của bạo lực, của tiêu thụ,
tham nhũng. Tiêu chí của cuộc sống thời thượng là kiếm tiền,
càng nhiều tiền càng được xã hội trọng nể, dù bằng cách nào, dù
ở lãnh vực nào, ở chức vụ nào.
Nguyễn cảm thấy đang thiếu vắng một cái gì đó trong đời sống của
riêng mình. Tiền bạc? - Không hẳn. Không giàu nhưng so với những
ngày thiếu thốn, khó khăn xưa kia của gia đình thì giờ này đã
khá hơn nhiều. Danh vọng, chức vị trong xã hội? - Cũng không
phải. Tuy công việc của Nguyễn chưa phải là cao gì lắm nhưng
cũng là chỗ để bao bạn bè mơ ước. Tình cảm? - Nguyễn đang có đầy
đủ. Người vợ chưa cưới của Nguyễn cũng đang đứng trên bục giảng
của một trường đại học ở Hà Nội. Đám cưới của hai người chỉ là
vấn đề thời gian, khi khóa tu nghiệp của Nguyễn kết thúc. Vậy
thì những khao khát nằm sâu trong tiềm thức của Nguyễn, thật ra
nó là cái gì? Nhiều lúc Nguyễn đã tự cật vấn mình mà chưa có lời
giải đáp.
Thế mà ngày hôm ấy câu trả lời tự trong lòng Nguyễn nó vỡ ra.
Đơn giản, tự nhiên, qua hình ảnh của hàng trăm người bước đi
lặng lẽ trên đường phố Hà nội. Họ không phải là một đoàn biểu
tình mà sao đông như vậy? Không có băng, cờ, khẩu hiệu mà sao họ
mang nhiều gởi gắm đến thế? Họ từ nước ngoài về và nhiều người
trong họ là người nước ngoài, mà sao họ giản dị, hiền hòa thân
thương đến thế. Họ nối theo nhau thành hàng một thinh lặng, mỉm
cười. Người nọ tiếp bước người kia chậm rãi trên đường phố như
đang thưởng thức hạnh phúc qua chính bước chân của mình, như
muốn nhắn gởi cùng mọi người, có một nguồn hạnh phúc vô tận, có
một vẻ đẹp to lớn không cùng. Vẻ đẹp đó, hạnh phúc đó đang ở
ngay chung quanh mọi người, trong chính mỗi thời khắc hiện tại
của mọi người.
Nguyễn chợt nhận ra nhu cầu đời sống tâm linh của mình. Nguyễn
đã sung sướng mỉm cười như muốn trả lời với các thầy đang đi
trên đường phố: Con đã thấy, con đã hiểu.
Mùa Hè năm nay Nguyễn đến Làng trong một cơ duyên tình cờ và với
tâm trạng thăm dò tìm hiểu.
Nguyễn biết
Làng Mai ở Pháp, chẳng xa mấy với thành phố mà
Nguyễn đang tu nghiệp. Trong thành phố đang có một nhóm Tăng
thân cùng về
Làng tham dự tu học. Nguyễn liên lạc và người
trưởng đoàn báo tin, còn một chỗ.
Bạn của Nguyễn có người tỏ ra nghi ngại khi nghe Nguyễn đi cùng
với những người Việt kiều ấy. Đã một lần, nơi thành phố Nguyễn
ở, các bạn đi xem trận bóng đá giao hữu của hai đội tuyển thủ
quốc gia nọ, có người mang theo lá cờ đỏ sao vàng để cổ động đội
bóng. Sau trận đấu, một người đến sừng sộ với bạn của Nguyễn:
chúng mày dẹp lá cờ đó đi. Lần sau mà tụi tao trông thấy thì
chúng mày liệu hồn!
Nguyễn không hiểu, thật sự không hiểu. Hơn ba mươi năm thống
nhất đất nước nhưng cuộc chiến vô hình vẫn cứ lơ lửng giữa lòng
dân tộc, phân hóa kẻ Nam người Bắc, giữa người trong nước và
người ở nước ngoài, giữa người quốc gia và người cộng sản giữa
giáo dân và phật tử… Đố kỵ, nghi ngờ, sợ hãi. Tội nghiệp cho dân
tộc mình, Nguyễn nghĩ. Nhưng Nguyễn trấn an bạn. Với những người
đến
Làng Mai tu học, Nguyễn tin là không ai có tâm phân biệt, kỳ
thị đó. Ai cũng hiểu, máu mọi người đều đỏ và nước mắt người nào
cũng mặn.
Tổ Huệ Năng cũng từng dạy, con người thì có kẻ Nam
người Bắc, nhưng
Phật tánh thì không phân biệt kẻ Bắc người Nam.
Nguyễn tin vào những thiền sinh về làng Mai. Nguyễn tin vào các
Phật tử.
Nguyễn và các bạn của mình đã đến
Làng Mai và được sắp xếp ở tại
xóm Trung, xóm dành cho đồng bào người Việt.
Xóm Trung không rộng so với các xóm khác. Toàn bộ diện tích của
xóm chừng hai mẫu tây, trong khi các xóm Thượng, xóm Hạ, xóm
Mới… xóm nào cũng rộng cả hằng chục mẫu. Nhà cửa của xóm Trung
cũng đơn sơ dầu đã được tạo dựng từ mười năm trước. Thế mà ở
Việt Nam, người ta đồn đãi, làng Mai giàu, thật giàu. Có lẽ vì
mấy chục năm qua, làng Mai đã giúp đỡ cho cả ngàn lớp học tình
thương, để các cháu có bữa ăn trưa và cô giáo có phụ cấp trông
trẻ. Làng Mai bảo trợ hằng trăm thầy cô từ các chùa ở Việt Nam,
từ Bắc chí Nam sang tu học nhiều năm. Hạt giống „hiểu và thương“
và „đạo Phật dấn thân“ của Làng đang nảy mầm ở nhiều nơi trên
đất nước. Nhưng cũng ở rất nhiều nơi, hạt giống đó bị thui
chột, khi người ta tìm đến làng Mai với mục đích trông chờ sự
cúng dường, ủng hộ để xây dựng chùa chiền, tự viện cho to hơn,
lớn hơn, nguy nga tráng lệ hơn, dù cơ sở của làng ở đây hơn hai
chục năm qua vẫn còn đơn sơ như một nông trang nghèo khó.
Nhưng xóm Trung có được vẻ dễ thương của nó, cái dễ thương của
con nhà khó và khung cảnh bình dị của cây cỏ chung quanh. Những
cây dẻ (marronnier) của xóm cao cả chục thước, thân lớn bằng hai
người ôm, rợp bóng mát như những cây đa đầu làng ở quê Nguyễn.
Mùa Hè năm nay mưa nhiều nên cây cối xanh mướt và vươn cao hơn.
Khóm trúc đằng sau bếp cũng lan rộng và xanh hơn mọi năm. Ai đó
đã mắc những chiếc võng dưới gốc cây dẻ, nơi lúc nào tiếng võng
cũng đong đưa kẻo kẹt như âm thanh bên quê nhà trong những buổi
trưa hè, mùa nắng Nam.
Nguyễn cắm một chiếc lều cá nhân dưới bóng hàng cây điệp mới
trồng tiếp nối những chiếc lều của các thanh niên khác và sửa
soạn một chiếc nữa trong khu vực nữ cho những người bạn của
Nguyễn đến muộn. Trời trên cao trong xanh. Mấy áng mây trời lơ
lửng trên đầu Nguyễn như chào mừng người khách lạ.
Vâng, Nguyễn như người khách lạ. Nguyễn phải „ thực tập“
theo mọi sinh hoạt của Làng. Trăm nghe không bằng mắt thấy, ngày
đầu có lúc Nguyễn hơi bỡ ngỡ vì không khí của xóm có vẻ vui nhộn
quá. Bà con, bạn bè người Việt từ tứ xứ, nhất là giới trẻ, gặp
nhau mừng rỡ, cười nói chào hỏi khiến không khí như ngày hội
trại mà ít chất vị của chốn thiền môn. Nhưng chỉ không đầy một
tiếng đồng hồ sau, khi tiếng chuông của xóm được thỉnh lên thì
tất cả ngưng bặt trong thinh lặng, kể cả người đang làm dang dở
một công việc nào đó. Mọi người tự trở về hơi thở và mỉm cười
tận hưởng phút giây quý báu của đời mình. Mình đang sống và đang
gặp lại bạn bè, đồng bào từ các nơi, quen và chưa quen trên xứ
người. Tha hương ngộ cố tri, cái đó không phải là một
niềm vui lớn sao?
Nguyễn tham dự đầy đủ mọi thời khóa của Làng. Sáng năm giờ thức
chúng. Năm giờ ba mươi, ngồi thiền. Sáu giờ ba mươi ăn sáng… Mỗi
ngày Làng có một buổi pháp thoại của Sư ông. Ngày đầu tiên đến
Làng, Nguyễn gặp buổi ăn cơm quá đường tại xóm Hạ và nhờ đó hiểu
thế nào là một buổi ăn cơm quá đường, ăn cơm theo nghi
thức truyền thống. Gần một ngàn người „theo thứ đệ khất thực“
rồi vào ngồi từng hàng ngay ngắn trong thiền đường Hội Ngàn Sao.
Thiền đường rộng mênh mông là thế mà hôm đó cũng kín cả chỗ.
Ngày thứ Năm, xóm Trung có lễ giỗ tổ tiên và lễ Bông Hồng Cài
Áo. Các thầy từ Việt Nam sang Làng tu học đã cúng dường một nghi
lễ cầu siêu cho tổ tiên theo nghi thức truyền thống của các chùa
ở Huế. Tiếng trống, tiếng linh, tiếng chuông, tiếng mõ vang lên
hòa cùng lời kinh trầm bổng của các thầy đã khiến không khí lễ
cầu siêu trang trọng uy nghiêm khác thường. Nhiều người trong
chúng không nén được xúc động trước những lời kinh tụng. Nguyễn
đã biết những lễ giỗ chạp ở gia đình, nhưng nghi lễ trang nghiêm
như lần này thì đây là lần đầu Nguyễn tham dự. Tất nhiên Nguyễn
đã ghi tên những người quá vãng của gia đình để cùng nhờ các
thầy cầu nguyện.
Chiều thứ Sáu, Sư ông về thăm xóm Trung và cho pháp thoại riêng
cho đồng bào. Sư ông ngồi ấm áp giữa vòng quây thân mật của mọi
người. Hơn trăm bà con ngồi quanh Sư ông, ấm cúng như trong gia
đình và được hưởng thụ trực tiếp năng lượng từ bi và trí tuệ từ
Người. Sư ông sách tấn mọi người cách xây dựng và gìn giữ hạnh
phúc gia đình, cụ thể là có mặt cho nhau trong các bữa cơm, ít
ra là vào bữa cơm chiều mỗi ngày. Sư ông dành thời giờ cho đồng
bào nêu câu hỏi. Quanh Nguyễn nét mặt ai cũng rạng lên niềm hạnh
phúc khi được ngồi bên người thầy, người cha quý kính. Nguyễn
cũng vậy. Nguyễn cảm thấy thật dễ chịu biết bao vì lần đầu tiên
được ngồi thật gần Sư ông như hôm nay, người thầy không phải
của riêng Nguyễn mà của cả dân tộc, cả năm châu. Cả nhiều ngàn
người từ nhiều quốc tịch khác nhau trên thế giới thu xếp về đây
tu học tháng trời với vị thầy khả kính Việt Nam. Và quang cảnh
này đã có từ hai mươi sáu năm nay. Có thể tìm ở đâu một hình ảnh
tương tự như vậy? Điều này làm Nguyễn ngạc nhiên, xúc động pha
lẫn chút tự hào dân tộc. Đất nước, dân tộc Việt nam đã hiến tặng
cho nhân loại một vị thầy đáng kính, vị đạo sư đó. „Một bậc
thượng nhân hành xử như nước chảy mây trôi, cưỡi sóng tử sinh,
hùng khí bạt ngàn đến đi tự tại. Đức lớn ví Thái sơn mà thấp
mình như đất. Thành công kỳ vĩ mà xóa dấu vết trên sử xanh. Coi
mọi thành bại như mây trời, thả mình bồng bềnh như gió Hạ, sống
chết như con người, bình thường như lá cỏ. Nhưng điều kỳ diệu
hơn con người là sự hiện diện của người ấy là sự có mặt của năng
lượng thương yêu và tuệ giác. Người ấy rãi lòng từ trên nhân
gian làm dịu lửa oán thù chất ngất, hóa thân vào văn hóa các địa
vực và còn hứa hẹn triệu triệu lần rong chơi cõi tử sinh. Ôi
bóng của người ấy lồng lộng cõi nhân gian, chúng ta có nói ngàn
vạn lời cũng chỉ là vẽ được nét hằn trên mặt nước!“
Được ngồi yên lặng bên Sư Ông, đã là hạnh phúc lớn đối với
Nguyễn. Nhưng Nguyễn cảm thấy còn có niềm thao thức trong lòng
muốn được hỏi Sư ông. Nguyễn muốn được nghe lời dạy của Sư ông
và Nguyễn đã mạnh dạn chấp tay:
„Kính thưa sư ông, con là sinh viên đến từ Việt nam… Con không
đủ khả năng để tranh được một chỗ làm mà con rất ao ước. Con
phải tìm cách nhờ cậy, đút lót để có được chỗ làm đó vì con cần
có việc làm, có lương tiền để giúp đỡ bố mẹ con. Sư ông cho con
một lời khuyên.“
Sư ông nhìn sâu vào mắt Nguyễn. Sư ông bảo, Sư ông hiểu tâm
trạng của Nguyễn. Hối lộ và tham nhũng hiện là một quốc nạn của
đất nước và nó không chừa một chỗ nào, kể cả trong nhà chùa,
trong giáo hội. Sư ông và tăng đoàn trong các chuyến về thăm và
hoằng pháp ở Việt Nam cũng đã nhiều lần gặp phải những khó khăn
đó. Nhưng Sư ông và các thầy cô quyết dứt khoát với chuyện hối
lộ. Đó cũng là một cách cống hiến cho đất nước, dù gặp rất nhiều
trở ngại, khó khăn. Con cũng vậy, con có thể kiếm một công việc
lương ít hơn một chút nhưng không cần phải hối lộ, phải đút lót.
Mình không chỉ nuôi cha mẹ bằng tiền mà mình còn nuôi cha mẹ
bằng lòng chính trực, bằng sự ngay thẳng, bằng đạo đức của mình.
Hạnh phúc của cha mẹ sẽ lớn hơn bội phần. Sư ông chúc Nguyễn có
niềm vui và nhiều may mắn trên con đường đó.
Nguyễn sung sướng nghe lời dạy bảo của Sư ông. Sư ông trả lời
cho Nguyễn thật ngắn gọn, nhưng những lời của Thầy đi vào lòng
Nguyễn thật sâu. Nhất là ánh mắt của Sư ông dành cho Nguyễn, khi
Sư ông bảo Thầy hiểu được tâm trạng của Nguyễn, thì mắt Nguyễn
cũng sáng lên bắt gặp ánh mắt thông cảm và yêu thương của Sư
ông. Bởi Nguyễn đâu phải chỉ hỏi cho Nguyễn đâu? Ngược lại,
Nguyễn đang là nạn nhân của tệ nạn tham nhũng,
hối lộ đó. Cái
„dịch“ tham nhũng và hối lộ đang lây lan khắp mọi người và
những vi khuẩn của nó đang làm thối rữa cả xã hội. Làm cách nào
để những người như Nguyễn và các bạn trong thế hệ trẻ của Nguyễn
góp phần xây dựng một xã hội có công bằng, nhân ái?
Câu trả lời của Sư ông cho Nguyễn một niềm tin. Hãy bắt đầu từ
chính mình, trước khi chờ đợi xã hội thay đổi. Tất nhiên, Nguyễn
phải lường trước bao nhiêu chướng ngại, khó khăn sẽ gặp cũng như
chính Sư ông, đã gặp bao khó khăn, chỉ vì con đường Sư ông đã
chọn.
Người ta cản trở, phá hoại, đe dọa, trong gần năm chục năm hành
đạo của Sư ông, vẫn không làm Sư ông nao núng từ bỏ lý tưởng của
đời mình thì ngày nay có sá gì những bôi nhọ, xuyên tạc, trả đũa
nhỏ nhen của các thế lực ma vương đang nhắm vào những hạnh
nguyện to lớn của Sư ông. Điều đó không làm thay đổi con đường
của Sư ông đã đành, mà cũng không làm nao núng triệu triệu học
trò của Sư ông. Mà từ ngàn xưa, các bậc đạo sư lớn của nhân loại
như đức Phật Thích Ca, như Khổng Tử, như chúa Jésu… mấy ai đã
tránh khỏi những sợ hãi hay ganh tị, thù hằn, của các thế lực ma
quỷ đó. Đức Phật từng là nạn nhân sự vu khống của các giáo sĩ
Bà La Môn, chỉ vì tín đồ của họ đi theo tu học với Ngài ngày
càng nhiều; đã từng là mục tiêu hãm hại của Đề-bà-đạt-đa, người
vừa là em họ vừa là đệ tử của Ngài chỉ vì lòng đố kỵ. Thời Xuân
Thu Chiến Quốc, đức Khổng Phu tử cũng chỉ vì muốn giáo hóa lễ
nghĩa cho mọi người mà bị vua quan các nước bao vây và tuyệt
lương giữa rừng hai nước Trần, Thái. Còn Chúa Jésu đã làm gì để
phải bị dân Do Thái xua đuổi, liệng đá và bị đóng đinh trên
thánh giá, nếu không phải là đi rao giảng Tin Mừng? Những kẻ
cuồng tín, thời nào chẳng có. Nếu không, làm sao những bậc vĩ
nhân như thánh Gandhi, như Mục sư Luther King, như Tổng thống
Kennedy lại bị sát hại?
Buổi pháp đàm kết thúc, một ngày sắp hết, nhưng lòng Nguyễn mở
ra một không gian rộng lớn hơn nhiều. Phía trước là niềm tin, là
tình thương và hạnh phúc của con người đã có hướng đi.
Ngày sắp hết, nhưng Nguyễn không buồn, trái lại chan chứa một
niềm vui, như bài thơ của người bạn Nguyễn, Thu Huyền, sáng tác
nhân buổi chiều cùng đại chúng xóm Trung ngắm mặt trời lặn trên
đồi hoa Hướng Dương:
Những câu thơ viết lúc hoàng hôn
Cũng giống như tàu rời ga chuyến cuối
Biết trước mặt mình là bóng tối,
Vẫn ra đi
Những câu thơ muốn nói điều chi
Mà bất lực trước thiên nhiên hùng vĩ
Đêm tiếp ngày nối chân mây tím ngắt
Câu thơ chìm vào tĩnh lặng mênh mông
Viết lúc hoàng hôn
Câu thơ như vệt nắng cuối ngày còn sót lại
Hóa thân thành ngàn sao thao thức mãi
Đợi ngày mai thắp sáng lại mặt trời
Giản đơn như con nước đầy vơi
Cũng sâu sắc như lẽ đời đơn giản vậy.
Mặt trời đã chìm sâu sau đỉnh núi. Vệt nắng cuối cùng rồi cũng
tan. Đại chúng thong thả từng bước trở về xóm. Nguyễn cũng chậm
rãi đếm từng bước hạnh phúc của đời mình trên cánh đồng nho miền
Nam nước Pháp. Nguyễn chợt nhận ra chẳng biết từ lúc nào bước đi
của mình cũng bình yên, tự tại như vẻ bình yên tự tại của các
thầy, các sư cô
Làng Mai trên đường phố Hà nội năm nào. Nguyễn
không còn đơn độc trên con đường trước mặt. |