Nghe
tiếng chuông ngân
Hơn
một tháng qua, kể từ khi bắt đầu vận động đúc một đại hồng chung cho
ngôi chùa ở thôn quê—dù rằng cho đến giây phút ngồi đây, viết những
giòng chữ này, quả chuông vẫn chưa khởi sự đúc—tôi đã nghe được
tiếng chuông của ngôi chùa ấy ngân lên mỗi sáng chiều rồi.
Trong bài
kệ nghe chuông mà các chùa thường đọc, và thường được khắc lên đại
hồng chung, có mấy câu này:
“Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ
Trí huệ lớn, bồ-đề sanh
Lìa địa ngục, thoát hầm
lửa
Nguyện thành Phật, độ
chúng sanh.”
Chỉ cần
lắng nghe tiếng chuông không thôi, cũng thấy phiền não vơi nhẹ trong
lòng. Phiền não vơi thì trí tuệ mới có cơ hội phát sáng, mà tâm
bồ-đề cũng nhờ đó mà phát sanh. Những khổ đau, ách nạn, chướng duyên
phải đối diện trong đời chính là địa ngục, là hầm lửa, đốt lên bao
nhiêu phiền muộn, lo âu, sầu não. Chúng ta chỉ có thể vượt thoát
được các phiền muộn khổ đau ấy khi tâm bồ-đề khởi sanh và trí tuệ
tăng trưởng; hoặc có thể nói ngược lại, khi tâm bồ đề khởi sanh và
trí tuệ phá chấp tăng trưởng, thì các phiền não tự động tiêu tan.
Tiếng chuông là nhân duyên xúc tác để làm khởi sinh tâm bồ đề, tiêu
trừ các phiền não.
Vì vậy,
ngay từ ngày đầu tiên bắt đầu ghi danh sách những người ủng hộ đúc
chuông chùa Thanh Trì, tôi đã cảm nhận sâu sắc tâm bồ đề của mọi
người, như những đóa hoa sen, từ khắp nơi rộ nở, và mỗi đóa hoa ấy
đã phát ra một tiếng chuông ngân dài. Đó là tiếng của bồ-đề tâm. Như
vậy, có thể nói rằng chuông chưa đúc mà đã nghe tiếng ngân.
Từ mấy
năm trước, Sư cô trụ trì đã cầu nguyện cho nhân duyên đúc đại hồng
chung cho chùa Thanh Trì được thành tựu. Đến khi khởi sự ghi danh,
từ người đầu tiên, Sư cô và ni chúng đã làm lễ cầu an, chú nguyện,
hồi hướng công đức cho người phát tâm vào mỗi thời kinh của chùa, và
vẫn liên tục cầu nguyện cho phật sự đúc chuông được thuận lợi, viên
mãn.
Dù vậy,
theo Sư cô cho biết, vẫn còn lo ngại không biết sự ủng hộ của mọi
người trong tình hình kinh tế khó khăn của toàn cầu—mà ngay cả ở
vùng xa xôi của đất nước cũng cảm nhận được qua giá gạo tăng vọt,
liệu có đủ tài chánh để đúc chuông hay không. Tôi trấn an Sư cô và
hứa nếu sự đóng góp qua giới thiệu của báo và trang lưới điện toán
không đủ, chính tôi sẽ mang sổ công đức để làm kẻ “hành khất” đến gõ
cửa các bằng hữu, hoặc một số chùa quen biết tại hải ngoại, cho đến
khi nào đủ tịnh tài đúc chuông.
Một tuần,
hai tuần, vẫn chưa đủ số tiền. Nhưng theo góp ý của một số tăng ni
và phật tử, không nên chờ đến khi đủ tiền rồi mới đặt cọc đúc chuông
mà phải đặt cọc sớm để có được thời giá hiện tại; nếu đợi đủ tiền
mới đặt cọc thì có thể lúc đó giá tiền đúc chuông lại tăng cao thêm.
Do vậy, Sư cô đã sớm ra Huế, với sự hướng dẫn của một vị hòa thượng
tôn túc, đã đến lò đúc chuông để chính thức đặt cọc một phần ba số
tiền đúc quả chuông nặng năm tạ, vào ngày 26/6/2008. Ngày đó, tiền
quyên góp chưa được một nửa mà đã quyết định đặt cọc, chứng tỏ ngoài
niềm tin nơi sự gia hộ của Tam Bảo và hộ pháp thiện thần, Sư cô đã
rất tin tưởng nơi tâm bồ-đề của phật tử khắp nơi cho phật sự đúc
chuông này.
Quả nhiên
đến tuần thứ ba thì tiền vận động đã được ba phần tư, rồi tuần lễ
thứ tư, đúng một tháng kể từ ngày lập phương danh ủng hộ, không
những đầy đủ tịnh tài đúc chuông mà còn vượt quá số tiền mong đợi.
Sư cô nghe báo tin đã nhận đủ số tiền, vô cùng hoan hỷ, nhưng cũng
vội vã nhờ tôi thông báo kết thúc ngay việc vận động. Sư cô còn băn
khoăn không biết số tiền dư sau khi trang trải mọi chi phí cho việc
đúc chuông, tổ chức Lễ Rót Đồng, Lễ Khai Chung, sẽ phải hoàn lại như
thế nào cho các phật tử đóng góp. Đúng là cái tâm rất là “nhà chùa
thôn dã.” Tôi nói, “Không thể hoàn trả được đâu thưa Sư cô, vì đây
là tấm lòng của phật tử đối với đại hồng chung của chùa, phải đón
nhận và cầu nguyện, hồi hướng công đức của họ, nếu dư thì thông báo
là sẽ sử dụng để làm phật sự khác, hoặc làm việc từ thiện giúp cho
thôn xóm địa phương.”
Được hỏi
về phật sự của chùa, Sư cô cho biết dĩ nhiên có nhiều phật sự vẫn
đang chờ đợi thuận duyên mới thực hiện; nhưng phật sự trước mắt mà
Sư cô hi vọng với số tiền đúc chuông dư lại có thể tiến hành là cất
một dãy nhà gọi là “tịnh nghiệp đường” dành cho phật tử nghỉ lại đêm
tại chùa mỗi khi có tổ chức Bát Quan Trai-Giới hoặc Khóa Tu Niệm
Phật. Thường khi, mỗi lần có khóa tu, khoảng trên tám mươi phật tử
nam nữ phải nghỉ lại đêm, chia nhau nằm la liệt trên chánh điện hoặc
nhà ăn, phòng khách. Tối kỵ nhất là để phật tử nghỉ lại đêm nơi
chánh điện, dù rằng về mặt tâm lý, con Phật được gần với Phật sẽ cảm
thấy ấm cúng, gần gũi, an bình, nhưng trên hình thức thì làm kém vẻ
tôn nghiêm đối với nơi thờ kính Tam Bảo. Đây là điều Sư cô quan tâm
nhất, do đó, nếu tiền đúc chuông có dư, việc nghĩ đến trước tiên là
cất một tịnh nghiệp đường, một dãy nhà đơn giản chỉ cần đủ che mưa
nắng, để phật tử có thể lót đệm nghỉ qua đêm. Trong những ngày
thường, tịnh nghiệp đường có thể dùng làm phòng học, hội họp, hoặc
dùng làm phòng ăn tiếp đãi bá tánh vào mỗi dịp lễ lớn. Tịnh nghiệp
đường vì thế sẽ là một dãy nhà đa dụng, rất cần thiết và hữu ích cho
sinh hoạt của chùa. “Phí tổn để cất dãy nhà này chưa rõ là bao nhiêu
nhưng chắc chắn là chỉ sử dụng số tiền còn dư lại của phật sự đúc
đại hồng chung chứ không vận động thêm nữa,” Sư cô khẳng định như
thế.
Một vài
ngày sắp tới Sư cô và ba vị ni khác sẽ đại diện chùa, đáp tàu hỏa đi
Huế để kịp tổ chức Lễ Rót Đồng tại phường đúc vào ngày 23/7/2008. Lễ
này sẽ có chư vị tôn túc Tăng Ni tại Huế đến chứng minh, chú nguyện.
Theo lệ thường, lễ rót đồng rất quan trọng. Trong lễ đó, chư tăng ni
sẽ tụng kinh chú cầu nguyện cho việc đúc chuông được thành tựu viên
mãn, chuông sẽ có tiếng kêu và ngân hay, không bị rè hoặc tắc tiếng
(một số trường hợp như vậy xảy ra khi phước duyên của thí chủ và
ngôi chùa không đủ), và với sự gia trì của tăng ni, đại hồng chung
không phải chỉ là một khối đồng vô tri mà sẽ có năng lực làm sứ giả
của thiền môn, đánh thức, cảnh tỉnh, giảm thiểu khổ đau, mang lại sự
an lạc nhẹ nhàng cho người nghe được. Có một nghi thức và những kệ
chú đặc biệt dành cho buổi lễ rót đồng này. Cũng trong buổi lễ đó,
chư tăng ni sẽ cầu nguyện hồi hướng công đức cho những thí chủ đã
phát tâm cúng dường. Và để thành tựu việc đúc chuông một cách trọn
vẹn, người cúng dường và ngôi chùa đón nhận cúng dường (qua đại diện
là vị trụ trì) đều nên thành tâm cầu nguyện, tạo nên một mối cảm ứng
linh thiêng cho sự hình thành một pháp khí của thiền môn. Pháp khí
này, về mặt diệu dụng, có công năng phá trừ phiền não, khởi sanh
bồ-đề tâm; về mặt hình thức là một biểu tượng văn hóa Phật giáo có
chu kỳ tồn tại ở đời dài lâu hơn những động sản hay bất động sản
khác của chùa. Một ngôi chùa vài trăm năm đã cần trùng tu; nhưng một
đại hồng chung tốt thì chỉ đúc một lần, có thể có tuổi thọ ngàn năm.
Thử tưởng
tượng chuông chùa Thanh Trì sẽ có mặt ở đời đến một ngàn năm sau,
hoặc khiêm nhường hơn, chỉ năm trăm năm sau thôi, sẽ như thế nào.
Trong năm trăm năm ấy, sẽ có nhiều vị ni hoặc tăng (không biết
chừng) thay nhau trụ trì chùa Thanh Trì. Ni chúng, hay tăng chúng,
cũng theo thời gian mà thay đổi, hết lớp người này đến rồi đi, rồi
lớp người khác. Phật tử đến chùa cũng thay nhau nhiều thế hệ. Ngôi
chùa sẽ trùng tu bao nhiêu lần. Phòng ốc, vật dụng trong chùa, hư
rồi tạo dựng hay sắm lại biết bao nhiêu lần. Cây cối, vườn tược,
cũng đổi thay theo mùa, theo mỗi trăm năm. Nhưng đại hồng chung vẫn
sừng sững còn đó, vững vàng như một quả núi. Mỗi ngày chuông gióng
lên hai bận, cứu độ hoặc cảm hóa bao nhiêu chúng sanh cõi người, cõi
trời, cõi âm, cõi dương, trong sáu nẻo luân hồi. Mỗi tiếng chuông
gióng lên nếu có tác động đến một chúng sinh nào khiến phát bồ-đề
tâm, hoặc phát lòng niệm Phật, hoặc khởi tâm thiện, hoặc chỉ ngưng
việc ác, hoặc chỉ giảm phiền não, khổ đau, thì theo lý thuyết “thọ
hậu báo,” [1] các thí chủ cúng dường đúc chuông đều được thừa hưởng
công đức. Mỗi ngày trên hai trăm tiếng chuông, mỗi năm bảy mươi ba
ngàn tiếng, và trong năm trăm năm, chuông đó gióng lên ba mươi sáu
triệu năm trăm ngàn tiếng, sẽ tác động đến bao nhiêu chúng sanh, và
bao nhiêu chúng sanh đó sẽ làm lợi ích hoặc cảm hóa được bao nhiêu
chúng sanh khác? Công đức cúng dường đúc chuông do vậy mà thành vô
lượng.
Tôi biết
khi phát tâm ủng hộ đúc chuông chùa Thanh Trì, bạn không hề nghĩ đến
phước báo hay công đức gì. Bạn đã phát tâm một cách vô tư, vô cầu.
Biết chùa cần chuông thì cúng chuông, vậy thôi. Nhưng ở đời, có
những cái muốn cầu cũng không có, và ngược lại có những điều không
cầu vẫn được. Khi hạt giống lành gieo xuống, không mong cầu kết quả
tốt, kết quả tốt vẫn cứ đến.
Vào dịp lễ Vu Lan năm nay, chuông chùa Thanh Trì do các bạn đóng góp
đúc nên, sẽ điểm những tiếng đầu tiên nơi thôn xóm nghèo xa xôi ấy.
Nếu vì không gian cách trở mà bạn không thể nghe được tiếng chuông
thực tế của chùa ngân vang như thế nào, hãy nhắm mắt lại cùng tôi ở
ngay phút giây này, lắng lòng, nghĩ đến niềm vui của ni chúng và
phật tử chùa Thanh Trì, nghĩ đến hàng triệu tiếng chuông kể từ lúc
chùa cử hành lễ khai chung, sẽ theo thời gian, từng ngày nối nhau đi
vào không gian, đi vào lòng người…
Tiếng chuông chùa Thanh Trì đã ngân vang trong bạn rồi đó.
California, ngày 16 tháng 7 năm 2008
[1] Tức là những báo ứng nhận được sau khi một tác nghiệp đã hình
thành – ví dụ, khi cúng dường đúc chuông, người cúng dường thọ nhận
phước báo tức khắc của sự phát tâm cúng dường, đến khi quả chuông
hình thành và mỗi ngày gióng lên, tùy theo tác động của tiếng chuông
mà thí chủ cúng dường được thọ nhận thêm phước báo khác. Sự thọ nhận
sau gọi là “thọ hậu báo.”
|
|
|
|