- PSN
| 29.10.2007 | Trần Lý
Thưa ông Nguyễn Bá Long,
Từ lâu tôi đã “gác kiếm” không chính thức tham gia hay theo dõi hoạt
động của các tổ chức chính trị chống cộng của người Việt tị nạn cộng
sản tại hải ngoại. Lý do không phải vì chế độ cộng sản đã chấm dứt,
cũng không phải cộng sản đã tốt quá rồi, mà chỉ vì tôi không thể chấp
nhận phương cách đấu tranh đầy hận thù sắt máu và không thực tế của
những người tự nhận là “chiến sĩ” của tự do, dân chủ sẵn sàng “thí
mạng với cộng sản” như là ông.
Bẵng đi một thời gian dài, hơn mười năm, tôi đã quên mất tên và
khuôn mặt ông trong ký ức, vì con người ông chẳng có gì đặc biệt để
nhớ ngoài cái “mác” tiến sĩ mà ông thường đính kèm theo cái danh của
ông, cũng như các hoạt động chống cộng bằng mồm rất an toàn ở các nước
tự do. Bây giờ đọc bài viết của ông, “Các vấn đề đối với Phật giáo và
con đường của Phật tử Việt Nam: Bàn về Đại Hội Mississauga ngày
21-23/9/2007”, dưng không tôi buồn cười nhớ lại buổi sơ ngộ giữa ông
và tôi tại San Jose, tại chùa X. Lúc đó, chỉ vừa nghe sư phụ tôi giới
thiệu sơ qua về tôi (không phải là người tài mà chỉ là người có lòng)
là ông đã mau mắn tiếp xúc, mời tôi tham dự đại hội dân chủ hay quốc
dân gì đó do ông tổ chức, và không quên dùng cái mồi danh lợi để
thuyết phục tôi: “Mình còn nhiều ghế trống lắm, mời bạn tham gia, thế
nào cũng có chỗ ngồi tốt cho bạn”. Chỉ ngay ở câu nói ấy, của một
người đấu tranh chống cộng, chuẩn bị một đại hội dân chủ, lại đưa ra
trước một người chưa hề quen biết, tôi đã thấy ngay cái tổ chức nào đó
do ông thành lập sẽ là một tổ chức ô hợp chẳng ra gì; không những vậy,
có thể chỉ là một chiêu bài của cộng sản nhằm chiêu dụ một số trí thức
hời hợt, thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh, gom vào một tổ chức tuy mặt
ngoài chống họ, nhưng lại dễ cho họ theo dõi, kiểm soát, nắm được động
tĩnh.
Nhưng đó là chuyện của quá khứ, lại là chuyện riêng tư giữa ông và
tôi, vô bằng vô chứng, không cần phải bàn sâu ở đây để rồi tôi bị
vướng vào cái lỗi suy diễn mông lung, kết luận hàm hồ giống như ông
trong bài viết nói trên. Tôi đưa ra chuyện xưa và lý do tại sao không
bàn rộng là để nhấn mạnh với ông rằng, cách viết những bài “bàn về”
một cách thiếu luận chứng của ông không phải là hành xử của một người
mệnh danh trí thức. Nếu chỉ tiếp xúc vài ba người, đọc vài ba tin tức
một chiều thuận với quan điểm của mình, suy luận rồi quy nạp, đưa ra
những kết luận chắc nịch về một vấn đề nào đó của cá nhân, tập thể
(tôn giáo hay chính trị) thì ai cũng có thể kết tội người khác là cộng
sản, và ai cũng có thể bị vu khống là cộng sản cả. Đây là lối viết
(hay phát ngôn) thiếu văn hóa, phản khoa học, phản dân chủ, vô trách
nhiệm, mà chính người cộng sản đã từng dùng để bịt miệng và tiêu diệt
những người đối lập với họ từ xưa đến nay.
Đáng lẽ tôi không cần tốn thời gian để “bàn về” cách viết bừa bãi
tùy tiện của ông vì đối với tôi, bài viết của ông giống như một đống
rác thối, không đáng để ghé mắt. Nhưng ngặt nỗi là vài điểm kết luận
vu vơ của ông lại góp phần gây ngộ nhận và chia rẽ trong cộng đồng
người phật-tử khiến cho vài bạn đạo của tôi hoang mang, ngần ngại về
“các vấn đề Phật giáo”, do đó, tôi buộc lòng phải lên tiếng để cảnh
giác về hành vi phá hoại vô lương tâm của ông.
Thưa ông Nguyễn Bá Long, điều mà ông gọi là “phân tích các sự kiện
để rút ra một số kết luận khoa học” là một tiền đề (premise) mở rộng,
không giới hạn, do đó nó cho phép ông suy diễn để đưa ra một số kết
luận theo ý riêng của ông, nhưng hẳn là ông phải thừa nhận tính đúng
đắn và căn bản của luận lý học (logic) là tiền đề đưa ra phải có tính
phổ quát và xác thực thì mới dẫn đến kết luận xác thực và phổ quát.
Một tiền đề mà chỉ là phán đoán, cục bộ, đơn phương, thành kiến, thì
không thể làm chỗ luận cứ cho kết luận. Ví dụ:
-
Ông Nguyễn Bá
Long thường hô hào chống cộng nên ông không phải là cộng sản
-
Ông VVA cũng
thường hô hào chống cộng nên ông cũng không phải là cộng sản
-
Chắc chắn họ
không phải là cộng sản và họ là bạn thân của nhau vì cả hai đều hô hào
chống cộng.
Lập luận ở trên là ứng dụng cách thức mà ông NBL dùng để qui chụp,
vu khống, kết án những Tăng Ni và phật-tử không cùng quan điểm với ông
và với hai vị lãnh đạo GHPGVNTN tại Hoa Kỳ. Lập luận như thế không giá
trị và không có tính thuyết phục, vì ở cả hai tiền đề đưa ra đều không
mang tính xác thực và phổ quát. Lý do là trên thực tế sinh hoạt chính
trị, thường hô hào chống cộng không nhất thiết là người thực sự chống
cộng. Người cộng sản đã từng tạo ra những tổ chức mệnh danh là chống
cộng nhưng thực ra là để gây chia rẽ, phá tan sự đoàn kết của các
thành phần đối lập. Hai tiền đề đầu đã không xác thực thì tổng đề
không thể dẫn đến kết luận khả tín và phổ quát nào. Thực tế cho thấy
ông Nguyễn Bá Long đã từng chỉ trích, xuyên tạc các cá nhân và tổ chức
chính trị đối lập khác (như trường hợp ông ĐVH trong bài viết của
ông), nên không thể kết luận rằng tất cả những người chống cộng khác
đều là bạn thân của ông.
Xét “các sự kiện” mà ông Nguyễn Bá Long (NBL) đưa ra về vấn đề Phật
giáo, người ta thấy gì? Đâu là tính xác thực của “các sự kiện”? Ông
NBL cho biết là “đã điện đàm trao đổi khá lâu với các vị lãnh đạo
GHPGVNTN Hải Ngoại” (qua hai nhân vật chỉ có cái danh vị PCT Nội
Vụ VPII – VHĐ và TTK mà không còn chút uy tín nào trong GHPGVNTN Hoa
Kỳ chứ đừng nói là trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại), “cũng như
với Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu và GS TTK Giáo Hội PGVN Trên
Thế Giới”, rồi từ trao đổi với những nhân vật này, ông phân tích,
suy diễn, rút ra kết luận “về các vấn đề Phật giáo”. Đúng là một cách
luận lý hồ đồ, phản khoa học, vậy mà ông lại dám tự hào là “kết luận
khoa học” và lại tự đề cao quá đáng khi cho rằng những suy diễn và kết
luận của ông “nhằm giúp cho Giáo Hội PGVNTN… tìm ra được hướng đi
trước những khó khăn và nguy cơ do CS và tay sai mang lại”.
Với những kết luận hồ đồ của ông NBL về Phật giáo mà ông vốn không
am tường, chỉ nghe qua vài cá nhân bằng điện đàm, tôi tự hỏi lương tâm
của người trí thức thời đại đặt ở đâu mà sản sinh ra một tiến sĩ kém
cỏi (chắc là tiến sĩ ma?), sẵn sàng phát ngôn tầm phào thiếu căn cứ
như thế và với mục đích gì?
Sau đây, tôi thử đưa ra vài câu hỏi để ông NBL tự trả lời và sẽ thấy
lối lý luận bất lương, võ đoán của ông như thế nào đối với những sự
việc quan trọng của Phật giáo.
-
Về vấn đề của
GHPGVNTN tại hải ngoại, ông NBL cho rằng nội bộ GHPGVNTN Hải Ngoại đã
nẩy sinh hai nhóm, nhóm A “chết sống với đường lối của giáo hội” và
nhóm B thì “cực lực tuyên truyền cho con bài Tuệ Sĩ” (nguyên
văn của ông). Vậy xin hỏi, do đâu ông là người ngoại cuộc mà lại biết
có hai nhóm như thế? Và nếu có hai nhóm, ông có biết nhóm nào thuộc đa
số, nhóm nào thuộc thiểu số không? Nếu ông chỉ nghe một chiều từ nhóm
A thiểu số thì chắc chắn sẽ không công bằng đối với nhóm B đa số, và
ngược lại cũng vậy. Hơn nữa, chuyện nội bộ của GHPGVNTN trong và ngoài
nước mà lại được hai thành viên lãnh đạo cao cấp của giáo hội ấy tiết
lộ tỉ mỉ cho ông, một người phật-tử không thuần thành, không am hiểu
Phật giáo, không hề tham gia sinh hoạt trong tổ chức giáo hội, là một
người đấu tranh chính trị chỉ đến các chùa để nhờ vả và vận động quần
chúng, thì liệu rằng những tuyên bố của ông có đáng tin cậy không? Nếu
lời ông nói là sự thực, nghĩa là hai vị lãnh đạo giáo hội kia có tiết
lộ cho ông nghe hết mọi chi tiết về nội bộ giáo hội, chỉ trích, kết
tội đa số (xin nhấn mạnh: đa số) những thành viên khác là cộng
sản, thì chính hai nhân vật lãnh đạo kia có vấn đề đối với giáo hội.
Sao ông lại có thể hời hợt nhắm mắt tin càn, nói càn?
-
Để kết luận một
vấn đề phức tạp của một tập thể, nhất là tập thể tôn giáo, một người
có lương tâm và thiện chí nhận thức đúng đắn sự thực tất phải tìm hiểu
cặn kẽ từ nhiều phía, ông đã làm việc này chưa? Nếu đã được nhóm A
thiểu số (với hai nhân vật có danh mà không có thực như đã nói ở
trước) tiết lộ chuyện nội bộ giáo hội, có khi nào ông nghĩ đến việc
tìm hiểu thêm từ nhóm B đa số hay không? - Ở đây xin mở ngoặc thêm:
nếu ông có ý tìm hiểu từ nhóm B đa số, chắc chắn là không thành công,
vì hai lý do: a) nhóm B sẽ không tiết lộ bất cứ chuyện nội bộ nào của
giáo hội cho ngoại nhân, dù chuyện nội bộ ấy thuận lợi cho họ, bất lợi
cho nhóm A thiểu số; và b) tư cách ngoại nhân của ông NBL không đáng
tin cậy, vì là người có tiếng háo danh trong cộng đồng người Việt tị
nạn cộng sản tại Canada, chuyên hoạt động chính trị và lợi dụng Phật
giáo chứ không có thành ý gì trong việc xây dựng, củng cố và phát
triển Phật giáo.
-
Tại sao lại có
chuyện hai người lãnh đạo giáo hội tại hải ngoại tiết lộ cho ông NBL,
một người không phải phật-tử và không có liên hệ nào với giáo hội mà
chỉ là một người hoạt động chính trị đảng phái, nghe hết chuyện nội bộ
giáo hội? Tại sao hai người này không thể tìm đến quý Tăng Ni thuộc
GHPGVNTN cũng như các giáo hội khác để trình bày chuyện giáo hội và
kêu gọi sự ủng hộ mà lại chạy rông để tìm hậu thuẫn từ những chính
khách, những tổ chức chính trị thế gian? - Chính vì họ đã bị cô lập,
không còn được tín nhiệm từ số đông Tăng Ni tại hải ngoại. Nếu ông NBL
có học thức và chút nhạy bén tất sẽ nhìn ra khía cạnh tế nhị này. Rất
tiếc, cái đầu của ông đặc sệt thứ thành kiến què quặt một chiều, làm
sao có thể hiểu nổi vấn đề, nhất là vấn đề Phật giáo, ngoài cơ cấu tổ
chức, còn là con đường tâm linh với nền giáo lý thậm thâm vi diệu mà
ông chưa hề được cơ hội đọc qua.
-
Ông NBL cho rằng
ở Canada, duy nhất chỉ có Thượng Tọa Thích Thiện Tâm là “quyết lòng
sống chết với đường lối của GHPGVNTN”, còn ngoài ra thì đều thuộc nhóm
B, tức là theo cộng sản. Tôi cảm thông cho ông ở điểm là với tuyên bố
này, ông cũng chỉ nói theo “tiết lộ” của hai nhân vật lãnh đạo giáo
hội tại Hoa Kỳ mà thôi, chứ không phải do ông tùy hứng mà phát biểu.
Nhưng dù cảm thông thế nào cũng không thể tha thứ được cho một người
tự xưng trí thức, có ăn học, lại thiếu suy nghĩ, thiếu cân nhắc để rồi
tuyên bố một cách nông cạn và quá hồ đồ như thế trong một bài viết phổ
biến trên truyền thông báo chí. Cũng may là tuyên bố của ông nhắm vào
một tập thể Tăng Ni từ bi, nhẫn nhục, chứ nếu mà đụng đến một cá nhân
hay tổ chức thế tục nào, chắc chắn ông sẽ bị kiện ra tòa với tội danh
vu khống, nhục mạ, chụp mũ kẻ khác một cách vô bằng (như là hòa thượng
ở Chùa Như Lai, Colorado từng bị kiện và bị bắt bồi thường gần 5 triệu
Mỹ kim, tốn hao tài sản của đàn na tín thí khi chụp mũ vài cá nhân
phật-tử yếu đuối khác là cộng sản, chỉ vì họ tố cáo mình tội sách
nhiễu tình dục). Vấn đề Thượng Tọa Thiện Tâm là người duy nhất “quyết
lòng sống chết với đường lối của giáo hội” mà ông NBL xác quyết cũng
là vấn đề mà thiết nghĩ ông nên tự tra vấn lại hay hơn là để tôi chỉ
điểm. Ông có thể tự hỏi như thế này: có xác đáng hay không trường hợp
chỉ có một người quyết lòng sống chết với đường lối của giáo hội, còn
hàng chục, cho đến hàng trăm người khác (nói riêng tại Canada mà thôi,
chưa kể Hoa Kỳ và các quốc gia khác) đều sai lầm, chạy theo cộng sản
cả? Điều này, hai vị lãnh đạo giáo hội tại Hoa Kỳ “tiết lộ” riêng qua
điện đàm có khả tín không? Đường lối của GHPGVNTN là gì, dài hạn thế
nào, ngắn hạn ra sao, đúng hay sai mà chỉ có một người quyết lòng sống
chết còn hàng trăm kẻ khác thì không? Ông có biết GHPGVNTN tại
Canada do ai lãnh đạo, và gồm những thành viên nào trong khu vực, trong
các tỉnh bang, trên toàn quốc không? Thông thường ở đời, lẽ phải nằm ở
phía thiểu số hay đa số? Nếu lẽ phải được cho là nằm ở phía thiểu số
(ví dụ như thiểu số đảng viên cộng sản) thì ông NBL nên tìm hiểu lẽ
phải ấy qua nhóm thiểu số đảng viên cộng sản hay là tìm hiểu nơi đa số
nhân dân?
-
Ông NBL có biết
rõ người xưng là PCT Nội Vụ VPII-VHĐ, người tiết lộ những chuyện nội
bộ của GHPGVNTN cho ông nghe, là con người như thế nào không? Nếu biết
đây là con người mang nhiều tai tiếng trong giáo hội và từng hầu tòa
về tội sách nhiễu tình dục, sau đó bị xử phạt về tội vu khống, mạ lị
cá nhân, chụp mũ kẻ khác cộng sản khiến cho họ và gia đình không thể
sống bình thường giữa cộng đồng tị nạn, thì trước khi lắng nghe những
tố giác của người ấy đối với nhiều thành viên khác của giáo hội, ông
NBL có nên tìm hiểu thêm sự thực về cá nhân ấy không, hay là cứ nhắm
mắt tin hết những gì cá nhân ấy nói? Ông NBL có bao giờ tự hỏi tại sao
một người tu hành mà lại đi tố giác, nói xấu những pháp hữu và hàng
hậu học khác của mình bằng những lời lẽ thiếu đạo hạnh, đầy hận thù,
sắt máu? Lời lẽ của một người tu hành như thế có đáng tin cậy hay
không? Một người ở chùa bao nhiêu năm lại mở miệng ví các trung tâm
văn hóa và cơ sở chùa chiền tôn nghiêm của Phật giáo là “những pháo
đài” chỉ vì những người ở các chùa ấy không cùng quan điểm với mình,
thì có nên tin bừa những phát ngôn của người ấy hay cần phải xét lại?
-
Trong bài viết
của ông NBL, phần IV, có tựa là “Đại hội Mississauga và con đường
tương lai của Phật giáo VN”, người đọc không thấy có chi tiết nào
nói về “Đại hội Mississauga”, cũng không thấy nói về “con đường tương
lai của Phật giáo VN”. Điều này cho thấy: một là ông NBL viết bài này
trong một tâm trạng hứng chí bốc đồng sau khi nghe chuyện từ PCT Nội
Vụ VPII-VHĐ, cho nên lối viết lung tung, lạc đề, để rồi quên mất cái
đề mục đưa ra ban đầu; hai là, ông NBL chủ yếu chỉ nêu ra ý chính là
vội vã ngăn chận “Đại hội Mississauga” bằng phán quyết tối hậu dựa
trên thẩm quyền tối cao của Viện Hóa Đạo, nên không cần biết, không
cần hiểu cái “Đại hội Mississauga” là gì cả. Trí thức mà viết một bài
ngắn đầu đuôi không ra gì, chỉ biết nói theo lời kẻ khác một cách u
mê, cuồng tín, không chịu động não, như là vẹt nói, thì dù có mười cái
bằng tiến sĩ thì cũng chỉ là rác rến cả, uổng công cha mẹ và quốc gia
nuôi ăn học. Thưa ông NBL, xin ông hãy chịu khó đọc kỹ các văn bản
liên quan đến “Đại hội
Mississauga”
(từ của ông đặt ra) để hiểu nó là cái gì đã, trước khi đưa ra nhận
định của ông. Thực ra, chẳng có đại hội nào xảy ra ở Mississauga
Canada cả, mà chỉ có “Ngày Về Nguồn” được tổ chức từ ngày 21 đến 23
tháng 9 năm 2007 tại Chùa Pháp Vân, Canada. Ngày Về Nguồn, theo thư
mời chính thức đã phổ biến công khai từ nhiều tháng nay trên khắp các
trang lưới điện toán và báo chí Phật giáo tại hải ngoại, là ngày hiệp
kỵ chư Tổ để Tăng Ni Việt Nam tại hải ngoại có cơ hội “tìm đến với
nhau trong một không gian thiền vị, ấm cúng đạo tình của những kẻ xuất
thế ly gia… lấy Tăng đoàn làm nền tảng, lấy sự nghiệp và sứ mệnh của
trưởng tử Như Lai làm trụ cột, từ đó gầy dựng và trùng hưng ngôi nhà
Phật giáo Việt Nam cho thế kỷ mới” (trích đoạn từ Thư Cung Thỉnh
Tham Dự Ngày Về Nguồn của Trưởng Ban Tổ Chức - Tỳ kheo Thích Tâm Hòa).
Đây là dịp để Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam có thể tương ngộ, mỗi năm một lần luân phiên tại các chùa, mỗi lần
khoảng 3 ngày. Tinh thần của Ngày Về Nguồn cao đẹp và đầy đạo tình như
thế, ông NBL không phải là phật-tử thì làm sao cảm nhận được; còn nếu
tự cho mình là phật-tử, hẳn nhiên ông phải biết rằng một khi Tăng đoàn
tụ hội trong thanh tịnh hòa hợp, bất cứ kẻ nào dù là tỳ kheo hay cư sĩ
tại gia có ý ngăn cản, chống đối, phá hoại, xuyên tạc, chỉ trích, đều
là hành vi cuồng vọng dẫn mình vào quả báo địa ngục vô gián với tội
“phá hòa hiệp tăng”.
-
Còn về việc ông
NBL nói hùa theo vị PCT Nội Vụ kia như cái loa, không cần suy nghĩ,
rằng “những đại hội nào do chính Giáo Hội PGVNTN - Quốc Nội hay Hải
Ngoại (tức Viện Hóa Đạo I hay VHĐ II) đứng ra tổ chức; tức nhiên đó là
CHÍNH DANH, còn những đại hội nào không do Văn Phòng I hoặc Văn Phòng
II VHĐ đứng ra tổ chức hoặc bổ nhiệm người tổ chức bằng văn thư, với
ấn ký của HT Quảng Độ (VHĐ) hoặc Hộ Giác (VP II - VHĐ), thì xin Phật
tử kiểm soát lại…” thì quả là đại ngôn, độc đoán. Dù cho chính
miệng vị PCT Nội Vụ kia nói ra câu ấy, ông NBL cũng phải xét lại,
trước khi viết ra trên giấy trắng mực đen chứ. Ông thử nghĩ xem, nếu
ông ĐVH (nhân vật mà ông nêu danh mấy lần trong bài viết của ông để
nhục mạ) tuyên bố rằng, bất cứ đại hội dân chủ (hay chính trị) nào
được tổ chức tại hải ngoại mà không do ông ĐVH chủ trì thì không có
chính danh, thì ông có đồng ý không? Tuyên bố như vậy có phản dân chủ,
phản tự do không? Cũng vậy, Tăng đoàn là tập thể tăng sĩ sinh hoạt
khắp nơi, khắp thời đại, không bị giới hạn trong giáo hội, tông môn,
pháp phái. Tăng đoàn muốn tập hợp thì tập hợp, đâu cần phải xin phép
ai, đâu cần phải thông qua bất cứ giáo hội nào. Giáo hội, hệ phái thì
có nhiều, nhưng Tăng đoàn thì chỉ có một.
Ở trên là vài gợi ý để ông NBL nếu còn chút lương tri, có thể tự vấn
và tự tìm ra con đường trở về với sự thật. Còn sau đây là đôi điều tôi
muốn nói chung cho những người thuộc nhóm A thiểu số nghe, mà ông NBL
cũng cần nghe qua để tường tận một số vấn đề của Phật giáo.
1) Quý vị đã chứng minh (một cách vu vơ không bằng chứng như Thầy
TKT trước đây) rằng những người ở tù cộng sản, hoặc có cái mác “tử
hình” của tòa án cộng sản, không nhất thiết là những người thực tâm
chống lại cộng sản, thì hệ luận của tiền đề này là: những người chưa
hề sống một ngày trong chế độ cộng sản như vị PCT Nội Vụ ở Colorado
(đi Đài Loan trước năm 1975 để tránh tai tiếng về chuyện không thanh
tịnh với phụ nữ), như ông VVA bên Paris (tham gia phản chiến từ trước
1975, viết bài ca tụng, ăn mừng “cách mạng thành công” vào năm 1976),
cũng như những người chưa hề ở tù cộng sản về tội “phản cách mạng” hay
“âm mưu lật đổ chính quyền” như ông NBL, hoặc chỉ ở tù cộng sản vì
nhậu xỉn, ăn nói bậy bạ đụng chạm chính quyền cộng sản (như TKT) đều
là những người đáng ngờ vực còn hơn là những người từng ở tù cộng sản
vì đấu tranh và nhận bản án tử hình đã nói ở trước. Những người chưa
hề biết cộng sản mà cứ luôn mồm chứng minh cho mọi người thấy sự tích
cực của mình trong việc chống cộng thì còn đáng ngờ vực hơn những
người từng sống với cộng sản, đem thân mạng của mình ra để đánh đổi
niềm hy vọng cho tương lai phúc lạc của toàn dân.
2) Người cộng sản sợ gì nơi thành phần đối lập? – Xin thưa, suốt hơn
ba mươi năm qua, họ đã dùng đủ mọi thủ đoạn, kế sách, để dập tắt mọi
nhen nhúm của thành phần đối lập. Chưa có đảng phái chính trị hay tôn
giáo nào mà họ nương tay tiêu diệt, cũng chưa có thế lực nào khiến họ
thực sự sợ hãi. Những chiêu thức chia rẽ, đánh phá, ly gián tinh vi
của họ, không có tổ chức chính trị hay tôn giáo đối lập nào có thể
tránh khỏi, trái lại còn bị họ giật giây, đẩy vào cái thế tự mình đánh
phá mình, hủy hoại mình. Nói theo binh thư cổ điển, họ đi đúng sách
lược nắm thế chủ động đối với thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Địa lợi
thì họ kiểm soát lãnh thổ toàn quốc. Nhân hòa thì họ kiểm soát toàn
dân bằng chế độ công an trị thật chặt chẽ; dân dù không hòa, nhưng
phải khép mình một phép. Có thể nói là họ đã nắm vững hai yếu tố này.
Chỉ có thiên thời là một thứ thời vận mông lung đi thăm thẳm về hướng
tương lai, chưa biết ai là kẻ thắng lợi sau cùng. Người cộng sản đang
thắng thế chỉ sống vội vàng, chụp giựt, vơ vét, biển thủ, tham nhũng,
hối lộ, tranh giành ảnh hưởng và quyền thế, trong một thời gian ngắn
nhất mà họ có thể làm được ở trong thì hiện tại. Còn tương lai, vẫn là
một cửa ngõ bỏ trống mà chỉ có kẻ nào đi được đường dài mới vói tới
được. Cửa ngõ ấy, một vài tôn giáo bạn đã đi. Phật giáo thì dậm chân
một chỗ. Cửa ngõ ấy là con đường văn hóa, giáo dục. Nếu họ sợ là phải
sợ con đường ấy. Cho nên khi người của chúng ta làm việc văn hóa, giáo
dục, hoằng pháp mà bị phá hoại, xuyên tạc, có thể là có sự nhúng tay
của cộng sản, mà cũng có thể là do những người u mê, thiển cận trong
nội bộ chúng ta, vô tình hoặc cố ý đi theo cái hướng phá hoại của ác
ma đối với sự hoằng truyền chánh pháp.
Vào thập niên 1970’s, chúng ta mong đợi cộng sản sẽ sụp đổ trong
thập niên kế tiếp, nhưng việc ấy chẳng xảy ra; kéo dài qua thập niên
1990’s, rồi thập niên 2000’s. Đã hơn ba thập niên, họ vẫn chưa sụp đổ.
Nếu thời gian qua, chúng ta chỉ chống họ đến kỳ cùng mà không chuẩn bị
gì cả trong công tác văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân sự của Phật giáo,
thì chúng ta bị thiệt thòi ba mươi năm. Rồi ba mươi năm kế tiếp, nếu
chúng ta lại cứ chờ đợi họ sụp đổ để bắt đầu bắt tay vào công tác văn
hóa giáo dục, mà họ vẫn không sụp đổ, thì chúng ta lại mất thêm ba
mươi năm. Chừng nào thì cộng sản sụp đổ thì chưa biết được, chỉ đoán
thôi, mà đoán thì không gì bảo đảm. Không thể chờ đợi đất nước hết
sạch bóng dáng cộng sản rồi mới bắt tay lo việc hoằng pháp, giáo dục.
Mọi chế độ chính trị, dài lâu cỡ nào cũng không dài bằng con đường của
văn hóa, giáo dục. Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người
(ngạn ngữ Trung Hoa “thập niên chủng thọ , bách niên chủng nhân” –
không phải của Hồ Chí Minh) là như thế. Nói như vậy không có nghĩa là
vận động thỏa hiệp hay là đừng chống cộng mà chính là kêu gọi người
con Phật phải biết phân nhiệm, người nào lo việc người ấy. Đường dài,
đường ngắn phải biết. Người đi đường ngắn phải hiểu cái việc của người
đi đường dài, ngược lại cũng vậy; không nên phỉ báng, đánh phá, kết
tội nhau. Nên biết rằng việc của người kia bổ sung cho việc của mình,
việc của mình cũng tương trợ cho việc của người kia. Cứ thế mà song
hành bước tới trên con đường tương lai của Phật giáo.
Thư dài chưa nói hết ý. Chỉ mong người lạc bước có thể hồi tâm sám
hối để tránh mang ác báo vào thân. Phật giáo là đại dương mênh mông,
không thuộc cá nhân hay tổ chức nào. Đại dương đó có thể dung chứa tất
cả, và có thể rộng tay đón bạn trở về.
Bài liên quan: