- PSN
| 29.10.2007 | Trần Đại Linh
Sinh ra trong một đất nước điêu linh và thống khổ, hết quốc nạn
ngoại xâm rồi đến thảm nạn nội thù, quê cha đất mẹ không bị phanh thây
chia cắt bởi sự đổi chác của chủ nghĩa ý thức hệ, thì bị phân hóa
nhiễu nhương vì chính kiến thiên chấp hẹp hòi của đảng phái, bè phái,
tập đoàn thống trị, thường nhân danh quyền lợi và chính nghĩa dân tộc,
mà thực chất chỉ là chiêu bài mị dân hay bình phong giả hiệu, may thay
nhờ có ngọn đèn trí tuệ và từ bi của đạo Phật, người viết đã có thể tự
mình vươn lên để tìm lấy hướng đi và thâm cảm nỗi đau thấu tận xương
tủy của biết bao đồng bào ruột thịt!
Đạo Phật Việt Nam có mặt từ thuở bình minh dựng nước đến khi dân
tộc được tự chủ phú cường, luôn thầm lặng thấm sâu trong từng mạch
sống của quê hương qua bao nhiêu thế hệ và thời đại, đến nỗi con cháu
ngàn sau còn cảm nhận một đạo Phật hiển hiện trong máu huyết, trong
xác thịt, trong tâm thức của mình. Đạo Phật ấy không có tên gọi cho
riêng mình, không có chỗ đứng riêng cho mình, không ở trên cao nơi
chốn cửu trùng hay trong dinh thự nguy nga tráng lệ để vinh thân phì
da, không có biên tế ngăn cách với bá tánh vạn dân. Đạo Phật ấy lấy
trí tuệ soi sáng hướng đi, lấy từ bi bao dung che chở cho dân tộc.
Đạo Phật ấy cùng họ cùng tên với giống nòi, sống theo vận hưng suy của
đất nước, lam lũ trong chốn đồng quê với những nông phu, hòa đồng nơi
đô hội với thị dân, thiếu ăn thiếu mặc như khổ dân trong thời lầm than
đói rách, tù tội chết thảm như sinh linh trong thời loạn chiến tranh!
Người viết hôm nay đau xót tự hỏi: Đạo Phật Việt
Nam
ấy bây giờ ở đâu?
Khi văn hóa Tây phương theo bước chân của thế lực ngoại bang
tràn vào đất nước ta, trong hoàn cảnh một xã hội chưa thật sự được
chuẩn bị đầy đủ để có thể tiếp nhận một nền văn hóa mới trong tinh
thần chọn lọc, phê phán và sáng tạo, đã mang theo nó những hệ lụy
không cùng kéo dài qua bao nhiêu thế hệ. Cái hệ quả độc hại nhất
chính là bản chất duy lý xây dựng trên ý thức phân biệt tinh vi của
nền văn hóa kia. Ý thức là vọng thức. Vọng thức là vọng động không
ngừng, luôn luôn hướng về một cái gì đó, một tha thể trong chính tự
thể. Nhưng tự thể xây trên ý thức duy lý chỉ là cái lâu đài xây bằng
cát nằm cạnh đại dương với những đợt ba đào không lúc nào yên nghỉ.
Lâu đài ấy vĩnh viễn không thể có được một tuổi thọ lâu dài. Nền văn
minh Tây phương vì vậy, cho đến nay đã trải qua biết bao cơn khủng
hoảng, bế tắc, hụt hẫng, thực chất là một nền văn minh đang dọ dẫm
từng bước đi trước mặt. Khoa kỹ học, vật lý học, tâm lý học, toán
học, thiên văn học, v.v… vẫn còn là những nỗ lực thăm dò của nền văn
minh duy lý ấy. Những gì con người thán phục đối với nền văn minh ấy
chỉ là các thành quả có được của những bước thăm dò đã qua. Tương lai
của cả nền văn minh duy lý ấy đi về đâu? Có lẽ không ai trong nền văn
minh duy lý ấy có thể có được một câu trả lời dứt khoát. Ý thức duy
lý tạo ra những đám mây mù che khuất lối về nguồn cội căn nguyên của
con người, của vạn hữu. Ý thức duy lý tạo ra khái niệm nhị nguyên:
duy tâm, duy vật, duy linh, v.v… để rồi tự buộc con người trong những
cố chấp, thiên chấp, tranh chấp càng lúc càng bền chặt, không có lối
thoát!
Hệ lụy mà nền văn hóa duy lý ấy thao tác trên đất nước ta chính
là cái tinh thần duy lý đã ngày càng bám rễ sâu rộng trong tâm thức
con người Việt Nam qua các hình thái cuồng tín theo lập trường “duy”:
duy tâm, duy vật, duy linh, duy khoa học, duy chủ thuyết, duy chủ
nghĩa, duy ý thức hệ, duy cộng sản, duy Tây phương, duy tiền bạc, duy
danh tướng, v.v… Đã “duy” cái gì rồi thì chỉ biết có cái mình “duy”
và phủ nhận, chống đối, loại trừ cái “không phải duy” của mình. Tâm
thức duy lý còn là tâm thức hướng ngoại, vọng ngoại, vong bản, tha
hóa, xa lìa bản thể nguyên sơ của mình. Do vậy, chỉ thấy cái mark của
người khác là hay, là thật, là quý giá, mà thấy cái gì có dính dáng
đến cái mark của mình cũng đều cho là dở, là giả, là tệ. Chính vì
vậy, cho nên, chúng ta đã tôn thờ và sống chết theo các chủ nghĩa, chủ
thuyết, ý thức hệ ngoại lai, để rồi chém giết lẫn nhau, tiêu diệt lẫn
nhau, thù hận lẫn nhau. Cho đến hôm nay mà di chứng của nền văn hóa
duy lý ấy vẫn còn trói chặt dân tộc trong mối hận thù, phân hóa, vong
bản!
Nói như vậy, tất nhiên, không phải người viết đang rơi vào một
vị thế đứng khác để đối đầu và phê phán một cách mù quáng văn minh
khoa học và sự mở cửa của đất nước để tiếp nhận nền văn hóa ấy. Nói
như vậy cũng không phải người viết không nhận thức được những lợi ích
cụ thể mà nền văn minh khoa học đã và đang mang lại cho con người nói
chung và cho người dân Việt nói riêng. Nói như vậy lại càng không
phải người viết không hiểu rằng, bản chất con người, không phân biệt
là Đông hay Tây, vốn sống và thừa hành theo động lực của ý thức, vọng
thức và do đó hàm ngụ sắc thái và tác hưởng của tinh thần duy lý.
Nhưng, có một điều rất rõ rằng, mà đây là điều tất yếu của tiến trình
lịch sử của nhân loại không ai có thể ngăn cản được, văn hóa duy lý đã
góp phần không nhỏ làm thổi bùng sức mạnh tiềm ẩn của ý thức phân
biệt, của vọng thức, của tinh thần duy lý trong tâm thức của con người
nói chung và con người Việt Nam nói riêng để nó trào ra ngoài sinh
hoạt cá nhân, tập thể và xã hội. Cái may của phần lớn các nước phương
Tây là song song với sự bành trướng của văn hóa duy lý còn có sự phát
triển lớn mạnh của tinh thần khai phóng, tự do, dân chủ, tôn trọng
quyền sống và quyền làm người. Đất nước Việt
Nam
là một trong những quốc gia thuộc phần còn lại của thế giới thiếu sự
may mắn đó!
Trong bối cảnh đất nước như vậy, Phật Giáo Việt
Nam
như thế nào?
Suốt hàng thế kỷ sống trong cảnh bị ngoại bang xâm chiếm thống
trị, bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, bị các chủ thuyết gieo rắc hận
thù giai cấp và ý thức hệ, hoặc bị bần cùng hóa đến tận đất đen, hoặc
bị đào phá tận gốc rễ nền đạo đức, luân lý, văn hóa và tôn giáo truyền
thống lâu đời, người dân Việt Nam phải tự tìm ra giải pháp sinh tồn
cho chính mình: Tinh thần tự vệ thể chất và tâm linh phát sinh; tính
nghi kỵ, manh tâm, thù hận, bạo lực, thủ đoạn chiếm ưu thế; mưu sinh
bằng mọi phương tiện khả thể được mặc nhiên thừa nhận; tiền, cơm gạo,
vật chất, địa vị thế lực là mục đích đứng đầu trong các nhu cầu của
đới sống thường nhật. Cho nên, xã hội ngày càng loạn, đất nước ngày
càng rối, thế đạo nhân tâm ngày càng suy sụp! Phật Giáo Việt
Nam,
người Phật tử Việt
Nam
sống và trưởng thành trong bối cảnh xã hội ấy làm sao không mang hệ
lụy? Vấn đề là đến mức độ nào mà thôi!
Điều có thể thấy rõ trước mắt là Phật Giáo Việt
Nam
ngày càng quên tinh ba, chọn hình tướng, bỏ sở trường, theo sở đoản.
Cái tinh ba và sở trường là thể hiện nền đạo đức thực chứng, tôn trọng
giới luật, bảo vệ bản thể thanh tịnh và hòa hợp bất phân của cộng đồng
Tăng Già, phát huy giá trị giác ngộ và giải thoát siêu việt của Giáo
pháp Phật Đà, trang trải đức từ bi đến khắp nhân gian, dẫn đạo sự
nghiệp văn hiến để nâng mức sống văn hóa của dân tộc ngày càng cao
hơn, góp phần cụ thể và tích cực vào việc xây dựng và phát triển đất
nước theo hướng khai phóng, tự do, dân chủ và thịnh vượng bằng lý
tưởng và phương tiện của Bồ Tát Đạo. Cái hình tướng và sở đoản là phô
trương chủ nghĩa cá nhân, bè phái, tôn sùng hình danh sắc tướng bề
ngoài, chạy theo những mục tiêu giả tạo của thế gian như địa vị, học
vị, danh hàm, khen thưởng, xem danh vị của cá nhân hay tập thể mình
lớn hơn sinh mạng của Phật Pháp, xem nhãn hiệu bề ngoài quý giá hơn
phẩm đức bên trong, đổi lấy sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp phổ độ quần
sinh theo lý tưởng cao diệu vô tận của Bồ tát đạo bằng con đường hoạt
động phiêu lưu và phiến diện mang sắc thái chính trị thế tục chỉ là xu
thế giới hạn trong một thời.
Chính vì vậy, Phật Giáo chúng ta đã và đang vì cái hình tướng,
cái sở đoản mà phân hóa nội bộ, mà vu khống, nhục mạ, loại trừ lẫn
nhau, mà cúi đầu trước các thế lực thế gian đành làm tay sai cho thế
quyền, mà không dám dũng cảm thể hiện cái tinh ba, cái sở trường, mà
bàng quan tọa thị và bỏ qua bao nhiêu cơ hội để xây dựng và phát triển
cơ đồ cho Phật Giáo Việt Nam!
Trước năm 1975, tại miền Nam, vì bỏ quên cái tinh ba, cái sở
trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản, mà từ một tập họp với
sức mạnh lớn lao hùng hậu chưa từng thấy trong lịch sử cận đại của
Phật Giáo Việt Nam trong tổ chức GHPGVNTN đã bị phân hóa thành hai:
Giáo Hội Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Sau năm 1975, trên cả nước, vì
bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở
đoản, mà đã biến Phật Giáo Việt
Nam
thành hai mảnh vụn: GHPGVNTN và GHPGVN. Thảm nạn của sự chia cắt này
cho đến nay vẫn còn là niềm đau thống thiết trong lòng người Phật tử
Việt
Nam!
Tại sao? Có người nói, vì các thế lực chính trị quyết tâm phân hóa và
triệt hạ sức mạnh thống hợp của Phật Giáo Việt
Nam
để dễ bề thống trị đất nước. Điều ấy không sai, nhưng mới chỉ là yếu
tố khách quan bên ngoài. Điều không thể phủ nhận là để dẫn đến thảm
trạng ấy tất không thể duy chỉ có yếu tố khách quan bên ngoài mà thôi,
mà còn phải có thành tố chủ quan bên trong. Yếu tố chủ quan bên trong
chính là sự bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường mà chạy theo cái hình
tướng, cái sở đoản. Bởi lẽ, nếu Phật Giáo chúng ta không bỏ quên cái
tinh ba, cái sở trường thì sự kiện phân hóa và bế tắc ấy cho đến nay,
sau trên mấy thập niên, đã có thể mang những sắc thái khác hơn là như
hiện nay chúng ta đang chứng kiến.
Đã bao nhiêu năm nay, người Phật tử Việt Nam tâm tâm niệm niệm, thành
tâm thành ý cùng với chư Tôn Đức Tăng, Ni nỗ lực xây dựng và phát
triển nền Phật Giáo Việt Nam, những mong nương nhờ vào sức mạnh thống
hợp của Phật Giáo Việt Nam để vực dậy tiềm lực cho dân tộc hầu góp
phần vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Chính trong tâm nguyện
ấy mà dù phải chứng kiến những thảm trạng đau lòng xảy ra trong chính
bản thân của Phật Giáo Việt Nam, người Phật tử Việt Nam vẫn âm thầm,
nhẫn nại chịu đựng, nghĩ rằng đó chỉ là một vài sơ suất không thể
tránh khỏi trong công cuộc hành đạo khi dấn thân vào môi trường xã hội
phức tạp. Nhưng rồi, ngày lại ngày, trong khi thế giới nhân loại đã
và đang vươn mình lên đến trình độ cao rộng thênh thang ở tất cả mọi
lãnh vực, từ khoa học kỹ thuật, thông tin thương mại, giao thương kinh
tế, dân giàu nước mạnh, đến văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng,
tự do, dân chủ, phú cường thịnh vượng, thì đất nước Việt Nam, dưới sự
thống trị độc tài của đảng cộng sản Việt Nam, vẫn còn ì ạch ở tận dưới
vực sâu của nghèo đói, lạc hậu, khủng hoảng, bế tắc và khép kín! Mấy
năm gần đây, do sức ép của các cuộc vận động trong và ngoài nước, cũng
như do nhu cầu tồn tại, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã bị bắt
buộc phải thay đổi phần nào chính sách, đặc biệt trong lãnh vực ngoại
giao, kinh tế, để đưa ra chính sách “kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Như sức nước vỡ bờ, vì chất chứa lâu ngày,
kế hoạch “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã’ đã tuột
khỏi tầm tay của đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam.
Một lần nữa, buộc họ phải chấp nhận tham gia vào sân chơi quốc tế WTO
với những quy tắc hẳn hòi, từng bước một phải mở cửa thật sự ra thế
giới khoáng đạt bên ngoài. Dù đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đang
chơi trò kéo dài thời gian để có đủ thì giờ chuẩn bị mọi việc không
vượt ngoài thế lực khống chế của họ và cố gắng duy trì sức mạnh quyền
lực lãnh đạo đất nước với vị thế độc tôn của đảng cộng sản Việt Nam,
nhưng điều thấy rõ là xu hướng tự do, dân chủ của thời đại này đã
không thể quay đầu trở lại và do đó, vai trò độc tôn lãnh đạo của đảng
cộng sản Việt Nam sẽ không thể duy trì được lâu dài thêm nữa.
Nhận định được tình hình như vậy, cho nên, các tổ chức tôn giáo, chính
trị, kinh tế trong cũng như ngoài nước đã và đang trong tiến trình vừa
hành động vừa chuẩn bị cho những kế hoạch lâu dài của họ trên đất nước
Việt Nam. Tiếc thay, người Phật tử Việt Nam đã không thấy một dấu
hiệu nào tích cực phát xuất từ các Giáo Hội trong và ngoài nước cho sự
chuẩn bị cũng như hành động kịp thời đối với tình hình của đất nước
hiện nay và tương lai! Ngược lại, người Phật tử Việt Nam
thường xuyên chứng kiến những điều tủi nhục, đau lòng phát ra từ các
tổ chức Giáo Hội! Những điều đau lòng ấy là gì? Xin đơn cử một số
điều tiêu biểu sau đây:
Đã một phần tư thế kỷ có mặt và được sự chấp thuận cũng như bảo bọc
của đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam, vậy mà GHPGVN, một Giáo Hội
tự cho mình là đại diện chính thống của Phật Giáo Việt Nam, cho đến
nay vẫn mặc nhiên chịu khép mình dưới sự lãnh đạo, chi phối và điều
động của Mặt Trận Tổ Quốc và Ban Tôn Giáo Chính Phủ như các hội phụ
nữ, hội đá banh, hội đua ngựa, v.v… Một Giáo Hội tự cho mình là đại
diện chính thống của Phật Giáo Việt
Nam,
tự cho mình cái quyền được kế thừa sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp
quảng độ quần sinh của lịch đại tiền bối tổ sư sao lại có thể đặt mình
ngang hàng với cái hội đoàn thế tục nhỏ bé như vậy?
Trong tuyền thống Phật Giáo trên hai mươi lăm thế kỷ nay, hình ảnh của
vị Tỳ kheo là đại diện tôn nghiêm cho hàng Tăng Bảo, cho chí nguyện
xuất trần cao thượng của bậc thầy trời người, sao lại có trường hợp
như các vị Tỳ kheo trong GHPGVN đem thân chịu phép của thế lực chính
trị thế gian làm dân biểu quốc hội, làm thành viên của Mặt Trận Tổ
Quốc, làm cán bộ trong hệ thống chính trị thế quyền?
Chư Tôn Đức Tăng, Ni trong GHPGVN khi ra đảm nhận các vai trò trong
Giáo Hội không ngoài mục đích nương vào phương tiện tổ chức để truyền
bá Phật Pháp, tiếp dẫn hậu lai, cứu khổ nhân quần, sao lại có trường
hợp quý ngài chịu phép làm cái loa cho chế độ chính trị tuyên bố điều
này, chống đối việc kia theo chính sách toàn trị của đảng cộng sản?
Gần đây, có người viết bài với ác tâm đánh phá một số chư Tôn Đức như
Thiền sư Nhất Hạnh, Thiền sư Thanh Từ. Người viết bài đó đã không
nghĩ cho Phật Giáo Việt
Nam.
Tại sao? Bởi vì, Phật Giáo Việt
Nam,
trong đó có GHPGVNTN và GHPGVN, trong mấy thập niên qua ở trong tình
trạng trì trệ, bế tắc do nhiều chướng duyên từ bên ngoài cũng như bên
trong. Do sự trì trệ và bế tắc đó mà nhiều hiện trạng tiêu cực, mất
mát đã và đang xảy ra, như quần chúng Phật tử thiếu sự hướng dẫn đầy
đủ để tu học đúng chánh pháp, vì vậy tệ nạn mê tín dị đoan ngày càng
gia tăng, Tăng Ni trẻ sa đà trong những hưởng thụ tiện nghi vật chất
quên mất sứ mệnh và lý tưởng phụng sự Phật pháp và hoằng dương chánh
pháp của mình, chùa chiền to lớn được dựng lên khắp nơi khiến cho
người ta có cảm tưởng sai lầm rằng đó chính là hiện tượng hưng thịnh
thật sự của Phật Giáo, mà kỳ thật là những nguy cơ vì tạo ra bản ngã
tự phụ, tinh thần sở hữu cá nhân và sự cạnh tranh thế lực và quyền lợi
trong chính cộng đồng Tăng Ni với nhau, tuổi trẻ một lực lượng chiếm
gần 60% dân số cả nước đã không được quan tâm đúng mức để hướng dẫn
việc thâm nhập Phật pháp. Trong hoàn cảnh như vậy, Thiền sư Nhất Hạnh
về nước phần nào đã có thể tạo ra một sinh hoạt mới, gây ra những chú
ý và ý thức về Phật Giáo đối với nhiều thành phần trong xã hội, đánh
động được phần nào thành phần tiêu cực thụ động vì chán nản trước tình
trạng trì trệ của Phật Giáo bấy lâu nay, khơi động được phần nào sự
tìm hiểu về Phật Giáo trong thành phần trí thức. Cũng vậy, Thiền sư
Thanh Từ suốt mấy chục năm qua đã âm thầm, nhẫn nại vượt qua mọi
nghịch duyên từ trong lẫn ngoài, để chăm lo việc tu học cho biết bao
nhiêu Tăng, Ni và đồng bào Phật tử. Những việc làm vừa nêu trên chỉ là
một phần nhỏ trong các công tác Phật sự mà hai vị Thiền sư Nhất Hạnh
và Thanh Từ đã làm. Nếu thay vào những Phật sự ấy bằng những công tác
truyền bá của Tin Lành, của Công Giáo, v.v… thì Phật Giáo Việt Nam sẽ
ra sao?
GHPGVNTN bao nhiêu năm qua vì bảo vệ lập trường trung trinh trước sau
như một đối với dân tộc, đứng chung hàng ngũ với đại khối dân tộc để
gánh chịu vinh nhục thăng trầm của vận nước mà phải chịu biết bao đau
thương, mất mát. Bao nhiêu hy sinh của Tăng, Ni và Phật tử Việt
Nam
suốt mấy thập niên qua đều vì bản thệ sáng ngời ấy. Nó là chỗ dựa, là
tấm gương sáng, là con thuyền, là mảnh đất lành cho hàng ngũ xuất gia
cũng như tại gia nương tựa, quay về, hướng đến. Lập trường và chí
nguyện ấy cao đẹp biết bao, thuần khiết biết bao, vĩ đại biết bao!
Chính lập trường và chí nguyện cao cả đó mà dù có lúc Giáo Hội trải
qua thời kỳ bỉ vận điêu linh, với sự lãnh đạo đơn độc nhưng sáng suốt
của nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, người Phật tử
Việt Nam vẫn một lòng hướng về hậu thuẫn dù đang sống lầm than trong
nước hay đang lưu lạc tận phương trời xa xăm nơi hải ngoại. Đại hội
Bất Thường của GHPGVNTN diễn ra tại Tu Viện Nguyên Thiều vào cuối năm
2003, với sự có mặt đầy đủ của chư tôn Trưởng Lão, chư Hòa Thượng,
Thượng Toạ trong Lưỡng Viện Giáo Hội, như mở ra một vận hội mới, như
vén lên bức màn để nhìn thấy triêu dương của Phật Giáo Việt Nam.
Người Phật tử Việt
Nam
trong cũng ngoài nước hoan hỷ biết bao! Tiếc thay, niềm hoan hỷ ấy đã
sớm héo tàn khi Giáo Chỉ bổ sung và lưu nhiệm thành phần nhân sự của
Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo được công bố vào cuối năm 2005 tại hải
ngoại! Người Phật tử Việt
Nam
bồi hồi, băn khoăn, hoang mang và lo lắng cho Giáo Hội trước sự kiện
này! Rồi sau đó là những tuyên bố, những giải thích, những bài viết
về biến cố này từ những vị lãnh đạo, những thành viên nêu tên hay dấu
tên, những cơ quan thông tin của GH trong và ngoài nước được đưa ra.
Dường như GH suy nghĩ rằng, người Phật tử Việt Nam sẵn sàng chấp nhận
bất cứ lời giải thích nào, bất luận đó là những lời giải thích chứa
đựng đầy kịch tính, đầy mâu thuẫn, đầy hư cấu giả tạo! Chẳng hạn,
trong những giải thích ấy, có giải thích cho rằng những vị Giáo phẩm
bị loại ra khỏi Viện Hóa Đạo là thành phần “phản động” âm mưu tạo ra
một “GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ.” Nghe qua lời giải
thích này, người Phật tử Việt
Nam
cảm thấy đau lòng khôn xiết! Đau lòng vì đúng là Phật Giáo Việt
Nam
đang ngày càng bỏ mất cái tinh ba, cái sở trường để chạy theo cái hình
thức, cái sở đoản! Nhìn kỹ lại thành phần nhân sự bị loại ra khỏi
Viện Hóa Đạo, người Phật tử Việt Nam chỉ thấy toàn là những vị hết
lòng vì GH đã trải qua bao nhiêu năm bị tù tội, bị áp bức bởi chế độ
cộng sản, chỉ thấy toàn là những vị xứng đáng đại diện cho hàng Tăng
Bảo, xứng đáng là những Trưởng Tử của đức Như Lai, chỉ thấy toàn là
những vị sống đúng Chánh pháp, giữ đúng kỷ cương giới hạnh, biết im
lặng để giữ thể diện và uy tín cho GH, biết kính trọng những bậc
Trưởng Lão trong Tăng đoàn. Những lời giải thích ấy nghe sao giống
trường hợp một người tự cắt xẻ thân thể của mình ra, tự xát muối lên
những chỗ thương tích rồi hô hoán lên rằng những thân nhân ruột thịt
của mình đang làm phản, đang nhẫn tâm làm hại, đang có mưu đồ thay
ngôi đổi chủ! Cái gì mà “phản động”? Cái gì mà “âm mưu tạo ra một
GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ”? Lời lẽ nghe sao giống
chữ nghĩa tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam
từ mấy chục năm qua đã sử dụng mỗi khi gán gép và vu khống tội trạng
cho những người dân lương thiện đã phải lên tiếng vì sự bất công xã
hội, vì mất hết quyền tự do, dân chủ! Nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền
Quang và Thích Quảng Độ là hai nhà lãnh đạo tối cao và tôn kính của
GHPGVNTN hiện nay. Điều đó không có nghĩa là GHPGVNTN là của riêng
của hai ngài hay GHPGVNTN chỉ tồn tại khi có hai ngài! GHPGVNTN trước
đây và sau này tất nhiên còn phải có những vị lãnh đạo khả kính khác.
Nếu GHPGVNTN mà chỉ duy nhất có nhị vị Hòa Thượng này, vậy thì sau khi
nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo hiện nay viên tịch rồi, GHPGVNTN sẽ ra
sao? Sự tồn tại của GHPGVNTN là sự tồn tại của lý tưởng, đường hướng
và lập trường hành hoạt trong sáng đúng chánh pháp, phù hợp với truyền
thống hai nghìn năm của Phật Giáo Việt Nam, nhất quán với tâm tư,
nguyện vọng, và hoàn cảnh sống của đại khối dân tộc. Nhị vị Hòa
Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ đã dũng mãnh soi sáng lý
tưởng, đường hướng và lập trường hành hoạt ấy từ mấy chục năm qua, cho
nên Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam kính ngưỡng quý ngài, do đó quý ngài
xứng đáng là những bậc lãnh đạo của GH. Người Phật tử Việt
Nam
mong thấy có được nhiều vị Tăng, Ni có đủ tài và đức để thừa kế sự
nghiệp lãnh đạo GHPGVNTN như nhị vị Hòa Thượng hiện nay. Rất tiếc
những vị Thượng Tọa có thể kham lãnh và kế thừa nhiệm vụ để lãnh đạo
GH đã bị loại ra ngoài Viện Hóa Đạo, do vậy, cho đến nay điều ước mong
này vẫn chưa thành hiện thực!
Cuối năm 2006, vào thời điểm diễn ra Hội nghị APEC tại Hà Nội, trong
một chương trình phỏng vấn của đài BBC với một vị Thượng Tọa, được
giới thiệu là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội của GHPGVNTN, người xướng
ngôn viên đặt câu hỏi đại ý (người viết không nhớ rõ nguyên văn) rằng,
hiện nay thành phần giới trẻ sanh sau năm 1975 chiếm tỷ lệ khoảng 60%
dân số cả nước, thành phần này không có liên hệ gì trực tiếp với quá
khứ, với tổ chức GHPGVNTN, trong khi mấy chục năm qua GHPGVNTN đã bị
cấm hoạt động, vậy GHPGVNTN của Thượng Tọa bằng cách gì để tiếp cận và
hướng dẫn cho lực lượng tuổi trẻ là thành phần chủ đạo của đất nước
trong tương lai? Vị Thượng Tọa kia đã ngập ngừng giây lâu rồi bắt
sang chuyện khác để nói. Qua sự kiện này, cho thấy có một khoảng trống
lớn lao trong sứ mệnh hoằng pháp và chuyển hóa con người của Phật Giáo
Việt Nam, đáng lẽ không vấp phải nếu tình trạng trì trệ và bế tắc của
Phật Giáo Việt Nam trong mấy thập niên qua được giải quyết tốt đẹp.
Có người sẽ phản đối, cho rằng, sự trì trệ và bế tắc ấy không do
GHPGVNTN tạo ra, mà do đảng và chính quyền cộng sản Việt
Nam
gây ra. GHPGVNTN không chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu vắng ấy,
mà chính đảng và chính quyền cộng sản Việt
Nam
phải chịu trách nhiệm. Không ai phủ nhận một phần nào thực tế như
vậy. Nhưng, có một điều còn quan trọng hơn là vấn đề ai chịu trách
nhiệm gây ra thảm trạng đó, điều ấy chính là cả một thế hệ tuổi trẻ bị
bỏ quên, bị vùi dập, phải chịu bao nhiêu mất mát, bao nhiêu thiệt
thòi, bao nhiêu tổn hại! Chưa hết, chính những mất mát và tổn hại của
thế hệ trẻ hôm nay sẽ còn là những mất mát và tổn hại lớn lao hơn, sâu
rộng hơn cho đất nước, cho dân tộc, cho Phật Giáo trong tương lai!
Gần đây, qua các Thông cáo báo chí của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc
Tế, qua những tài liệu của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong và ngoài
nước, cũng như qua một số bài viết, trong đó đề cập đến tình hình khó
khăn và bi thiết của tổ chức GĐPTVN, một tổ chức với mục đích giáo dục
tuổi trẻ thanh thiếu đồng niên và đem đạo Phật vào trong sinh hoạt của
từng gia đình, đã có mặt trên 60 năm qua. Viện Hóa Đạo đã tự ý ra
Quyết định bổ nhiệm một huynh trưởng lên làm Vụ Trưởng Gia Đình Phật
Tử Vụ. Khi làm việc trên, GH, qua phát ngôn nhân ở Paris, cho rằng cần
phải làm như vậy để bảo vệ lập trường trung trinh với GH, không để
những thành phần có lập trường mập mờ chen vào tổ chức GĐPTVN mà khấy
động. Những bài viết khác còn đề nghị đến việc xóa bỏ nguyên tắc xét
cấp trong Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN và thay vào đó là trao quyền
quyết định xét cấp cho Giáo Hội, để GH tùy ý chọn huynh trưởng mà ban
cấp bậc, lấy tiêu chuẩn trung thành với GH làm chính yếu. Có điều
không thể không nói ở đây rằng, tổ chức GĐPTVN trong cũng như ngoài
nước từ trước đến nay vẫn tự đặt mình ở vị thế là người con trung hiếu
của GHPGVNTN. Trong Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng, và các văn bản của
GĐPTVN xưa nay luôn luôn trung thành với đường hướng, lập trường và
hành hoạt của GHPGVNTN. Chư
vị lãnh đạo của GHPGVNTN trong và ngoài nước có thật sự thành tâm
thành ý lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của tập thể GĐPTVN chưa? Ở
thế gian, trong một gia đình, khi người cha, người mẹ muốn làm điều gì
cho con mình, dù biết đó là việc tốt, vẫn phải nên hỏi ý của con mình
trước, xem thử nó có thích, nó có bằng lòng, nó có điều gì phải phát
biểu về việc mà cha mẹ sắp làm cho nó không? Như vậy, thì việc làm
của cha mẹ mới thật sự mang lại hữu ích thích đáng cho con cái, mới
được con cái quý trọng. Trong thời đại hôm nay, đó là nếp sống gia
đình có giáo dục, nếp sống biết trọng tinh thần tự do, dân chủ và nhân
quyền. Tổ chức GĐPTVN là một tổ chức giáo dục tuổi trẻ trong tinh
thần Phật Pháp, vì vậy, người lãnh đạo, người huynh trưởng trong
GĐPTVN phải là người làm gương trước tiên cho tuổi trẻ trong nếp sống
giáo dục, nếp sống thấm đượm tinh thần khai phóng, tự giác, giải thoát
và từ bi của đạo Phật. Không thể đem lý do để bảo vệ Giáo Hội mà làm
sai nguyên tắc của nhà giáo dục tuổi trẻ, vì làm vậy sẽ dẫn đến hệ quả
thật nghiêm trọng, đó là khiến cho tuổi trẻ phản bội lại lý tưởng và
nguyên tắc giáo dục cơ bản mà tổ chức đã tốn bao nhiêu thời gian và
tâm huyết để gầy dựng! Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín Giải thứ tư, chư
vị Đại Thanh Văn, vì cảm ân đức giáo hóa sâu dày và khó nhọc của đức
Phật, đã kể chuyện người cùng tử. Trong chuyện này, vị trưởng giả khi
biết người cùng tử đích thật là con ruột của mình, song vì người cùng
tử với tâm hạ liệt không dám suy nghĩ điều ấy, cho nên, ông trưởng giả
đã phải thi thiết phương tiện lần hồi để cảm hóa mà không dùng uy
quyền để áp đặt lên người con. Đọc qua đoạn Kinh trên, người con Phật
không khỏi cảm thán trí tuệ cao vời, lòng từ bi vô lượng và cách giáo
hóa có tình có lý của đức Phật, một vị cha lành! Với địa vị, quyền uy
và giàu sang phú quý như ông trưởng giả, vậy mà chỉ mỗi một việc nhận
lại con ruột của mình, cũng đã vận dụng đến trí tuệ và lòng từ bi, để
sao cho đứa con với tâm thức hạ liệt ấy có thể mở tâm và trí ra để
hoan hỷ chấp nhận sự thật, dù sự thật vốn đã có mặt ở đó từ lâu rồi!
Để kết luận, người viết xin kể ra đây hai bài học quý giá mà nhân loại
đã và đang trân trọng.
Bài học thứ nhất là của nhà vận động cho quyền bình đẳng chủng tộc và
cũng là nhà lãnh đạo có một không hai của xứ Nam Phi, ông Nelson
Mandela. Ông Nelson Mandela vì tham gia vào cuộc vận động cho quyền
bình đẳng chủng tộc tại Nam Phi mà đã bị bắt bỏ tù suốt 28 năm (từ năm
1962 đến 1990), từ khi ông còn trung niên ở tuổi 40 đến khi ra tù thì
tóc đã bạc màu ở tuổi thất tuần. Vậy mà ông vẫn giữ được tấm lòng
trung hậu không những đối với đất nước, dân tộc mà còn đối với những
kẻ đã từng đàn áp ông nữa. Khi công cuộc vận động cho quyền bình đẳng
chủng tộc thành công, ông Nelson Mandela đã được bầu, trong cuộc bầu
cử dân chủ đầu tiên, làm Tổng Thống nước Nam Phi vào năm 1994. Sau
đó, ở ngôi vị là một Tổng Thống, ông Nelson Mandela đã cùng với Tổng
Giám Mục Desmond Tutu thành lập Uỷ Ban Sự Thật Và Hòa Giải (Truth and
Reconcilliation Commission) để đưa ra ánh sáng tất cả những vi phạm
nhân quyền trong thời kỳ chế độ kỳ thị chủng tộc trước đó. Nhưng
không phải đưa ra để kết án và trả thù mà để hóa giải mọi oan khiên
cho dân tộc, để cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước. Ông Nelson
Mandela đã từng đến viếng, tưởng niệm và cầu nguyện tại ngôi mộ của
người mà ngày xưa đã bắt bỏ tù ông. Nhờ tấm lòng trung hậu của ông
Nelson Mandela mà đất nước Nam Phi đã có thể vượt qua được mọi khó
khăn để vươn mình lên cùng với thế giới văn minh và tiến bộ của loài
người.
Những nhà lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt
Nam
hiện nay cần suy nghiệm về bài học quý giá của ông Nelson Mandela để
sớm có được những chính sách quang minh chính đại cho việc trị quốc an
dân. Đừng nghĩ rằng việc mở cửa đón nhận tự do, dân chủ, tôn trọng
quyền sống và quyền làm người của người dân, hoặc lắng nghe và thực
hành những ý kiến xây dựng từ mọi thành phần dân tộc là một hành động
hèn yếu, thua cuộc, bất lực hay thoái bộ. Không, không một người công
dân Việt
Nam
nào nghĩ như vậy! Việc làm ấy là việc làm của những ai có bản lãnh tự
thắng mình, của những người thật sự biết hy sinh quyền lợi cá nhân,
đảng phái, chủ nghĩa cho quyền lợi tối thượng của dân tộc, của đất
nước. Việc làm ấy tự nó là một cống hiến đầy ý nghĩa và giá trị vô
ngần mà chỉ những nhà lãnh đạo chân chính mới có thể làm được. Cầu
mong hồn thiêng sông núi Việt
Nam
còn có những nhà lãnh đạo như thế để cho dân tộc được nhờ!
Bài học thứ hai là của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, vị lãnh đạo quốc
gia lưu vong và Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã rời bỏ quê hương Tây Tạng
của ngài vào năm 1959 đến nay vì bị đảng và chính quyền Trung Quốc xâm
chiếm đất nước Tây Tạng. Suốt trên 50 năm qua, ngài không ngừng đi
khắp thế giới để vận đông cho nền độc lập rồi sau này là tự trị của
Tây Tạng, cũng như để truyền bá Phật Pháp cho nhân loại. Từ đó đến
nay, ngài luôn luôn sống và hoạt động trong tinh thần từ bi bất bạo
động của Phật Giáo. Trong những cuốn sách, bài thuyết giảng, bài tham
luận, hay trong ngôn từ lúc tiếp xử với những nhà lãnh đạo, những
chính khách, những nhà ngoại giao, ngài không bao giờ sử dụng từ ngữ
mang ý tưởng thù hận đối với chính quyền Trung Quốc. Ngài thường gọi
những người lãnh đạo trong chính quyền Trung Quốc là “những người anh
em”. Nhìn vào hình ảnh và từ tâm của ngài, nhân loại không khỏi nghĩ
đến một đạo Phật từ bi, hòa bình, nhân bản, giải thoát và trí tuệ. Đó
chính là một trong những cách giáo hóa Phật Pháp vi diệu nhất mà ngài
đã mang lại cho thế giới chúng ta. Dù trong đời ngài, có thể mục đích
vận động cho nền tự trị của Tây Tạng sẽ không thành tựu, nhưng thay
vào đó ngài đã thành tựu được sứ mệnh lớn lao của một sứ gỉa của đức
Như Lai: sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp để lợi lạc quần sinh.
Thành tâm cầu nguyện những bậc cao Tăng lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam
vận dụng hùng lực siêu quần của trí tuệ và từ bi để dẫn đạo con đường
đi tới cho Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam hướng đến mục tiêu cao xa và
rộng lớn cho cả dân tộc và nền Phật Giáo Việt Nam hiện tại và mai
hậu.
Viết để khể thủ thâm tạ công ơn giáo hóa sâu dày của đức Phật và cái
nôi Phật Giáo Việt
Nam
đã dày công dưỡng dục cho một Phật tử bé nhỏ là người viết.
Trần Đại Linh