- PSN
| 10.11.2007 | Tâm Đức
Từ ngày lọt lòng mẹ, có lẽ vào thời điểm mà nhu cầu cuộc sống vật chất
không quá cấp bách, còn cho tôi thì giờ để đặt ra những câu hỏi mà vào
thời đại này nghe có vẻ ngớ nghênh : Tại sao tôi sinh ra đời, sứ mạng
của tôi như thế nào trong cõi đời này. Tôi phải làm gì đây để cuộc
sống của mình trên thế gian này không uổng phí.
Lớn lên tôi qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Tôi cho sự lựa chọn
của tôi là đúng.
Ðức Phật đối với tôi uy nghiêm mà giải thoát, dung dị mà cao xa, từ
hoà mà chói sáng. Mỗi lần gặp khó khăn, trắc trở, đứng trước mặt Ngài,
tất cả đều tan biến.
Nụ cuời hiền hoà của Ngài là nguồn suối mát. Ngài không phải là vị
chúa tể của muôn loài mà là bậc giác ngộ, soi đường chỉ nẻo. Ngài
không phải là vị quan tòa ra phán quyết bắt mọi người phải cúi đầu
tuân theo mà khuyên ta hãy đắn đo suy nghĩ, qua kinh nghiệm thấy lợi
mình, lợi người mới theo. Ngài không phải là vị hoàng đế quyền uy bắt
thần dân thiên hạ tuân phục mệnh lệnh nếu không là bị tru di cửu tộc.
Ngài là Phật và tôi đã đặt trọn niềm tin ở Ngài.
Giáo lý Phật đối vớí tôi thật uyên thâm mà giản dị. Uyên thâm đến độ
choáng váng mặt mặt mày, khi đi sâu vào đạo lý chân tâm, vọng cảnh,
vào thế giới trùng trùng duyên khởỉ, nhất tức nhất thiết, nhất thiết
tức nhất, vào biệt nghiệp cọng nghiệp, vào Ta Bà Tịch Tịnh, Niết Bàn
Sinh Tử, tuy hai mà một, vào đạo lý sắc sắc không không. Tuy uyên thâm
mà giản dị : Hãy tránh những điều ác, làm những điều lành, gọt rửa tâm
ý cho trong sạch (Chư
ác mác tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật pháp).
Từ bài kinh Chuyển Pháp Luân khi Phật vừa thành đạo nói cho 5
người đệ tử đầu tiên ở Vuờn Lộc Uyển : “ Này các Tỳ Kheo, xa lánh
hai điều cực đoan, Như Lai chứng ngộ Trung Ðạo, phát sinh sự thấy, sự
hiểu, đưa đến an tịnh, thắng trí niết bàn. Thế nào là Trung Ðạo, đó là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các Tỳ Kheo, tám thánh đạo
này là Trung Ðạo.”
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật cho năm ông Kiều Trần Như tại
vuờn Lộc Uyển (Isipatana) gần
Benares,
đánh dấu một phong trào đạo đức và trí tuệ mới. Khi Phật còn tại thế,
đạo lý của Ngài đã dần dần lan khắp vùng thung lũng sông Hằng, đến các
vuơng quốc ở bắc Ấn Ðộ, giữa dãy núi Vindhya và Hymalaya. Quốc vuơng,
đại thần, truởng giả, phú hộ, Bà la môn, nông dân . . . qui y theo
Phật.
Sau 45 năm gieo rắc đạo mầu,
đức Phật lìa cõi Ta Bà, nhập niết bàn. Trước khi nhập diệt, Phật căn
dặn ngài A Nan trong bài kinh cuối cùng, kinh Ðại Bát Niết Bàn
: “Này A Nan, con đừng sầu não, nghĩ rằng sau khi ta nhập niết bàn,
giáo lý của ta không người hướng dẫn. Con không nên suy nghĩ như vậy
mà phải biết những lời giáo huấn của ta, giới luật ta đặt ra chính là
Thầy của các con sau khi ta nhập diệt.” Do đó, Tăng Già sau khi
Phật nhập niết bàn lấy giáo lý của Ngài làm thầy, chứ không phải dựa
một cá nhân nào cả.
Giáo lý của Phật thậm thâm vi diệu, nhưng cũng giản dị vô cùng, đáp
ứng được mọi nhu cầu của mọi loài chúng sinh, từ cõi trời, cõi người,
súc sinh, tu la, ngạ quỉ, không khác trận mưa, cây cối tùy khả năng
tiếp nhận, từ cây đại thụ, đến ngọn cỏ, đám rêu, vì vậy giáo pháp Phật
được gọi là Pháp Vũ, hay Mưa Pháp.
Từ thời niên thiếu, theo mẹ lên chùa lễ Phật, được gần gũi chư Tăng,
tôi thấy cảnh chùa tuy đơn sơ nhưng thân thuộc. Tiếng chuông, tiếng
mõ, tiếng tụng kinh, niệm Phật, như bản nhạc dân tộc hoà quyện giữa
trời Việt Nam hiền lành, bát ngát, gợi cho tôi hình ảnh của ông cha
ngồi duới gốc cây cùng uống nước trà với thầy tổ đàm đạo, hàn huyên
tâm sự. Sao mà ấm cúng, sao mà thân tình.
Tôi cảm thấy ở các thầy, các cô có một sức mạnh thiêng liêng, một sự
quyến rũ kỳ lạ. Bộ áo cà sa mộc mạc, đôi thảo hài tuy nhẹ nhưng đã
chuyên chở đôi chân dạo buớc khắp nơi trên đường hoằng đạo. Tôi vô
tình dần dần biến vị bổn sư của tôi thành một thần tượng, nguợc hẳn
giáo lý Phật.
Tôi nhớ câu chuyện giữa ngài A Nan và ông Vissakàra, tể tuớng xứ Ma
Kiệt Ðà trao đổi với nhau vài tháng sau khi Phật nhập niết bàn.
Vissakàra hỏi ngài A Nan là Phật có chỉ định ai thay thế Ngài làm nơi
y cứ. Ngài A Nan trả lời không. Vassakàra lại hỏi Giáo Hội có đề cử ai
làm nơi y cứ. Ngài A Nan trả lời không. Vassakàra rất ngạc nhiên nói:
- “Ðại đức A Nan ! Nếu Giáo Hội không đề cử người nào làm nơi y cứ,
làm sao Giáo Hội có thể duy trì sự thống nhất của mình ?”
A
Nan
trả lời :
- “Thật ra chúng tôi không đến nỗi tuyệt vọng, không có nơi y cứ.
Chúng tôi có nơi y cứ, chúng tôi y cứ vào Dharma.”
Vassakàra có vẻ hoang mang. Ngàì A Nan giải thích : ”Chư
tăng nuơng vào luật Phật chế và luật này chư tăng hàng nửa tháng tụng
đọc vào ngày Bố Tát (Uposatha). Nếu vị Tỳ Kheo nào trong thời gian qua
phạm luật, chư tăng hành sử theo luật định.”
Vassakàra hỏi tiếp : “Thưa đại đức A Nan, trong Tăng đoàn ngài có thấy
vị tỳ kheo nào đáng kính, đáng trọng, đáng làm nơi y cứ ?”.
Ngài A Nan trả lời : “Có”…
Câu trả lời này làm cho Vassakàra rối trí. Ông kêu lên : “Ðại đức nói
gì tôi không hiểu. Khi tôi hỏi Ðaị đức Phật có chỉ đinh ai thay thế
Ngài làm nơi y cứ. Ðại đức trả lời không. Khi tôi hỏi đại tăng có chỉ
định ai làm nơi y cứ, Ðại đức trả lời không. Giờ đây Ðại đức lại nói
trong tăng chúng có người đáng trọng, đáng mến, có thể làm nơi y cứ,
là nghĩa thế nào ?”
Ngài A Nan cắt nghĩa cho Vassakàra biết Phật tán duơng Muời Hạnh. Nhờ
Muời Hạnh làm cho mọi người kính nguỡng, mến chuộng. Vị nào có Muời
Hạnh có thể làm nơi y cứ cho Tăng Già.
Những lời giải đáp của ngài A Nan cắt nghĩa một cách chính xác qui
chế, tổ chức và điều hành của Tăng Già :
- Thứ nhất chư Tăng trên nguyên tắc không có ai đứng đầu, nhưng chư
tăng trong từng truờng hợp y cứ vào vị nào có đức độ, trí tuệ, đạo
hạnh.
- Thứ hai không có một tổ chức độc tôn mà do chư tăng cung thỉnh. Quan
niệm về việc thành lập Giáo Hội hay Giáo Hội Phật Giáo tại một khu vực
địa dư nào, hoàn toàn xa lạ với truyền thống Phật Giáo.
Mặc dâù đức Phật gửi hàng đệ tử đi khắp nơi hoằng truyền Chánh Pháp vì
lợi ích cho nhiều người, Ngài không bao giờ ra lệnh thành lập Giáo Hội
tại quốc gia nào. Ðạo Phật là một tôn giáo thuần túy cá nhân. Khi
người chứng đắc đạo pháp, Phật Giáo được thành lập trong người đó. Vì
vậy ngài Phú Lâu Na, một trong những đại đệ tử của Phật trở về quê cũ,
nơi nổi tiếng hung bạo, đã chuyển hóa dân chúng theo Phật chứ không
phải thành lập một Giáo Hội Phật Giáo.
Quan niệm thành lập Giáo Hội như là một cơ chế trong một quốc gia hay
trong một khu vực có lẽ là sáng kiến của vua A Dục, thế kỷ thứ ba
trước kỷ nguyên. Ông là vị vua đầu tiên nhận Phật Giáo làm quốc giáo.
Là một ông vua năng động, tài ba, một nhà tâm lý thuợng thặng, A Dục
cảm thấy cần sử dụng một số nghi lễ, nghi quĩ cụ thể cho dân chúng
thấy rõ tôn giáo do ông tin tưởng đã được thành lập trong quốc gia
họ.
Những dự kiện lịch sử trên không ảnh hưởng mấy thái độ của tôi đối với
chư tăng. Tôi không nhìn họ bằng nhãn quan lịch sử mà bằng cặp kính
mầu ân tình, thân thuộc. Tôi cảm thấy bất an khi nghe quí thầy, quí cô
gặp
nhiều trắc trở trong đời sống tâm linh. Khi nghe quí thầy quí cô bị tù
tội, tôi cũng cảm thấy như chính mình bị tội tù, tôi cảm thông cái đau
xót của họ, khi họ bị gáng nhãn hiệu này hay nhãn hiệu khác. Một sợi
giây liên hệ hầu như bất khả phân. Hoàn toàn tin tưởng. Hoàn toàn gởi
gắm, như đứa con thơ hoàn toàn trộng cậy vào mẹ và người mẹ hoàn toàn
tin cậy vào con. Ðao Phật đối với tôi là như vậy. Qui y Tam Bảo đối
với tôi giản dị như vậy. Thiên kinh vạn quyển rút lại chỉ chừng đó.
Phật Giáo là tôn giáo của riêng tôi. Lâu đài Phật Giáo huy hoàng thời
A Dục, thời Trần Nhân Tông là lâu đài trong nội tâm tôi. Tôi cảm thấy
mình rất gần gủi với thiền sư Chong Go người Mỹ hành thiền theo tông
phái Ðại Hàn.
Có người hỏi thiền sư Chong Go tại sao ông theo Phật Giáo, tại sao
hành thiền phái Ðại Hàn mà không phải Tây Tạng, Nhật Bản rất nổi tiếng
gần đây ? Ông trả lời ông theo Phật Giáo vì ông có lần đọc một cuốn
sách nói về những trụ đá A Dục khắc lời của vị vua Ấn Ðộ cách đây trên
23 thế kỷ, khuyên nhủ thần dân phải kính trọng tất cả các tôn giáo:
“Nếu ai làm hại, phỉ báng tôn giáo khác tức làm hại phỉ báng tôn giáo
mình”. Ðiều này làm tôi cảm động. Tôi không hiểu Phật Giáo làm cách
nào có thể tác thành một nhân vật vĩ đại như Asoka, với những tư tưởng
khóang đạt, bao dung mà đến nay, thời đại mệnh danh là văn minh, tân
tiến cũng phải học hỏi khi đứng trước thảm họa cực đoan đang hoành
hành quả địa cầu này. Từ đó tôi bắt đầu tìm hiểu Phật Giáo. Càng đi
sâu vào giáo lý Phật, càng thấy rõ cái vi diệu, nhiệm mầu, cái chân
trời bao la bát ngát, đầy hương sắc.
Tại sao tôi hành thiền theo môn phái Triều Tiên mà không phải Tây
Tạng, Nhật Bản ? Nhà Phật gọi đó là nhân duyên. Tôi bắt đầu hành thiền
khi tôi học chương trình Cao Học, chuẩn bị cho luận án tiến sĩ tại một
Ðại Học Hoa Kỳ và tôi hành thiền trong một thiền đường Nhật Bản do một
người Mỹ từng du học tại Nhật tổ chức. Lúc bấy giờ tôi không biết gì
về Triều Tiên. Tôi cho văn hoá Ðại Hàn nừa Trung Hoa, nửa Nhật Bản.
Ðiều này chắc chắn làm cho nhiều người bạn Ðại Hàn của tôi khó chịu.
Nhưng một hôm đọc tờ báo nhà truờng có mục quảng cáo về buổi nói
chuyên của một thiền sư Ðại Hàn, từ Hán Thành đến. Tính tò mò đưa tôi
đến nghe buổi nói chuyện của thiền sư Daechaeng. Thiền sư làm tôi quan
tâm đến Phật Giáo Ðại Hàn.
Thiền sư Daechaeng là một nữ tu hiền từ, dung dị vớí thái độ cởi mở,
khoan hoà. Nghe Ni sư nói tôi có cảm tưởng như mình đang ngắm một bức
tranh xưa, mộc mạc, đơn thuần, nhưng sâu thẳm không luờng. Lời dạy của
nữ thiền sư cho ta có cảm tưởng như thoát khỏi ranh giới nhị nguyên.
Tôi thấy mình đi sâu vào ý nghĩa của cuộc đời, của số kiếp con người,
trọn vẹn không hệ lụy, giải thoát, thung dung tự tại, không bị ngăn
cản bởi vô số hàng rào trần thế. Chúng ta thuờng nghe nhiều người nóí
họ đã làm gì và những gì phù hợp vớí họ, có ích lợi đối với họ nhưng
ít ai cho ta thấy ta là ai và ta cần phải làm gì. Sau buổi nghe giảng,
tôi suy nghĩ, nếu ở Ðại Hàn có những thiền sư như Daechaeng, ta phải
sang đó nghiên cứu, học hỏi.
“Ðó là cái duyên đưa tôi đến Ðại Hàn và tôi đã đến đây với lòng thành
khẩn”, thiền sư Chong Go nói. “Tôi thọ giới Sa Di năm 1993, thọ giới
Tỳ Kheo năm 1998, được truyền tâm pháp năm 2003 và tôi nhận thấy bất
kỳ ở đâu cũng là ngôi chùa của tôi, cũng là nơi che chở tôi, cũng là
nơi tôi có thể hành thiền và thi hành pháp sự.
Ðức tính dung dị, khoan hòa, cởi mở đã đưa người thanh niên Mỹ vào
đạo, xuất gia, hành thiền. Ðức Dalai Lama được nhiều người mến chuộng
nhờ những đức tính này. Những đức tính này đã chinh phục Trung Quốc,
Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan theo Phật
Giáo mà không cần một tên lính, một tấc sắt.
Tinh thần Thiền, tinh thần cởi mở, không chấp trước, làm cho Nhật Bản
trở thành hùng cường, làm cho con người an nhiên tự tại trước mọi hoàn
cảnh, giữa nơi chợ búa cũng như trong chốn lao tù :
Ðối đầu trực diện từng giờ
Cuộc đời là một bài thơ tuyệt vời
Cảnh Thiền trước mắt người ơi
Ði tìm chẳng thấy trộng vời càng xa
Cảnh Thiền, trong Thơ Tù, tr. 153 của Thích Quảng Ðộ
Và Tuệ Sỹ xao xuyến, “mảnh dẻ như nụ hoa trắng muốt điểm trên cành mai
khẳng khiu, tỏa lan cái ấm áp vào hơi lạnh của cuộc đời tuyết giá” :
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo mầu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng ?
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tuờng ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn
hay
Núi và biển vốn lặng im muôn thuở
Người thấy gì trong chớp
ngắn sát na ?
Nào hội cũ tiếng vàng rung rừng thẫm
Nầy phòng giam chập choạng dạng yêu ma
Khổ Hóa Phật tận sâu vùng ngục tối
Trên sóng gào người khốc liệt vượt biên
Tâm Bồ Tát lộng lung xuyên nhật nguyệt
Nam
mô ơi trầm đọng vọng hơi chuông
Với thiền sư Chong Go, Thiền Sư Quảng Ðộ, thiền sư Tuệ Sỹ thì tất cả
mọi người đều là đối tượng pháp sự, mọi hoàn cảnh đều là thiền cảnh :
mọi người đang đi trên con đường cao rộng của Chánh Pháp. Ðặt trọn
niềm tin vào chí hướng thượng, tâm bồ đề của toàn thể chúng sinh. Ðặt
trọn niềm tin vào khả năng hành đạo của mình. Thế giới ta bà là đất
lành, nơi tâm Bồ Tát có thể phát triển. Hoa sen tinh khiết chỉ nở
trong chốn bùn lầy. Tâm tịnh thì thế giới tịnh.
Tình cờ tôi dở tờ báo Thế Giới Ngày nay đọc bài thơ ngắn, với tựa đề
:
Ðọc vần thơ lính
Chớ nghe download nhạc tình
Ðọc vần thơ lính giật mình thương thân
Thời gian những tưởng là gần
Mấy mươi năm cũ phong trần qua nhanh
Ngày xưa mái tóc còn xanh
Bạn bè cầm súng đấu tranh lên đường
Ngày nay cuộc sống tha hương
Mai đây nằm xuống bốn phương ngậm hờn.
Người Xứ Mù Sương
Chiến tranh đã chấm dứt trên quê hương hơn 30 năm, nhưng hận thù vẫn
còn dai dẳng, tức tưởi trong thân phận của một kẻ phải xa quê hương,
để một ngày đó, không xa, bỏ mình nơi đất khách quê người. Ðây là hậu
quả của một chính sách một mất một còn, không đội trời chung, không
thể dung thứ nhau. Cũng vào thời điểm ấy, tại Ðức quốc, dân chúng hai
bên Ðông Ðức, Tây Ðức tuy bị bức tuờng Bá Linh ngăn cách, phải chấp
nhận số phận của thế giới luỡng cực, nhưng đã khôn ngoan, không vì vậy
mà phải trở thành kẻ tử thù, không đội
trời chung, để đến khi tình hình thế giới thay đổi, họ gặp gỡ nhau,
không hận thù, không tức tưởi, cùng nhau xây dựng lại quê hương đổ nát
ví chiến tranh, vì ý thức hệ.
Phật Giáo thấy rõ hiểm họa hận thù, chủ trương hoà hợp hoà giải dân
tộc trong không khí đầy thù hận, dầu sôi lửa bỏng, nên không được hai
bên hưởng ứng. Mặc dầu không được hưởng ứng, nhưng nó vẫn là giải pháp
sáng suốt nhất. có thể tiết kiệm biết bao xương máu cho dân tộc Việt,
có thể hài hòa chung sống với nhau khi tình hình quốc tế thay đổi.
Nhưng không, phải quyết tâm “diệt Mỹ cứu nước”, phải kiên cường theo
guơng Lenin, Stalin không chệch hướng. Kết quả là hận thù không biết
khi nào mới nguôi được.
Giờ đây, phải chăng Phật Giáo muốn dẫm lại vết xe cũ ? Thực sự “đã
biến tuớng Bát Chánh Ðạo và làm nghiêng ngửa Giáo Hội” ? Ðã “rời bỏ
con đường cao rộng của Chánh Pháp”? Ðã quên đi chủ trương của Giáo
Hội, gây hận thù đến khi nào mới khỏa lấp ? Trong không khí thù hận,
đấu tranh, nóí hận thù thì dễ, nói hoà hợp thì khó, nhưng đường nào
thực sự hợp vớí tinh thần Phật Giáo, hợp vớí Chánh Pháp ? Chủ trương
hoà hợp hoà giải không có nghĩa là thỏa hợp, không có nghĩa là thân
Cọng vào thời chiến hay thân Mỹ, theo diễn tiến hoà bình vào thời
bình, mà hợp vớí tinh thần Phật Giáo, hợp vớí Chánh Pháp, hợp với
truyền thống Dân Tộc, vớí chủ thuyết Trăm Con Trong Bọc Trứng.
Một ông bạn thâm niên kể cho tôi nghe câu chuyện cách đây mấy chục
năm. Hồi ấy ông ta ở tù chung với một số người liên quan đến vụ tranh
đấu đòi hỏi Quốc Hội Lập Hiến năm 1966. Ở trong tù có ông thiếu tá dù
sống trong cảnh tù tội nhưng vẫn không mất tính nghịch ngợm. Ông nói
với người ở chung phòng là ông có quen một cô bạn gái, muốn viết thư
thăm nhưng sợ lỡ bà xã bắt được thư, biết tuồng chữ thì nguy, nên nhờ
người bạn ở chung phòng viết thư hộ. Anh bạn cả tin, không ngần ngại
viết thư hộ theo lời nhắc của ông thiếu tá. Viết xong ông cất thư đợi
ngày thân nhân vào thăm tù, trong đó có bà xã của người bạn viết hộ
thư. Ông thiếu tá đem bức thư ấy giao cho bà xã của người bạn, bảo bà
ta mang về nhà đọc, bí mật tiết lộ cho bà ấy biết vì hạnh phúc gia
đình của bà nên anh bạn nhờ gửi thư đó cho cô bạn, anh không gửi mà
giao lại cho bà.
Bà xã của người bạn về nhà đọc “bức thư tình”, lời lẽ lâm ly, do chính
tuồng chữ của ông xã. Bà giận run người, không ngờ chồng mình lại phản
bội mình như vậy, chồng mình bấy lâu ngoại tình mà mình không hay
biết. Ý tưởng bị chồng phản bội làm bà quặn đau như thắt ruột. Bà cất
bức thư vào hộc khóa lại, sợ con cái vô tình đọc được sẽ nghĩ thế nào
vào người cha của chúng.
Bà gặp những người bạn cùng hội cùng thuyền, bày mưu, sắp kế, điều tra
xem “người tình trong thơ” là ai. Thấy bóng dáng một người đàn bà nào
đi ngang trước cửa cũng nghĩ là bồ của ông xã. Nghe cú điện thoại có
giọng đàn bà, con gái cũng như là bồ của ông xã gọi đến. Người bà tiều
tuỵ. Ðến ngày bới xách, bà đi dạo phố để những đứa con khỏi thắc mắc.
Trong tù ông xã của bà đợi hết ngày không thấy vợ vào thăm nuôi, hơi
lo không biết ở nhà có xảy ra chuyện gì, nhưng không mảy may nghi ngờ
sự ghen tuông của vợ. Tuần kế tiếp, vừa thấy bóng bà xã, anh ta vội
vàng hỏi han, nhưng thái độ bà xã là một gáo nước lạnh. Bà đợi chồng
hỏi han xong, mới từ từ lấy “bức thư tình” đưa cho chồng, không nói
một lời.
Ông xã cầm bức thư có vẻ bỡ ngỡ. Ðiều này lại làm cho bà xã nghi thêm.
Bà nói : Không ngờ anh dấu diếm giỏi thật. Quen với cô bạn đã mấy năm
rồi ? Cô ta tên gì . . . ? Ông xã vỡ lẽ, bảo bà xã bình tĩnh, để ông
ta giải thích. Giải thích xong ông kêu ông thiếu tá tinh nghịch đứng
ra làm chứng. Bà xã nửa tin, nửa nghi hỏi hai anh có toa rập nhau để
phỉnh gạt bà ta không ? Sau khi nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, bà xã có
vẻ tin, nhưng trong lòng vẫn chưa yên.
Sở dĩ có cảnh tượng bi hài kịch trên vì tình yêu thật chưa trọn vẹn.
Tình yêu trọn vẹn tin tưởng tất cả, khoan dung tất cả, chịu đựng tất
cả.Tình yêu chưa trọn vẹn nên dễ bị lung lạc, dễ nghi kỵ, nhìn đời,
nhìn những người chung quanh như những kẻ sẵn sàng phá rối hạnh phúc
mình. Vì nghi kỵ, vì thiếu tự tín nên thích làm quen với những người
“cùng cảnh ngộ”, xem lời nói của họ là vàng ngọc, còn lời nói của
người bạn đường lâu năm vẫn có cái gì che dấu. Những người bạn đồng
cảnh ngộ là những bạn tâm giao, những người sống chết với mình, những
người trung thành với mình, những người mình hoàn toàn tin tưởng và
giao phó vận mệnh suốt đời . . .
Tôi không thích việc làm như vậy. Tôi quen thuộc với giáo lý hài hoà,
thanh thoát của Phật, có vẻ như khác hẳn với những lời lẽ gần đây
trong Thông Bạch, Thông Cáo, Thông Tư -mà tôi chắc không phải của quí
Thầy-, đầy khói mù nghi kỵ, mạ lỵ, ly tán, thiếu tự tin, thiếu bao
dung. Hay là tôi chưa đầy đủ trí tuệ để có thể thâm nhập đạo lý uyên
nguyên của Bồ Tát Ðạo vì chính nghi kỵ là tín lực, mạ lỵ là tán thán,
ly tán là hòa hơp, thiếu tự tín là tràn đầy tín, hạnh, nguyện, thiếu
bao dung là vô luợng công đức. Tôi không có trí tuệ để thâm nhập đạo
lý Bát Nhã ”sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Tôi không đầy đủ
trí tuệ để có thể hiểu ý nghĩa của hai bức tượng hộ pháp đứng gác
trước cổng chùa, tượng ông thiện, ông ác. Ông thiện cũng là hộ pháp mà
ông ác cũng là hộ pháp. Ta bà là Tịnh độ.
Phật Giáo muôn mầu, muôn sắc, thiên hình vạn trạng mà tôi thì chỉ mới
buớc chân vào cổng chùa và kinh hoàng dội lui khi thấy hình tượng của
ông hộ pháp mặt mày hung dữ đứng choáng trước cổng chùa ! Ôi chao, sao
ông dữ tợn thế, ông có phải là vị hộ pháp ?