Thư gửi Hòa thượng Thích
Thiện Hạnh
Nhận định về Vai trò và
Bản phúc trình của vị
Chánh Thư Ký viện Tăng Thống GHPGVNTN
-
PSN -
9.11.2007 | Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Hòa thượng,
Trước hết, chúng con kính vấn an Hòa thượng, nguyện Hòa thượng pháp
thể khinh an, trí tuệ luôn ngời sáng để tiếp chúng độ tăng, đảm trách
những việc trọng đại của giáo hội địa phương lẫn trung ương.
Sau đây, chúng con xin trình bày những gì muốn thưa với Hòa thượng
trong hình thức “hầu chuyện” để có tính cách trực tiếp và dễ cảm thông
hơn.
Kính bạch Hòa thượng,
Giáo hội là một cơ cấu tổ chức hành chánh thiệp thế, tất phải ứng xử
theo pháp lý và các qui điều hành chánh.
Do vậy,
việc hầu chuyện với Hòa thượng ở đây dù đặt trên tinh thần xây dựng
giữa đồng đạo, cũng không thể bỏ qua những căn bản của hành chánh,
pháp lý.
Nói về pháp lý, hành chánh, tất phải minh định địa vị, chỗ đứng của
mỗi cá nhân trong cơ cấu tổ chức. Nếu tính cách pháp nhân không có thì
pháp lý ứng dụng trên và từ cá nhân đó cũng không có hiệu lực gì. Do
vậy, theo giáo chỉ của Viện Tăng Thống mang số 02/GC/VTT, ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2005, chúng con rất nghi ngờ về chức vụ “Chánh
Thư Ký” Viện Tăng Thống (VTT) mà Hòa thượng công khai sử dụng trên một
vài văn kiện gần đây. Trên thực tế, nhiều người biết rằng giáo chỉ số
02 ấy do một vài người nào đó soạn thảo tại hải ngoại, đã loại trừ quá
bán thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo (VHĐ), đồng thời cũng loại trừ
luôn cả chức vị Chánh Thư Ký VTT, đến nỗi sau khi giáo chỉ được phổ
biến, chính Hòa thượng cũng ngạc nhiên tiết lộ với một số thành viên
trong nước và hải ngoại rằng “chính tôi cũng không biết gì về giáo chỉ
ấy.” Rồi cũng Hòa thượng phát biểu “ngay cả tôi cũng không rõ là tôi
có còn là Chánh Thư Ký VTT không nữa!” Và thành viên của Giáo hội tại
hải ngoại hầu như đều ngầm biết giáo chỉ số 02 ấy do ông Võ Văn Ái
soạn thảo vội vàng, tranh thủ phổ biến cho kịp trước khi hết năm 2005
(để kỷ niệm 30 năm đấu tranh của giáo hội, hay ăn mừng 30 năm cộng sản
toàn chiếm miền Nam? vì nếu qua năm 2006 sẽ không có lý do chính đáng
gì để tổ chức một đại hội rầm rộ), cho nên không thể chờ đợi quyết
định từ trong nước: nên hay không nên giữ Hòa thượng Thích Thiện Hạnh
ở ngôi vị Chánh Thư Ký VTT (vì nghe đồn là giữa Hòa thượng và Thượng
tọa Tuệ Sỹ có giao tình khá tốt đẹp). Chờ đợi không được, cuối cùng
phải bỏ trống, không nhắc gì đến vị Chánh Thư Ký VTT trong Giáo chỉ số
02 ấy cả. Do vì tư cách pháp nhân không được ông Võ Văn Ái “chuẩn
thuận” rõ ràng, Hòa thượng đã phải im lặng suốt thời gian dài, để mặc
cho các Thông Điệp, Thông Bạch từ VTT từ đâu xuất hiện mà chính Hòa
thượng không hay biết, cho đến khi có huynh trưởng Lê Công Cầu được
ông Võ Văn Ái cất nhắc cho đi thẳng, vượt cấp để thọ cấp Dũng, qua mặt
hết các đàn anh đàn chị trong tổ chức Gia Đình Phật Tử, khỏi cần công
trạng hay thành tích đóng góp, leo lên ghế Vụ trưởng Vụ Gia Đình Phật
Tử; mà sự kiện huynh
trưởng
Lê Công Cầu gây xáo trộn và rạn nứt trầm trọng cho tổ chức GĐPT này
rất cần sự yểm trợ của giáo hội tại Thừa Thiên-Huế, do đó mới có việc
thương lượng, mặc cả với Hòa thượng để rồi, vào ngày 25/01/2007, Hòa
thượng mới được “phục chức” từ từ và tự nhiên qua thư phản đối nhà cầm
quyền nhân danh Chánh Thư Ký VTT, cũng như qua sự chứng minh cho lễ
“truyền vô tận đăng” (theo Thông Cáo Báo Chí ngày 01/02/07) cho huynh
trưởng
Lê Công
Cầu.
Dù cương vị Chánh Thư Ký VTT có vẻ như được làm ngơ công nhận qua vài
văn thư do Hòa thượng ký, nhưng trên văn bản pháp lý, vẫn chưa có giáo
chỉ nào cho thấy rằng Hòa thượng vẫn còn ở nguyên vị kể từ giáo chỉ số
02/GC/VTT. Từ nền tảng mơ hồ như vậy, tất cả các văn thư sau này do
Hòa thượng ký, kể từ
29/11/2005,
dẫn đến hoang mang ngờ vực trong giới Tăng Ni và Phật tử, là điều
không thể tránh khỏi. Sự ngờ vực này vạch ra ba trường hợp có thể xảy
ra như sau:
1)
Văn phòng Chánh Thư Ký VTT không hay biết và không kiểm soát được các
văn kiện từ VTT ban hành (bởi vì các văn kiện này chỉ thấy công bố ở
hải ngoại, sau đó trong nước mới biết): tất cả đều do ông Võ Văn Ái và
thiểu số cọng sự quyết định và soạn thảo từ hải ngoại;
2)
Văn phòng Chánh Thư Ký VTT chỉ ra các văn thư có tính cách địa phương
(mà thực tế chỉ cần dùng cương vị Chánh Đại Diện GHPGVNTN Thừa
Thiên-Huế là đủ), chẳng hạn thư phản đối chính quyền Thừa Thiên-Huế,
hoặc Ban Tôn Giáo đã ngăn trở Phật sự tại Huế, v.v… còn những văn kiện
trọng đại thì giao khoán cho ông Võ Văn Ái soạn thảo, rồi Lê Công Cầu
mang đến cho văn phòng VTT “tường lãm”;
3)
Văn phòng Chánh Thư Ký VTT hoàn toàn kiểm soát các văn kiện được đệ
trình và ban hành từ VTT, do chính Đức Tăng Thống chỉ thị hay chuẩn y.
·
Ở trường hợp thứ nhất, trong cương vị Chánh Thư Ký VTT mà hoàn toàn
không hay biết gì về các văn kiện từ VTT ban hành, hoặc có hay biết
chỉ sau khi các văn kiện đó được phổ biến, thì trách nhiệm của Hòa
thượng là phải khẩn cấp lên tiếng báo nguy, không thể im lặng để cho
VHĐ (với sự lạm quyền của ông Võ Văn Ái) tùy tiện hành xử. Im lặng
trong trường hợp biết có sự lũng đoạn thao túng tác động trực tiếp đến
quyền “điều hành văn phòng Viện Tăng Thống” (điểm 3, điều 17,
mục “Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương”, Hiến
Chương GHPGVNTN) là sự im lặng tắc trách, không những tự tố cáo sự
bất lực của Hòa thượng đối với trách nhiệm và quyền hạn Chánh Thư Ký,
mà còn là hành vi hủy hoại uy tín và phẩm đức của Viện Tăng Thống,
biểu tượng tinh thần tối cao của giáo hội. Sau này, lịch sử ghi lại
những tan nát đổ vỡ của giáo hội ở giai đoạn nguy biến thì văn phòng
nào trực tiếp chịu trách nhiệm nếu không phải là Văn phòng VTT, là văn
phòng đã “trình đức Tăng Thống tấn phong Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo”
(điểm 2, điều 17, nguồn trích như trước) để xin chuẩn y và ban hành
Giáo chỉ số 02/GC/VTT ngày 29/11/2005 và Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT ngày
08/9/2007? Hai giáo chỉ quan trọng này nhằm loại trừ, bổ sung, chấn
chỉnh, sắp xếp nhân sự của Ban Chỉ Đạo VHĐ trong nước cũng như các
giáo hội ngoài nước, vốn đã không củng cố kiện toàn được giáo hội mà
trái lại còn đưa giáo hội đến chỗ rạn nứt, tan rã. Trách nhiệm đó tất
nhiên Hòa thượng là người trực tiếp gánh lấy đối với lịch sử, không
thể nói là không hay biết gì cả, vì trước đây không hay biết mà nay đã
biết thì phải lên tiếng minh định. Im lặng là mặc nhiên hiệp ý với sai
lầm phá hoại giáo hội.
·
Ở trường hợp thứ hai, nếu biết rõ các văn kiện hệ trọng của giáo hội
không xuất phát từ Văn phòng VTT để đệ trình Đức Tăng Thống chuẩn y,
mà vẫn không làm gì để ngăn chận hay cứu vãn, tất Hòa thượng phải chịu
trách nhiệm về sự thụ động, thờ ơ của mình đối với giáo hội. Còn như
cảm thấy không thể điều hành Văn phòng VTT thì phải đệ trình Đức Tăng
Thống về sự bất lực của mình, không thể cứ ôm giữ chức vụ mà không thi
hành trách vụ, làm bù nhìn cho sự lạm quyền của vài phần tử từ hải
ngoại, đặc biệt là cư sĩ Võ Văn Ái, không phải là tăng sĩ nằm trong
thẩm quyền “qui lập danh sách giáo phẩm Tăng, Ni” của Văn phòng
VTT (điểm 5, điều 17, Hiến Chương).
·
Ở trường hợp thứ ba, Hòa thượng chính là tác giả soạn thảo giáo chỉ
của VTT và đệ trình các văn kiện từ VHĐ cũng như Văn phòng Chánh Thư
Ký VTT lên Đức Tăng Thống. Trong nhiệm vụ này, Hòa thượng có quyền hạn
xét lại hình thức lẫn nội dung các văn kiện ấy, xem có phù hợp với
luật Phật cũng như Hiến Chương của giáo hội hay không trước khi đệ
trình. Theo Hiến Chương của GHPGVNTN, Đức Tăng Thống có nhiệm vụ
“ban giáo chỉ tấn phong Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo sau khi Đại hội
GHPGVNTN bầu cử” (điểm 3, điều 11, mục “Nhiệm vụ Đức Tăng Thống”,
Hiến Chương); điều này có nghĩa là danh sách Ban Chỉ Đạo được VHĐ đệ
trình Đức Tăng Thống phải thông qua Văn phòng Chánh Thư Ký VTT. Vậy
xin hỏi Quyết định của VHĐ đệ trình Đức Tăng Thống nhằm xin chuẩn y
“bổ sung, chấn chỉnh và kiện toàn Hội Đồng Lưỡng Viện” vào tháng 11
năm 2005, và Quyết định “thanh lọc hàng ngũ Giáo hội nhằm đối phó tình
hình khẩn trương mới” vào tháng 9 năm 2007 có thông qua Văn phòng VTT
hay không? Nếu không thông qua mà vẫn được chuẩn y bởi Đức Tăng Thống,
có nghĩa là Văn phòng VTT không làm việc, không có quyền hạn gì, và
chức vụ Chánh Thư Ký VTT cũng không có lý do gì để tồn tại. Nếu có
thông qua thì sao Hòa thượng tiết lộ là không hay biết gì về Giáo chỉ
02/GC/VTT qua đó đã loại trừ quá bán thành viên Ban chỉ đạo VHĐ và bỏ
sót luôn chức vụ Chánh Thư Ký VTT? Còn nếu chỉ có thông qua Giáo chỉ
số 09 mà thôi tất nhiên Hòa thượng là người trực tiếp chịu trách nhiệm
với lịch sử giáo hội trong biến cố tháng 9/2007: phá tan sự hòa hợp và
tiềm năng yểm trợ giáo hội từ các GHPGVNTN tại hải ngoại, ít nhất là
trên mặt tinh thần (vì các giáo hội này không thể bị giải tán trên mặt
pháp lý); mặt khác, cũng phá hoại tín tâm của gần một triệu Phật tử
Việt Nam sinh hoạt tu học ở ngoài nước.
Điểm qua ba trường hợp trên, có thể nhìn ra được là giá trị pháp nhân
và pháp lý của vị Chánh Thư Ký VTT có điều gì không ổn, dù ở trong
trường hợp nào. Nhưng ở đây hãy đặt vào trường hợp thứ ba, tức là
chính Hòa thượng đã đệ trình Quyết Định của Viện Hóa Đạo lên Đức Tăng
Thống, xin chuẩn y việc giải tán các GHPGVNTN Hải Ngoại, giải tán Văn
Phòng II Viện Hóa Đạo cũ để thành lập Văn Phòng II mới; ngoài ra, cũng
chính Hòa thượng đã “đệ trình” một văn kiện gọi là “Bản Phúc Trình
Phật Sự” đi ngược xuống VHĐ để đưa ra 4 sự kiện và đề nghị 5 biện pháp
“nhằm chấn chỉnh lại Nội bộ”.
Về hình thức và nội dung Giáo Chỉ số 09, theo nguyên tắc hành chính
thì đã thông qua Văn Phòng VTT với quyền điều hành của vị Chánh Thư
Ký, ở đây sẽ không tốn thời gian để lạm bàn vì đã có nhiều ý kiến của
chư vị tôn đức lãnh đạo GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ như Hòa thượng Thích Thắng
Hoan, Hòa thượng Thích Chơn Thành, Hòa thượng Thích Hạnh Đạo, Hòa
thượng Thích Nguyên Lai, Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, Thích Trí Chơn,
Thích Nguyên An, Thích Nguyên Trí, cũng như một số Tăng Ni và cư sĩ,
huynh trưởng Gia Đình Phật Tử đã trình bày qua nhiều văn kiện rồi. Chỉ
xin bổ túc về Giáo chỉ mới nhất vừa được Viện Tăng Thống chuẩn y, mang
số 10/VTT/GC/TT, ban hành ngày 02 tháng 12, năm 2007, để thấy rõ thêm
về tính cách thiếu chính xác và không mang giá trị pháp lý đáng tin
cậy. Thưa Hòa thượng, hẳn Hòa thượng đã từng nghe ông Võ Văn Ái giải
thích, nhấn mạnh về giá trị của Giáo chỉ Viện Tăng Thống giống như sắc
lệnh của quốc gia, một khi ở trên ban hành, ở dưới phải tuyệt đối phục
tùng, khâm tuân, không được bàn cãi. Như vậy, quý vị giải thích thế
nào về trường hợp Giáo chỉ số 10/VTT/GC/TT qua đó cung thỉnh Đại lão
HT Thích Tâm Châu vào Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống
(ngoài nước) mà Đại lão HT lại viết văn thư số 1404/VP/TT, “xin
đứng ngoài Hội-Đồng Giáo-Phẩm Trung-Ương VTT, GHPGVNTN” (trích văn
thư ký ngày 04/12/2007 của HT Thích Tâm Châu, Thượng thủ GHPGVN Trên
Thế Giới kính gửi Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Tăng Thống GHPGVNTN),
và Hòa thượng Thích Thuyền Ấn, nguyên thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm
Trung Ương GHPGVNTN, cũng xin “hoan hỷ
cho
phép tôi được rút tên ra khỏi Hội Đồng Giáo Phẩm Viện Tăng Thống
GHPGVNTN”
(trích thư của HT Thích Huyền Ấn kính gửi HT Thích Huyền Quang ngày
06/12/2007). Trường hợp nhị vị Đại lão Hòa thượng xin rút tên này
cho thấy hai điểm cần nhận thức: 1) Giáo chỉ không thể nào là sắc lệnh
cứng nhắc và có tính cách bắt buộc, cưỡng ép (vì phục vụ Giáo hội là
việc tự nguyện của mỗi cá nhân, khi chính thức tham gia thì dựa trên
nguyên tắc Hiến Chương và giới luật của Phật mà ứng xử); nếu Giáo chỉ
trái ngược với tinh thần giới luật của Phật, lại trái Hiến Chương và
đem đến sự mất thanh tịnh hòa hợp trong Tăng đoàn, thành viên Giáo hội
có quyền không khâm tuân; 2) Chứng tỏ rằng việc sắp xếp nhân sự, cung
thỉnh, bổ sung, chấn chỉnh nội bộ qua các Quyết định và Giáo chỉ trong
thời gian qua, đều do sự tự tung, tự tác của một thiểu số nào đó – mà
việc này được thấy rõ qua trường hợp của nhị vị Đại lão Hòa thượng
Thích Tâm Châu và Thích Thuyền
Ấn,
đã bị thiểu
số này tự động đưa tên vào Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng
Thống mà không thỉnh ý trước. Suy ra, có thể vẫn còn một số vị khác có
tên trong danh sách mà không hề được cung thỉnh trực tiếp đúng lễ nghi
truyền thống Phật giáo cũng như nguyên tắc của Hiến Chương.
Đó là việc của Giáo chỉ, không thể bàn hết được. Trong khi chủ đích
của thư này, chúng con đặc biệt lưu tâm về “Bản Phúc Trình Phật Sự” ký
tên Hòa thượng Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư Ký VTT.
Kính bạch Hòa thượng,
Thông thường, bản phúc trình của một cơ quan, tổ chức về một vấn đề,
một sự kiện nào đó, đặc biệt là của Văn phòng Viện Tăng Thống qua
cương vị Chánh Thư Ký, trước khi “đệ trình” VHĐ thì hẳn đã dành nhiều
thời gian để nghiên cứu, phỏng vấn, đối chiếu, thẩm tra, kiểm chứng
tài liệu và nguồn tin (bằng lời nói hay bằng văn kiện, chứng từ v.v…)
từ nhiều phía (phía kết tội cũng như phía bị kết tội) để tiến đến văn
bản đúc kết xác thực, công bằng, bảo đảm không sai lầm. Một khi bản
phúc trình được đệ trình lên cấp trên, hoặc phổ biến đến các cơ quan
truyền thông, thông tin đến quần chúng, sẽ minh xác về một thực trạng
không thể chối cãi và có giá trị bao quát, khiến mọi người phải tin.
Một phúc trình đúng nghĩa như thế, không thể nào là phúc trình của một
cá nhân mà phải là của một nhóm người với thời gian tra cứu, xét
nghiệm chín chắn. Do đó, văn kiện gọi là “Bản Phúc Trình Phật Sự số
8907/VTT/CTK” do Hòa thượng “đệ trình” Viện Hóa Đạo không thể nào tin
cậy được, vì nội dung mang nhiều tư kiến, thành kiến, chủ quan, với
nhiều tâm lý phiền não, chê trách, mỉa mai… của cá nhân người viết đối
với cá nhân khác, hoặc nhóm người khác. Người ta không tìm thấy một
điểm nào có thể gọi là khách quan, khoa học và công bằng trong Bản
Phúc Trình ấy.
Xin đi vào những chi tiết cần bàn nói:
1) Trước
hết, về quyền hạn của vị Chánh Thư Ký VTT, theo Hiến Chương, không có
trách nhiệm hay bổn phận “đệ trình” Bản Phúc Trình Phật Sự đến VHĐ mà
phải ngược lại. Nếu có đệ trình Phật sự gì đến VHĐ, Hòa thượng chỉ có
thể đứng ở cương vị Chánh Đại Diện GHPGVNTN Thừa Thiên-Huế mà Hòa
thượng kiêm nhiệm, chứ không thể ký với tư cách Chánh Thư Ký VTT;
không những vậy, lại ghi là “Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện” để đệ trình
VHĐ! Không có điều khoản nào trong Hiến Chương qui định quyền hạn của
vị Chánh Thư Ký VTT có thể thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, cũng không
thể có trường hợp từ VTT lại “đệ trình” Phật sự với VHĐ. Nguyên tắc
hành chánh tối thiểu như vậy mà Hòa thượng không quan tâm, vội vàng
phổ biến văn kiện để làm trò cười cho thức giả. Thiên hạ sẽ nghĩ rằng
VHĐ kiểm soát toàn quyền và VTT phải tuân lệnh, báo cáo, đệ trình. Còn
nếu là một bản góp ý đề nghị thì không thể gọi là “Bản Phúc Trình”.
2) Vì
lý do gì, hình thức ghi số thứ tự của hai giáo chỉ không đồng nhất?
Giáo chỉ số 02 thì ghi là “số 02/GC/VTT”, còn giáo chỉ số 09 thì ghi
là “số 09/VTT/GC/TT” nghĩa là sao? Có lý do gì để thay đổi về hình
thức văn kiện này, hay vì hai giáo chỉ này do hai nơi soạn thảo khác
nhau, hoặc là vội vàng quá không đủ thời gian xem lại giáo chỉ số 02
khi soạn giáo chỉ số 09? Hay là Văn phòng VTT không hề có hồ sơ lưu gì
cả nên cái trước cái sau bất nhất? Tại sao giáo chỉ số 09 có ghi TT
(Tăng Thống) mà giáo chỉ số 02 lại không có? Phải chăng giáo chỉ số 02
không do Đức Tăng Thống ban hành? Và tại sao từ giáo chỉ số 02 lại
nhảy vọt thành 09? Vậy giáo chỉ số 03, 04, 05, 06, 07 và 08 ở đâu mà
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, cơ quan phát ngôn chính thức của
GHPGVNTN không thấy đưa ra? Phải chăng những giáo chỉ kia không hề
hiện hữu? Còn nếu hiện hữu sao không cho phổ biến? Nếu đó là vì giáo
chỉ ban hành cho giáo hội trong nước không liên quan hải ngoại nên
không phổ biến, vậy thì giáo chỉ số 02 cũng “chấn chỉnh, bổ sung, kiện
toàn nhân sự” trong nước, sao lại rầm rộ phổ biến tại hải ngoại và lưu
giữ trong tài liệu của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế? Nếu các giáo
chỉ 3, 4, 5, 6, 7 và 8 có ban hành mà Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc
Tế cũng như Văn Phòng II cũ (và mới) đều không biết thì sao gọi là có
phối hợp Phật Sự trong và ngoài nước? và VPII VHĐ làm sao có thể thay
mặt VHĐ trong nước để thi hành Phật sự được? Còn nếu đặt số 09 vì giáo
chỉ này ban hành vào tháng 9 thì sao giáo chỉ số 02 lại ban hành tháng
11? Đây chỉ là những tiểu tiết, nhưng không phải là không quan trọng,
vì qua đó, người ta có thể thấy tính cách bất nhất, không ngăn nắp,
không trật tự của hệ thống hành chánh giáo hội, mà một vị Chánh Thư Ký
như Hòa thượng không thể không lưu tâm.
3) Bản
Phúc Trình Phật Sự của Chánh Thư Ký VTT ký ngày
08/9/2007
trùng ngày với Giáo chỉ số 09/VTT/GC/TT (cũng ký ban hành ngày
08/9/2007).
Theo Hiến Chương và nguyên tắc hành chánh, để có sự chuẩn y của Viện
Tăng Thống qua một giáo chỉ về sự sắp xếp hoặc bầu cử nhân sự của Ban
Chỉ Đạo VHĐ (trong và ngoài nước), phải có sự đồng thuận của 2/3 thành
viên Hội Đồng Lưỡng Viện, và quyết định từ VHĐ phải đệ trình VTT thông
qua Văn phòng Viện Tăng Thống. Như vậy, khi Văn phòng VTT nhận được
Quyết Định của VHĐ, vị Chánh Thư Ký sẽ duyệt qua rồi từ Huế, gửi
e-mail hay fax đến tu viện Nguyên Thiều ở Bình Định, nhờ người đem
trình Đức Tăng Thống (nhưng để bảo mật, chắc chắn phải sai người tín
cẩn đích thân mang đi thay vì gửi qua fax). Đức Tăng Thống cũng tuổi
già sức yếu, phải có người đọc cho nghe rồi mới quyết định. Ngài là
bậc chân tu đạo hạnh, nhiều kinh nghiệm làm việc hành chánh, cũng như
kinh nghiệm đấu tranh cho giáo hội và dân tộc trong nhiều hoàn cảnh
biến động của đất nước, sẽ dành khá nhiều thời gian để đắn đo, suy
nghĩ trước khi chuẩn y cái Quyết định kỳ lạ của VHĐ muốn giải tán toàn
bộ những giáo hội tại hải ngoại. Điểm qua cách làm việc theo thời gian
diễn tiến tuần tự và đúng theo nguyên tắc hành chánh như vậy, người ta
sẽ thấy rằng, nếu Hòa thượng Viện trưởng đọc Bản Phúc Trình của VTT mà
không cần suy nghĩ gì hết, lập tức ra quyết định giải tán giáo hội các
châu, giải tán Văn Phòng II VHĐ cũ để thành lập Văn Phòng II mới, rồi
đệ trình Đức Tăng Thống chuẩn y, thì ít nhất cũng phải mất hai tuần lễ
để có Giáo Chỉ số 09. Trong trường hợp thực sự gay go khẩn cấp, có thể
rút ngắn lại thành một tuần lễ cho tiến trình từ Bản Phúc Trình đến
Quyết Định, rồi từ Quyết Định đi đến Giáo Chỉ. Thế mà, trên thực tế
văn bản mà mọi người đều thấy, Bản Phúc Trình Phật Sự của Chánh Thư Ký
VTT và Giáo Chỉ số 09 đã ký cùng một ngày! Từ đó, suy ra: a)
Quyết định giải tán giáo hội các châu lục và quốc gia, cũng như
Văn Phòng II VHĐ đã có sẵn trước đó, dù có Bản Phúc Trình Phật Sự hay
không thì bên VHĐ cũng đã quyết định rồi; b) Quyết định
hay Giáo Chỉ đều do VHĐ ban hành, không hề đệ trình và xin chuẩn y từ
Đức Tăng Thống; nhưng e ngại làm vậy sẽ sai Hiến Chương, vì thế, sau
khi đã lỡ ban hành Giáo Chỉ số 09, biết có nhiều sơ hở và có thể bị
luận tội về sau, ông Võ Văn Ái đã cố gắng thuyết phục Hòa thượng viết
Bản Phúc Trình Phật Sự để gọi là có phối hợp giữa hai Viện; sau này
chịu trách nhiệm với lịch sử thì chỉ có Viện Tăng Thống chịu, còn VHĐ
thì vô can, bởi vì từ Bản Phúc Trình Phật Sự cho đến Giáo Chỉ đều xuất
phát từ Viện Tăng Thống. Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ sau đó
cũng chỉ là “thừa hành” và “khâm tuân” Giáo Chỉ Viện Tăng Thống mà
thôi; c) Nếu có Quyết Định của VHĐ đệ trình Đức Tăng
Thống để xin chuẩn y và ban Giáo Chỉ, tất nhiên Quyết Định đó phải đến
Văn phòng VTT ít nhất một tuần lễ trước khi Đức Tăng Thống nhận được;
mà nếu Quyết Định của VHĐ có thông qua VTT thì Hòa thượng Chánh Thư Ký
VTT phải biết, mà nếu đã biết thì không lẽ nào lại bỏ thời gian viết
làm gì cho thừa thãi cái gọi là Bản Phúc Trình Phật Sự! Không lẽ ra
Bản Phúc Trình để tự giết VTT mà bảo vệ VHĐ? d) Nếu
Quyết Định của VHĐ đi thẳng đến Đức Tăng Thống chứ không thông qua Văn
phòng VTT thì chức vụ của vị Chánh Thư Ký chỉ là bù nhìn (như đã nói ở
đầu thư), dù có viết trăm Bản Phúc Trình cũng không giá trị hay ý
nghĩa gì; e) Nếu Bản Phúc Trình Phật Sự do vị Chánh Thư
Ký VTT thực sự ký “đệ trình” VHĐ có tác dụng dẫn đến Quyết Định của
Hòa thượng Viện trưởng để xin Đức Tăng Thống chuẩn y Giáo Chỉ số 09,
thì tiến trình giải tán toàn bộ giáo hội các châu và Văn Phòng II VHĐ
(cũ) (với trên 200 thành viên chư tôn đức và cư sĩ đã từng phục vụ và
yểm trợ giáo hội suốt hơn 15 năm qua) là một tiến trình vội vàng, dễ
dãi, không tình, không lý, diễn ra một cách khinh suất trong vòng một
cữ trà của ngày 08/9/2007. f) Nếu tất cả những văn kiện
từ Bản Phúc Trình Phật Sự, đến Giáo Chỉ số 09 và Thông Bạch Hướng Dẫn
Thi Hành Giáo Chỉ đều không hội ý với vị Chánh Thư Ký VTT hay Đức Tăng
Thống, mà do ông Võ Văn Ái hay ai khác soạn thảo, thì ngay sau khi
phát hiện ra điều ấy, trễ nhất là từ lá thư này, chính Hòa thượng
Chánh Thư Ký VTT phải tức khắc lên tiếng để bảo vệ Viện Tăng Thống, và
nhất là phải bảo vệ Đức Tăng Thống. Không làm điều này, Hòa thượng sẽ
là người bị lịch sử luận tội chứ không ai khác, vì bên phía ông Võ Văn
Ái đã ném đá giấu tay, để VTT gánh chịu trách nhiệm.
4) Theo
dõi Bản Phúc Trình Phật Sự của Hòa thượng, ngay ở phần mở đầu, điều 1,
người ta đã thấy rằng Hòa thượng chỉ ngồi một chỗ trong liêu phòng,
không đi đâu được cả, vì “Công an chìm, nổi một lực lượng hùng hậu,
bao vây chặt chẽ các Chùa thuộc GHPGVNTN Thừa Thiên Huế, ở Chùa Báo
Quốc càng đông đảo hơn từ đó đến nay…” (suốt hơn hai tuần lễ Vu
Lan, từ 26/8 đến
08/9/07
- trích Bản Phúc Trình). Như vậy, bản phúc trình của Chánh Thư Ký VTT
chỉ là sản phẩm tưởng tượng của một người bị bao vây, kiểm soát, không
hề có một cuộc điều tra trực tiếp đối với những sự việc hay nhân vật
nào bên ngoài. Ngồi một chỗ mà “phúc trình Phật sự” thì liệu có chính
xác, đáng tin không?
5) Ở
điều 2, Hòa thượng
cho biết
“Một
số Phật tử ở Úc và Hoa kỳ, có gọi điện về thăm và nhân tiện, bày tỏ sự
bất bằng về một số Thượng tọa, Đại đức và Cư sĩ tu xuất, đang là Thành
viên Hội đồng Điều hành GHPGVNTN/HN tại Úc và Hoa kỳ, lại đi vận động
tách khỏi GHPGVNTN là vì sao?”
Vậy có nghĩa rằng chỉ cần vài người Phật tử nào đó điện thoại thăm và
bày tỏ quan điểm thì vị Chánh Thư Ký VTT đã có thể kết tội chư tôn đức
Tăng Ni đồng môn, đồng đạo của mình. Bản phúc trình dựa vào con số và
dữ kiện rất mơ hồ nên khi trình VHĐ, nó lây sự mơ hồ đến Quyết định
của VHĐ, rồi Quyết Định của VHĐ lại trả ngược sự mơ hồ về VTT để cho
ra Giáo chỉ số 09. “Một số Phật tử” và “một số Thượng Tọa,
Đại đức và Cư sĩ tu xuất” là ai, những ai? Kết án ai thì nói thẳng
danh tánh người đó, sao lại có thể nói vu vơ để gieo hoang mang nghi
ngờ trong Tăng đoàn và quần chúng, vạ lây hết toàn thể chư tôn đức
Tăng Ni và cư sĩ hải ngoại! Hòa thượng có khi nào đặt nghi vấn rằng:
làm sao “một số Phật tử” (dù là thân tín của Hòa thượng) ở Úc
và Hoa Kỳ lại biết được có “một số Thượng tọa, Đại đức… đi vận động
tách khỏi GHPGVNTN”? Một cuộc vận động như vậy có chính đáng
không? Nếu không chính đáng thì không thể nào công khai, mà không công
khai thì làm sao Phật tử lại biết được? Hòa thượng có biết rõ ai là
người đi vận động, và đã vận động những ai, thầy nào, sư cô nào, vào
ngày tháng nào, ở địa điểm nào, nội dung cuộc vận động như thế nào mà
gọi là “tách khỏi GHPGVNTN” không? Nếu hoàn toàn không biết rõ
thì sao lại “phúc trình”!
6)
Cũng ở điều 2, Hòa thượng nói về cư sĩ Trần Quang Thuận và Bùi Ngọc
Đường một cách mơ hồ, mang tính cách cá nhân, không thể kiểm chứng, để
đưa vào bản phúc trình. Việc trao đổi bằng lời giữa Hòa thượng và hai
vị cư sĩ nói trên (một vị cuối tháng 6, một vị đầu tháng 7 năm 2007 –
theo Phúc trình) có người thứ ba làm chứng không? Nếu người thứ ba đó
là thị giả hay vị tri khách của Chùa Báo Quốc, đệ tử của Hòa thượng
thì việc làm chứng có đáng tin không? Còn nếu không ai làm chứng thì
Hòa thượng muốn nói sao thì nói, hai vị cư sĩ kia ở xa không cãi được,
vì cãi thì hóa ra bất kính với Tăng; giả như phải nói ra sự thực thì
hóa ra tố cáo một vị Tăng tội vọng ngữ! Chỉ có thể đối chất để tìm ra
sự thực mà thôi; nhưng hai vị cư sĩ kia đã im lặng để bảo vệ Hòa
thượng và bảo vệ Tăng đoàn nên không nổi sân si đòi đối chất. Vậy thì
cách duy nhất để tìm sự thực là Hòa thượng hãy tự đối chất với chính
lương tâm của mình, lương tâm của một trưởng lão tỳ kheo: hai vị cư sĩ
kia có thực sự nói như thế không hay là ngược lại, toàn là những góp ý
với thiện chí xây dựng giáo hội?
7) Cũng
ở điều 2, Hòa thượng “phúc trình” sự việc một cách vu vơ, không thể
kiểm chứng:
“Giọng điệu hai
anh có vẻ như muốn thỏa hiệp, để được sinh hoạt, ý tưởng này
còn được thấy rõ qua nhóm Thân Hữu Già Lam”.
Chỉ qua sự ước đoán, thấy “có vẻ” như, là Hòa thượng cũng có thể đưa
ra một kết luận rồi sao! Và “ý tưởng này còn được thấy rõ” qua
nhóm Thân Hữu Già Lam (THGL) là như thế nào?
Làm phúc trình thì phải trình bày cặn kẽ sự việc, không thể chỉ dùng
hai chữ “thấy rõ” mà chẳng một lời nào sau đó để chứng minh sự thấy rõ
của mình cả.
Nhưng nếu
VHĐ đã căn cứ vào Bản Phúc Trình Phật Sự của Hòa thượng để ra Quyết
định thì VHĐ cũng quá khinh suất, hời hợt: chỉ dựa vào lời nói của một
người mà kết luận sự việc! Nếu chỉ qua vài lời nói của ai đó, không có
bằng chứng chính xác, mà có thể kết tội kẻ khác là thỏa hiệp hoặc thân
Cộng thì thử hỏi, khi chúng con nêu sự thực của Hòa thượng vào giữa
năm 1993, đã ra Hà Nội xin giấy xuất cảnh thật dễ dàng để qua Pháp, ở
lại với Thiền sư Nhất Hạnh, sau đó lại đi Montreal, Canada, ở lại với
Thượng Tọa Minh Thông. Hẳn là Hòa thượng không làm sao quên được
chuyến đi xuất ngoại đầy kỷ niệm đó! Vào thời điểm giữa năm 1993, việc
ra nước ngoài của Tăng sĩ các tôn giáo trong nước hãy còn khó khăn,
hiếm người xin được thông hành, sao Hòa thượng lại được sự ưu đãi của
chế độ vậy? Nhắc việc đó ở đây là nhắc về một sự thực, có thể kiểm
chứng qua những nơi Hòa thượng đến, những ai Hòa thượng gọi điện thoại
thăm hỏi, để Hòa thượng nhớ cho một điều rằng, chính chúng con cũng
không dám nghĩ là Hòa thượng thân Cộng hay là cán bộ của Cộng sản;
huống chi cái việc của Hội Thân Hữu Già Lam, họ đã làm gì, nói gì, mà
đã vội vàng chụp mũ, xuyên tạc! Cái mà Hòa thượng “thấy rõ” về THGL
như thế nào thì không nêu, còn cái mà ai cũng có thể
thấy rõ nơi THGL là tâm nguyện nối tiếp Thầy-Tổ
để lo việc hoằng pháp, giáo dục. THGL thành lập công khai, hoạt động
công khai, chẳng có gì giấu giếm, họ có luôn cả một website
www.thanhuugialam.com
để phổ biến tâm nguyện và sinh hoạt của họ. Hòa thượng có từng thăm
website của THGL chưa mà vội vã nói hùa theo ông Võ Văn Ái, chụp mũ,
vu khống cả mấy chục Tăng sĩ và cư sĩ ấy!
8)
Ở điều 3, Hòa thượng nói về nhóm Thân Hữu Già Lam là hoàn toàn sai sự
thực. Nếu Hòa thượng nghe người khác báo cáo rồi chỉ nói lại mà không
cần suy nghĩ thì đó chỉ là chuyện của người nhẹ dạ, cả tin; còn nếu
Hòa thượng nghe người ta nói, suy nghĩ kỹ càng, rồi phúc trình, thì
đây là hành vi của vọng ngữ. Những điều nói sai sự thực của Hòa thượng
về nhóm THGL như sau: a) “ở Tu Viện Quảng Hương Già
Lam, cách đây một năm, đã hình thành một nhóm có tên gọi Thân Hữu Già
Lam” (sai! THGL nhóm họp lần đầu tiên vào tháng 3 năm 2004 tại Tu
viện Pháp Vương, Escondido, California, không phải Tu viện Quảng Hương
Già Lam, Việt Nam); b) Các vị có mặt trong nước,
ngoài nước, khắp các châu lục” (sai! THGL chỉ có thành viên ở
ngoài nước, không có ở trong nước); c) “Đứng đầu nhóm
có GS TS Lê Mạnh Thát, và học giả Thượng Tọa Thích Tuệ Sĩ” (sai!
THGL tự phát thành lập trong tình thân hữu đồng môn của các cựu
tăng sinh Tu viện Quảng Hương Già Lam từ 1980-1984, không hề liên hệ
đến các giáo sư trong nước. Giáo sư thì làm sao làm “thân hữu” với
tăng sinh được! Trưởng nhóm THGL nhiệm kỳ 2004-2006 là Thượng Tọa
Thích Quảng Thanh, nhiệm kỳ 2006-2008 là Thượng Tọa Thích Nguyên Siêu.
Hai vị này đều ở
California,
Hoa Kỳ); d) “Nhóm Thân Hữu Già Lam phần đông, đang là
thành viên chủ chốt của GHPGVNTN trong nước và hải ngoại” (sai! Ở
trong nước không có thành viên THGL thì làm sao có “thành viên chủ
chốt của GHPGVNTN”! Ở hải ngoại thì chỉ có một số ít thành viên
THGL tham gia GHPGVNTN, “phần đông” thì nằm ngoài giáo hội,
nhất là ở Hoa Kỳ. Ở hải ngoại xa xôi, Hòa thượng nói sai sự thực thì
còn dễ hiểu, còn trong nước mà Hòa thượng không biết mới là điều lạ!)
9) Cũng
ở điều 3, đề cập đến THGL, Hòa thượng nói “Nay vì một vài ý kiến
bất đồng nào đó mà xây lưng lại với Giáo hội và vận động người khác
chống lại Giáo hội, cô lập hai vị Hòa thượng đang lãnh đạo Giáo hội
thì chẳng hay ho gì!” Dựa
vào yếu tố nào, báo cáo từ ai, chứng cớ ở đâu, mà Hòa thượng kết án
THGL như vậy? Chính Hòa thượng khi kết án THGL mà cũng không biết rõ
nguyên nhân nào THGL đã làm những việc mà mình kết án, cho nên mới nói
“vì một vài ý kiến bất đồng nào đó”. Chưa biết rõ nguyên
nhân mà đã làm phúc trình thì thật quá vụt chạt, nông nổi! Hành động,
lời nói, chứng từ nào, có thể kiểm chứng được không mà Hòa thượng cho
rằng THGL “xây lưng với Giáo hội và vận động người khác chống lại
Giáo hội, cô lập hai vị Hòa thượng đang lãnh đạo Giáo hội”? Ai là
người vận động? ai là người được vận động? việc vận động xảy ra ở
đâu? thời gian nào? nội dung, lời lẽ việc vận động nêu ra như thế nào?
Chống lại Giáo hội bằng cách nào, có bằng chứng không? Cô lập nhị vị
Hòa thượng lãnh đạo Giáo hội như thế nào, có bằng chứng không? Nếu
không trả lời được những câu hỏi này một cách chính xác và thỏa đáng
thì Hòa thượng phạm cái lỗi vu khống người khác, điều tối kỵ của Tỳ
kheo!
Kính bạch Hòa thượng,
Qua 3 trường hợp và 9 điểm phân tích ở trên, có thể nói rằng Bản Phúc
Trình Phật Sự của Hòa thượng, từ hình thức đến nội dung, hoàn toàn sai
nguyên tắc hành chánh, và tai hại nhất là đi ngược với tinh thần giới
luật căn bản của đạo Phật.
Tại sao Hòa thượng lại phải hành xử như vậy? Hòa thượng có thực sự làm
bản phúc trình hay là do ai khác làm nên? Nếu do chính Hòa thượng viết
và ký thì 5 đề nghị cuối bản phúc trình, gợi ý Hòa thượng Viện trưởng
và Ban Chỉ Đạo VHĐ thực hiện chính là hành vi “xây lưng lại với
Giáo hội, vận động người khác chống lại Giáo hội, cô lập hai vị Hòa
thượng lãnh đạo Giáo hội”. Hãy đọc lại 5 đề nghị để thấy âm mưu
phá hoại Giáo hội của ông Võ Văn Ái và thiểu số tham quyền cố vị thuộc
Văn Phòng II VHĐ (mà có thể Hòa thượng không biết). Sau đây là 5 đề
nghị của Hòa thượng, chữ nghiêng trong ngoặc kép:
1- “Có biện pháp nhằm chấn chỉnh lại Nội bộ, nhất là đối với Hội Đồng
Điều Hành GHPGVNTN/HN các châu lục, lập lại kỷ cương sinh hoạt tổ chức
Giáo hội, lấy lại niềm tin cho Tăng ni Phật tử trong nước và ngoài
nước, đang vọng hướng về Giáo hội.”
Đề nghị VHĐ trong nước “có biện pháp nhằm chấn chỉnh lại nội bộ”
của Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN/HN các châu lục chính là nhúng tay vào
nội bộ của các giáo hội mà trên nguyên tắc sinh hoạt độc lập về pháp
lý giữa các quốc gia, VHĐ không có thẩm quyền. VHĐ chỉ có thể đề nghị
chứ không thể dùng biện pháp đối với các giáo hội ngoài nước. Đây là
điểm sai lầm mà trong quá khứ VHĐ đã mắc phải khi thuận theo ý kiến
của ông Võ Văn Ái và thiểu số tham quyền cố vị tại VPII VHĐ để củng cố
địa vị của những người làm ô nhục Giáo hội bằng các giáo chỉ lưu
nhiệm, hầu tránh việc bầu cử trong các Đại hội Khoáng Đại của
GHPGVNTNHN-HK VPII VHĐ. Muốn “lấy lại niềm tin cho Tăng Ni Phật tử
trong nước và ngoài nước” thì không thể nào dùng biện pháp giải
tán các giáo hội qua một giáo chỉ vô tình và vô lý, mà chính là phải
thanh tịnh hóa hàng ngũ thành viên Giáo hội, giải quyết các mâu thuẫn
nội bộ phát sinh giữa thiểu số lạm quyền với đa số thành viên nhiệt
thành và tận lực xây dựng Giáo hội.
2- “Những thành viên trung kiên với Giáo hội lâu nay, hãy bảo vệ các
vị với bất cứ giá nào, trước những mưu mô xuyên tạc hạ uy tín, mà Cộng
sản Việt nam đang cài người vào nội bộ chúng ta để quấy phá, tạo điều
kiện tốt để các vị tiếp tục phục vụ Giáo hội và Dân tộc.”
Ở trong nước, bị quản thúc chặt chẽ, Hòa thượng cũng như chư tôn đức
lãnh đạo hai Viện không thể nhận chân được bộ mặt thật của các thành
viên tại hải ngoại. Quý ngài chỉ có thể nghe báo cáo từ một thiểu số,
mà thiểu số này đã hủy hoại thanh danh và uy tín của Giáo hội từ nhiều
năm nay. Đâu là tiêu chuẩn “trung kiên” để nhận biết các thành viên
Giáo hội? Trên thực tế, hầu hết các thành viên đều trung kiên với Giáo
hội, nhưng vị nào không chấp nhận quan điểm của thiểu số lạm quyền,
không chấp nhận Hòa thượng Thích Chánh Lạc đã làm nhục Giáo hội qua
những bản cáo trạng rõ ràng của tòa án tiểu bang Colorado, thì kẻ đó
bị gán tội “không trung kiên”. Cho nên, đề nghị số 2 này thực chất là
của ông Võ Văn Ái nhằm bảo vệ Hòa thượng Thích Chánh Lạc mà thôi. Xin
phân biệt rõ ràng điểm này: sự việc cộng sản vu khống, kết tội, nhục
mạ Hòa thượng Viện trưởng VHĐ là điều sai, cần phải lên án cộng sản,
bảo vệ Hòa thượng Viện trưởng với bất cứ giá nào; nhưng những ô nhục
mà Hòa thượng Thích Chánh Lạc đã tạo nên tại Colorado là sự việc có
thực, không phải vu khống, xuyên tạc! Bằng chứng của tòa án đã rành
rành ra đó, không thể cho rằng tòa án tại
Colorado
đã bị cộng sản cài người vào mà phá Giáo hội! Hòa thượng đưa ra đề
nghị này chính là mở đường cho hươu chạy, tiếp tay với những điều sai
lầm của Hòa thượng Thích Chánh Lạc để hủy hoại uy tín của Giáo hội.
3- Những cá nhân hoặc nhân danh tập thể, không còn giữ được lòng trung
kiên với Giáo hội, cũng nên tạo điều kiện để các vị được rút lui,
không nên cầm giữ làm gì. Ít cũng được, ít mà lòng trung thành, chí
kiên hậu còn hơn nhiều mà bất trung, bất nghĩa…”
Làm sao phân định được cá nhân hay tập thể nào “không còn giữ được
lòng trung kiên với Giáo hội”?
Lòng của họ
làm sao biết được là còn hay mất?
Còn nếu họ
đã lộ ra hành vi không trung kiên thì đâu là bằng chứng để kết tội?
Ai, những ai không trung kiên, họ đã làm gì mà nói là không trung
kiên? Trung kiên phải chăng là cúi đầu lắng nghe lệnh của ông Võ Văn
Ái và Hòa thượng Thích Chánh Lạc? Suốt hơn 15 năm qua ai đã trung kiên
tận sức phục vụ và yểm trợ Giáo hội mà nay Hòa thượng đề nghị
“không cầm giữ làm gì” để rồi đưa vào Văn Phòng II (mới) và Giáo hội
Hoa Kỳ (mới)
những thành
viên từ Việt Nam mới qua trên dưới hai năm, chưa có thẻ xanh, chưa
nhập quốc tịch Hoa Kỳ: Thích Thiện Hữu, Thích Viên Thành, Thích Viên
Thông, Thích Viên Quang, Thích Viên Huy, Thích Viên Dung – những vị
này đều là đồng môn, đồng sư, bào huynh và bào đệ của Thượng tọa Thích
Viên Lý. Những vị có đạo hiệu mang chữ “Viên” trong GHPGVNTN trong và
ngoài nước đều là đệ tử của cố Hòa thượng Thích Kế Châu, nguyên Trưởng
Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật giáo tỉnh Nghĩa Bình, nguyên Ủy viên Hội Đồng
Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – Giáo hội mà ông Võ Văn
Ái và thiểu số cọng sự thường gọi biếm là “Giáo hội quốc doanh” mà giả
vờ không hay biết rằng những vị huynh đệ đồng môn và anh em ruột của
Thượng tọa Thích Viên Lý cũng từng được đào tạo từ các trường Phật học
của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam – giáo hội nhà nước. Nhân nói việc đào
tạo, cũng nên lưu ý lời mai mỉa của ông Võ Văn Ái đối với nền giáo dục
của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong Thông Cáo Báo Chí của PTTPGQT
vào ngày 26-9-2007 như sau: “Nhưng 26 năm qua cái Giáo hội mà Cố
Hòa thượng Thích Trí Thủ tham gia làm được gì cho Phật giáo Việt Nam,
ngoài vai trò làm công cụ chính trị cho Nhà nước và Đảng? Cái Giáo Hội
Phật giáo Nhà nước với bao nhiêu là học viện cao cấp, trung cấp, sơ
cấp Phật giáo được Ban Tôn Giáo cho phép thành lập, đào tạo được bao
nhiêu cao tăng?” Không lẽ ông Võ Văn Ái không biết rằng GHPGVNTNHN
tại Hoa Kỳ mới vừa thỉnh cử ít nhất là 6 vị tăng sĩ từ Việt Nam mới
qua, mà 4 vị trong số đó đều được đào tạo từ các trường Phật học của
Giáo Hội Nhà nước? Không lẽ vì họ là huynh đệ của Thượng tọa Thích
Viên Lý nên trở thành ngoại lệ, trở thành cao tăng, đáng tin cậy; còn
ngoài ra những tăng sĩ nào từ Việt Nam mới qua thì đều là của cộng sản
đưa đi để tuyên truyền chính sách tự do tôn giáo hoặc cài vào các tổ
chức giáo hội hải ngoại để lũng đoạn? Tại sao lại có sự đối xử phân
biệt như vậy? Xin cho biết lý do nào có tính thuyết phục để mọi người
tin rằng chư vị huynh đệ, bào huynh, bào đệ của Thượng tọa Thích Viên
Lý từ Việt Nam mới qua đáng tin cậy hơn những vị thâm niên phục vụ
Giáo hội tại hải ngoại? Tiêu chuẩn nào để đo lường sự trung kiên?
Những người từng phục vụ Giáo hội, có vị phục vụ từ trước năm 1975, đã
vượt biển tị nạn trên 20 năm, nhập quốc tịch Hoa Kỳ, thì bị kết tội
không trung kiên, vậy những người mới được thỉnh cử vào có gì bảo đảm
để chứng minh là trung kiên? Những người mới chưa có thành tích đóng
góp xây dựng với Giáo hội lúc họ còn ở trong nước, mà ra tới hải ngoại
cũng chưa hề có công lao gì với Giảo hội hải ngoại, làm sao đo lường
được lòng trung kiên của họ? Xin hỏi Hòa thượng, đề nghị thứ 3 này
phải chăng là để “chấn chỉnh lại nội bộ”, làm cho Giáo hội vinh quang
hơn, vững mạnh hơn, được quần chúng ủng hộ nhiều hơn?
4- “Đối với các vị Hòa thượng có tuổi cao sức yếu, có ý định xin nghỉ
ngơi tịnh dưỡng. Giáo hội rất thông cảm và hết lòng tán dương công đức
của chư Hòa thượng, đã có những cúng hiến tích cực cho Giáo hội trong
thời gian qua, và xin cung thỉnh chư vị lưu lại cùng Giáo hội, trong
lúc Giáo hội đang lâm nguy bởi nội ma, ngoại chướng.”
Điều này thực sự nhắm vào ai? Ở hải ngoại, có bao nhiêu vị tuổi cao
sức yếu và có ý định nghỉ ngơi tịnh dưỡng? Không có ai ở trong hai
trường hợp này, ngoại trừ Hòa thượng Thích Hộ Giác. Vậy với đề nghị số
4 này, ông Võ Văn Ái nhằm níu kéo Hòa thượng Thích Hộ Giác lưu lại để
giữ niềm tin cho Tăng Ni Phật tử, và để đền đáp là sự sắp xếp cho hầu
hết quý vị đệ tử của Hòa thượng Thích Hộ Giác vào Văn Phòng II (mới)
và Giáo hội Hoa Kỳ (mới).
Tưởng rằng
sắp xếp như vậy là giữ niềm tin và chấn chỉnh nội bộ, nhưng thực tế
trái lại: Tăng Ni và Phật tử đã mất niềm tin nơi Hòa thượng Thích Hộ
Giác và cũng nhìn rõ màn kịch “tông môn” đang trình diễn quá trắng
trợn trong Giáo hội qua những vị đệ tử của Hòa thượng Thích Hộ Giác và
huynh đệ của Thượng tọa Thích Viên Lý được thỉnh cử: đã bao trùm 2/3
thành viên của VPII VHĐ (mới) cũng như GHPGVNTNHN-HK.
5- “Trong trường hợp bất khả khán, không thể hội họp, không được đi
lại gặp nhau bàn bạc, thảo luận như Hiến chương và Nội qui sinh hoạt
qui định, thì có thể cũng phải tính tới giải pháp dùng Giáo chỉ, thay
vì Hiến chương, để điều hành Phật sự lúc nguy biến.”
Đề nghị thứ 5 là đề nghị cốt lõi của bản phúc trình nhằm bật đèn xanh
và hợp thức hóa cho sự độc quyền, độc diễn của VHĐ, mà thực chất đều
nằm trong tay ông Võ Văn Ái và thiểu số lạm quyền thuộc Văn Phòng II
tại hải ngoại. Điều 5 này cũng khuyến khích VHĐ chà đạp lên Hiến
chương, dẫm nát Nội qui của GHPGVNTN do xương máu của chư Tăng Ni và
Thánh tử đạo gầy dựng và bảo vệ suốt trên 40 năm qua, từ trong nước
đến ngoài nước. Hiến chương Giáo hội nếu cần tu chính thì theo Điều
thứ 39, Chương thứ 11, Phương Thức Áp Dụng, “Mọi dự án tu chính
Hiến Chương này do lưỡng viện Tăng Thống, Hóa Đạo soạn thảo, trình đại
hội GHPGVNTN cứu xét và biểu quyết. Nguyên tắc biểu quyết phải được
2/3 tổng số đại biểu hiện diện chấp thuận.” Nay Chánh Thư Ký Viện
Tăng Thống tùy tiện đề nghị “dùng Giáo chỉ, thay vì Hiến Chương”
thì có thể nói rằng, cái nguy cơ tan rã của Giáo hội không còn nằm ở
các thế lực bên ngoài mà ở ngay chính trong nội bộ.
Tóm lại, 5 đề nghị của Hòa thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống trong
Bản Phúc Trình Phật Sự chính là hành vi “chống phá Giáo hội, rủ rê
xui khiến người khác cùng nghỉ để cô lập hai vị Hòa thượng lãnh đạo
tối cao của Giáo hội” (lời của Bản Phúc Trình Phật Sự kết án
THGL).
Thưa Hòa thượng, Giáo hội không phải của riêng ai, dù người đó đã cố
công bảo vệ hay xây dựng. Giáo hội là sự kết thành tâm nguyện, chí
hướng, hoài bão và cả sinh mệnh của toàn khối Tăng Ni và Phật tử từ
quá khứ, hiện tại, đến tương lai. Không ai có thể nhân danh công lao
hay thành tích cá nhân mà phủ nhận những thành ý xây dựng, đóng góp
của kẻ khác; cũng không ai có thể nhân danh quyền hạn tối cao nào đó
mà xóa bỏ Hiến Chương, phá nát Nội qui sinh hoạt của Giáo hội. Hiến
Chương là tiêu hướng, là cốt tủy từ đó vạch con đường dài lâu của Giáo
hội đối với Đạo pháp và Dân tộc. Bỏ cái dài lâu, thờ cái nhất thời,
chẳng phải là cố tình tiêu diệt Giáo hội hay sao! Giáo hội có vững
mạnh, thống nhất và tồn tại hay không là do nơi sự đồng tâm hiệp lực
hoằng dương Chánh Pháp của toàn thể Tăng Ni và Phật tử, chứ không phải
ở nơi những “biện pháp” vá víu và đầy thiên kiến của một cá nhân, hay
một thiểu số chủ động nắm quyền.
Còn giữ được sự thanh tịnh và hòa hợp, còn giữ được lý tưởng hòa bình
và hoài bão phục vụ nhân loại và dân tộc như Lời Mở Đầu của Hiến
Chương, thì Giáo hội còn; phá hủy hết những tiêu chí cao đẹp ấy, Giáo
hội chỉ còn là một cái xác không hồn, dù trung kiên hay không trung
kiên, cũng chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Dài dòng trình bày những nhận định ở trên vẫn chưa nói hết được thành
ý xây dựng đối với Hòa thượng cũng như đối với tiền đồ của GHPGVNTN.
Chỉ mong Hòa thượng tĩnh tâm, tịnh ý, nhìn lại những gì đã làm, đã
nói, trong những năm tháng nắm giữ chức vụ Chánh Thư Ký Viện Tăng
Thống. Đừng để lịch sử ghi vết nhơ của Giáo hội mà trong đó lại có sự
dự phần của Hòa thượng.
Những lời ngay thật của chúng con có thể làm phiền lòng Hòa thượng
trong chốc lát nào đó, nhưng chốc lát phiền lòng mà có thể gợi ý cho
những suy nghiệm sâu xa về sự trường tồn của Chánh Pháp, của Giáo hội
thì cũng mong Hòa thượng hỷ xả, miễn chấp.
Hoa Kỳ, ngày 08 tháng 12 năm 2007.
Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại