.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007

 


Hướng đi của
CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TẠI HOA KỲ

 

Bài thuyết trình của HT Thích Tín Nghĩa trong Đại Hội Bất Thường GHPGVNTNHN-HK,
 ngày 12 - 01 – 08 tại Chùa Bảo Quang, Santa Ana, California

 

“Trong lịch sử truyền bá Phật giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng có lúc vẻ vang cũng đáng tự hào. Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu mờ, nội bộ của Tăng Ni bị phân hóa, thành phần của Tăng Ni có nhiều điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ phiến diện. Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường để tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp…”

 

(Đức đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu)

  • PSN - 13.01.2008

Hòa thượng Thích Tín Nghĩa (mặc áo tràng màu vàng) Hình: Lý Kiến Trúc - Văn Hóa Magazine

PSN trân trọng gởi đến bạn đọc bài tham luận HƯỚNG ĐI CỦA CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI HOA KỲ đã được Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, nguyên Tổng vụ trưởng tổng vụ Cư Sĩ GHPGVNTN/HK trình bày trong Đại Hội Bất Thường GHPGVNTNHNHK, ngày 12 tháng 01 năm 2008 tại Chùa Bảo Quang thành phố Santa Ana, California, Hoa Kỳ do Hòa Thượng Chánh thư ký Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHN/Hoa-Kỳ, Thích Thắng Hoan triệu tâp. 

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

 

Kính bạch chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,

Kính thưa quý đạo hữu,

 

Ý niệm đầu tiên khi muốn tìm hay muốn xác định Hướng Đi luôn luôn là câu hỏi: Hướng Nào? Câu hỏi này xuất phát từ nhiều lý do: Hoặc một cách chung chung, trời đất mênh mông, 4 phương 8 hướng, mình biết đi về hướng nào; Hoặc cụ thể hơn, một thanh niên, sinh viên trước ngưỡng cửa cuộc đời, nhiều khi cũng tự hỏi: đâu là Hướng Đi của đời mình; Gần gủi hơn với chúng ta, những người đang sống trong xã hội Hoa Kỳ, Hướng Đi luôn luôn luôn là câu hỏi then chốt, căn bản của hai đảng chính trị lớn trước mùa bầu cử. Bởi vì phải xác định hướng đi thế nào, vừa giữ được bản sắc đặc biệt của đảng mình, hoặc bảo thủ, hoặc tự do, nếu không sẽ bị chính đảng viên của mình từ bỏ vì không đáp ứng tâm lý, sở thích, lối sống và nếp suy tư của họ, vừa thích nghi với những biến chuyển lớn đang hoặc sắp xãy ra trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của Hoa Kỳ và thế giới sẽ có những ảnh hưởng quyết định đến cá nhân họ. Đặc biệt với chúng ta, những Tăng Ni và Phật tử ở hải ngoại nói chung và ở Hoa Kỳ nói riêng, đang trải qua một cơn biến động lớn mà ảnh hưởng của nó đã tác hại nghiêm trọng, không chỉ riêng với Giáo Hội Thống Nhất mà còn lan rộng đến tất cả các tổ chức và sinh hoạt nói chung của Phật Giáo Việt Nam hải ngoại. Đặc biệt nhất là hôm nay, chúng ta đang tìm một mô thức tổ chức và sinh hoạt cho mình để có thể vượt qua cơn biến động hiện nay mà tiếp tục con đường chúng ta đã chọn, đó là: Hoằng pháp độ sinh.

 

Thỉnh thoảng, sáng sớm vào giờ các cháu đi học, chúng tôi thấy hai cháu đi ra cổng của một căn nhà đối diện, một cháu quẹo tay phải, một cháu quẹo tay trái. Hướng quẹo tay phải để đến một ngôi trường tiểu học vì cháu khoảng 9 tuổi; Hướng quẹo tay trái để đến một ngôi trường trung học vì cháu khoảng 12 tuổi. Hình ảnh đơn giản này cho thấy một nguyên tắc căn bản: Hướng đi tùy thuộc chính yếu vào con người. Người ở đây có thể là một cá nhân, cũng có thể là một tập thể. Hướng đi của người này không giống với hướng đi của người kia. Hướng đi của tập thể này không giống với hướng đi của tập thể khác. Khác biệt về hướng đi như thế xuất phát từ sự khác biệt của từng cá nhân cũng như sự khác biệt của mỗi tập thể. Nói đến cá nhân không phải chỉ nói đến cá nhân cha sanh mẹ đẻ mà muốn nói đến một cá nhân trong tương quan và chịu sự tác động qua lại với xã hội. Cũng vậy, nói đến một tập thể, không phải chỉ nói đến tập thể nguyên thủy mà muốn nói đến một tập thể trong tương quan và chịu tác động nhân duyên với xã hội và thời đại của tập thể đó. Do vậy, muốn tìm hiểu hướng đi của ai hoặc cho ai, muốn biết hướng đi của tập thể nào hoặc cho tập thế nào, trước tiên và căn bản là phải biết hoặc phải xác định được họ là ai. Câu hỏi đang được đặt ra là: Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?

 

Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?

Trả lới được câu hỏi này, nghĩa là xác định được “diên mục”, “căn cước” của Cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai, chúng ta có thể xem như đi được 2/3 con đường tìm hướng đi của tập thể này. Phần còn lại chỉ là phần làm sao để thích nghi với xã hội và thời đại mà tập thể này đang sống với.

 

Biến cố lớn của Phật Giáo Việt Nam hải ngoại hiện nay thực ra khởi đi từ cái gốc của vấn đề là không xác định được rõ ràng mình lài ai, dẫn đến hướng đi khác nhau, rồi chống nhau. Những mâu thuẩn, phân hóa hiện nay rõ ràng không xuất phát từ sự khác biệt về kinh điển giáo lý, cũng không xuất phát từ sự khác biệt về nhận thức và sự hành trì giới luật, cũng không xuất phát từ sự khác biệt giữa các tông phái. Ngay cả cũng không khác biệt những mục tiêu hướng đến như tự do, dân chủ, nhân quyền và phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bên nhà. Chỉ duy nhất khác biệt về cách nhìn và hướng đi, để rồi từ đó, có một thiểu số người xem những ai khác cách nhìn hoặc khác hướng đi với mình là những kẻ thù và tìm đủ mọi cách để triệt hạ, Và triệt hạ bằng những phương thức, thủ đoạn hoàn toàn không phải Phật giáo. Đó là nguồn gốc của những cơn bảo tố xãy ra cho Phật giáo Việt Nam từ trong nước ra đến hải ngoại; Và không phải chỉ mới xãy ra hiện nay mà trước đây nhiều năm cũng đã có.

 

Khác cách nhìn và hướng đi trong cùng một tập thể bởi vì những cá nhân trong đó không hoặc chưa xác định được mình là ai.

 

Vậy, Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?

Đây là tập thể mà bản sắc cá biệt được cấu thành bởi ba yếu tố:

1-      Cộng đồng Phật giáo;

2-      Việt Nam;

3-      Tại Hoa Kỳ

Cả ba yếu tố cùng nhau cấu tạo nên “diện mạo” của tập thể này. Mất một trong ba yếu tố, “diện mạo” của tập thể này sẽ khác đi.

 

Yếu tố Cộng đồng Phật giáo: Đây là danh xưng chỉ cho tập thể Tăng Ni Phật tử, tập thể của những người con Phật, tập thể của những người sống, làm việc, tu học và hành đạo theo lời dạy của Đức Phật. Đây chính là yếu tố quyết định, quan trọng nhất trong ba yếu tố. Giống như chất DNA trong cơ thể của mỗi con người khiến cho có thể phân biệt được người này với người khác. Yếu tố Phật là nền tảng khiến cho quan niệm sống, lối suy tư và cách hành xử của tập thể Tăng Ni Phật tử không giống với những tập thể của các cộng đồng khác trong xã hội. Mức độ khác biệt nhiều hay ít tùy theo từng vấn đề. Yếu tố Phật, nói cụ thể, chính là mục đích, lý tưởng của những người học Phật, tu Phật và hành đạo theo đức Phật. Tuy là có thiên kinh vạn quyển, tuy là có nhiều tông phái, nhiều pháp môn tu tập, nhưng mục đích và lý tưởng của những người học Phật, tu Phật và hành đạo theo đức Phật không gì khác hơn là sự Giải thoát, như lời phát nguyện mà Tăng Ni Phật tử đọc tụng mỗi ngày: “Ngã kim phát tâm bất vị tự cầu nhơn thiên phước báo, Thanh văn Duyên Giác, nãi chí quyền thừa chư vị Bồ Tát; duy y tối thượng thùa phát Bồ đề tâm: nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Mục đích và lý tưởng đó cao quý biết bao: không mong cầu được phước báo ở các cõi trời, cõi người; cũng không mong cầu thành đạt các quả thánh như Thanh văn, Duyên Giác, ngay cả đến các quả vị Bồ tát; Duy nhất chỉ mong cầu được giác ngộ, giải thoát thành Phật để cứu độ tất cả chúng sanh đều thành Phật”. Đức Phật đã từng dạy: nước trong bốn biển đều có chung một vị, đó là vị mặn; giáo pháp của ngài trong vô số pháp môn cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát.

 

Lý tưởng và mục tiêu giải thoát được thể hiện cụ thể trong cuộc sống tu học, hành đạo và ứng xử với cuộc đời nhiều mặt bằng hai đức tính Từ Bi và Trí Tuệ của đạo Phật. Từ Bi và Trí Tuệ vừa là hạnh nguyện vừa là phương pháp tu tập để hướng đến mục tiêu giải thoát.

 

Do đó, như chất DNA trong cơ thể con người, mục tiêu và lý tưởng giải thoát, hay nói đầy đủ là Từ Bi, Trí Tuệ và Giải thoát là bản sắc đặc thù của người Phật tử, của cộng đồng Phật giáo, của tập thể Tăng Ni Phật tử. Rời bỏ bản sắc đặc thù này thì không còn là Phật giáo nữa, là đi lạc vào tà đạo.

 

Do vì không thấy được, không xác định được hoặc đánh mất bản sắc đặc biệt của mình là Từ Bi, Trí Tuệ và Giải thoát nên trong cơn biến động đang xãy ra hiện nay để lộ ra hai thách thức lớn đối với Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước:

 

Thách thức thứ nhất, có thể xem là nội chướng, do chính tự thân của người tu học và hành đạo đã tha hóa và thế tục hóa mục đích và lý tưởng cao quý của mình, để rồi trôi lăn trong “ngũ trược ác thế” với những được mất, khen chê, phải trái, vốn là danh tướng hư vọng của thế gian;

 

Thách thức thứ hai, thuộc về ngoại ma, chỉ chung những chướng duyên nghịch cảnh từ bên ngoài, đặc biệt chỉ cho những thế lực vô minh nhằm hủy hoại Phật pháp, vốn thời nào cũng có, phát xuất từ sự cuồng tín tôn giáo và tham vọng chính trị… Gọi là thách thức lớn, không phải vì những thế lực vô minh này mạnh hay yếu, lớn hay nhỏ, mà bởi vì trong khi ứng phó với những thế lự vô minh này, những người học Phật, tu Phật và hành đạo theo Đức Phật đã quên mất mục tiêu giải thoát, đánh mất lòng từ bi và nuôi lớn sự  hận thù. Và như thế, có nghĩa là, trước tiên, chính mình đã làm suy yếu, sụp đổ cái mà mình muốn bảo vệ, phục hồi. Lúc bấy giờ chỉ còn là hận thù này chống trả hận thù khác, bạo lực này muốn tiêu diệt bạo lực kia. Nói đến bạo lực, chúng ta cũng biết rằng, bạo lực không phải chỉ là vũ khí gươm dao hay súng đạn trong tay mà còn là những ý niệm, tư tưởng, ngôn ngữ hàm chứa sự hận thù muốn hủy diệt người khác. Đâu đây, chúng ta đã nghe những lời như là hiệu triệu xuất quân, chẳng hạn như: “Mỗi Phật tử hãy gắng là Bồ Tát Địa Tạng không ngại có mặt ngay tại ngục tối A-tỳ”, hoặc mỗi Phật tử hãy như “bồ tát thấy dân kêu gào, gạt nước mằt, xông mình vào chính trị hà khắc cứu dân mắc nạn chốn lầm than”. Chúng ta hãy mường tượng thử xem, làm sao có được “từng đoàn Địa Tạng”, “từng đoàn Bồ Tát” với tâm lý vọng động, hận thù xông đi bẻ gãy gông cùm xiềng xích ở bất kỳ đâu, trên trần thế cũng như dưới địa ngục. Không có bất kỳ một chỗ nào trong kinh điển Phật giáo chứa đựng một ý niệm và một cảnh tượng thúc giục bạo lực như vậy. Ngài Địa Tạng thệ nguyện vào địa ngục hay các vị Bồ Tát vào nơi “chính trị hà khắc cứu dân mắc nạn lầm than” là với diệu lực từ bi, giải thoát của các ngài để trước hết, chuyển hóa tội nhân và kẻ hung ác khiến họ trực ngộ được vô thường, nhân quả, nghiệp báo mà khởi lên tâm niệm muốn phát Bồ đề tâm để được giác ngộ. Chính từ một niệm khởi lên đó, họ được giải thoát khỏi những ngục hình hoặc từ bỏ con đường cai trị ác độc, và do đó, dân chúng được an lạc. Chính sự suy diễn, trích dẫn kinh điển nhằm phục vụ thiên kiến và tham vọng danh lợi của mình là nguy cơ làm thoái hóa, biến chất và làm lạc hướng Phật giáo.

 

Đức Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, qua bức Tâm Thư gởi ra hải ngoại năm 1991 trước khi viên tịch, Ngài đã khơi dậy ngọn đèn sơ tâm xuất gia để thắp sáng bản thể tăng già, làm sáng tỏ hướng đi cho Tăng Ni Phật tử hải ngoại. Nhờ đó, như một sức mạnh tinh thần có khả năng xóa bỏ những dị biệt, những mâu thuẩn, chư tôn đức Tăng Ni Phật tử thuộc nhiều hệ phái và tổ chức Giáo hội khác nhau tại Hoa Kỳ đã cùng ngồi lại thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, mở đầu cho sự kết hợp sinh hoạt tốt đẹp của Phật giáo Việt Nam hải ngoại, bao gồm đầy đủ các châu. Được như vậy, vì qua bức Tâm Thư, Tăng Ni Phật Tử Việt Nam hải ngoại nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng thấy rõ được diện mục chân thực của chính mình và từ đó cũng biết được hướng đi của mình. Ngài đã tha thiết khuyên nhủ: “Trong lịch sử truyền bá Phật giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng có lúc vẻ vang cũng đáng tự hào. Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu mờ, nội bộ của Tăng Ni bị phân hóa, thành phần của Tăng Ni có nhiều điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ phiến diện. Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường để tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp…” Và Ngài tha thiết kêu gọi: “hãy phát huy hơn nữa bản thể của Tăng Già mà đoàn kết hòa hiệp, hãy cùng nhau thể hiện tinh thần tương kính, tương thuận, tương giáo, tưong sám, như luật dạy…”

 

Tiếc thay, 16 năm sau, qua hình thức của Giáo Chỉ và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ này, Tăng Ni Phật Tử hải ngoại đã nhận được một nội dung kêu gọi sự đấu tranh hận thù, kích động sự thanh trừng nội bộ, thực hiện những thủ đoạn thế gian, đưa đến sự tan vỡ các tổ chức Giáo hội hải ngoại, đặc biệt là Giáo Hội Hoa Kỳ, vốn là thành tựu của không biết bao nhiêu tâm nguyện và công lao của chư tôn đức Tăng Ni Phật tử và cũng là hoài bảo thiết tha của Đức Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN.

 

Đây là bài học lớn, là kinh nghiệm “bi thảm đầy tủi nhục” để Tăng Ni Phật tử ý thức được rằng phải biết rõ “diện mục” của mình và Hướng Đi của mình không có gì khác hơn là “tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp”. Được như vậy, sẽ không còn bị lạc trong lớp sương mù dày đặc của huyển tướng thế gian.

 

Yếu tố Việt Nam: Sau yếu tố “Cộng đồng Phật giáo” như là một chất DNA trong cơ thể con người, để phân biệt với các cộng đồng khác trong xã hội, yếu tố Việt Nam xác định rõ hơn “diện mục”, “căn cước” của tập thể Tăng Ni Phật tử trong tổ chức này về mặt nguồn gốc, quê hương, thầy tổ, văn hóa, truyền thống để có thể phân biệt được với các tập thể Tăng Ni Phật tử Thái Lan, Tăng Ni Phật Tử Triều Tiên, Tăng Ni Phật Tử Tây Tạng…

 

Hơn nữa, yếu tố Việt Nam còn nói lên mối liên hệ gắn bó của tập thể Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ với đồng bào và Phật tử Việt Nam trong nước về tất cả những thăng trầm vinh nhục, những thất bại và thành công, những khổ nạn và hy vọng, và đặc biệt về những công cuộc vận động cho một Việt Nam thực sự tự do, dân chủ, nhân quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải.

 

Yếu tố Việt Nam cũng nói lên mối liên hệ gắn bó của tập thể Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ với những ước vọng cao quý, chính đáng của Tăng Ni Phật tử ở Việt Nam về một Giáo Hội Phật giáo Việt Nam độc lập, thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước để có thể phát triển góp phần xây dựng nền tảng đạo đức cho xã hội Việt Nam. Phục hưng Phật giáo Việt Nam vốn đã bị suy yếu sau một thời gian dài chiến tranh và dưới chế độ độc đảng vừa là bổn phận, trách nhiệm vừa là hạnh nguyện độ sanh của Tăng Ni Phật Tử Việt Nam trong và ngoài nước. Nhưng phục hưng Phật giáo Việt Nam không phải là chuyện làm có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, ngay cả cũng không làm được trong một vài thế hệ. Hiện nay trên 50 triệu thanh thiếu niên Việt Nam thuộc thế hệ sinh sau 1975 hoặc chưa đến 10 tuổi trong năm này (trong tổng số dân gần 84 triệu), vì điều kiện kinh tế và xã hội, đã không có cơ hội biết hoặc tiếp xúc với Phật giáo. Với kinh nghiệm Phật giáo Đại Hàn, vốn đã từng là quốc giáo của xứ này, nay trở thành chỉ là một tôn giáo thiểu số so với Tin Lành và Thiên Chúa mới truyền vào trong những thế kỷ gần đây. Hình ảnh đó có thể là hình ảnh tương lai của Phật Giáo Việt Nam trong lòng đất nước Việt Nam, nơi mà trong nhiều triều đại, Phật giáo cũng đã từng là quốc giáo. Những nổ lực và kế hoạch phục hưng Phật giáo Việt Nam, nếu có, phải là những nổ lực phục hưng nền văn hóa Việt Nam với những sinh hoạt, nghi lễ truyền thống dân gian ở hạ tầng và với những chương trình đào tạo thuộc lãnh vực tư tưởng, giáo dục, hoằng pháp ở thượng tầng. Đức Khổng Tử đã dạy “bách niên chi kế mạc như thụ nhân”. Phục hưng văn hóa Việt Nam, phục hưng Phật giáo Việt Nam chính là kế hoạch trăm năm trồng người. Và do đó, dù khó khăn bao nhiêu cũng phải vượt qua chứ không phải chờ cho sạch bóng Cộng sản rồi mới bắt đầu.

 

Yếu tố Hoa Kỳ: Đây là yếu tố cuối cùng để tạo thành bản sắc của tập thể Tăng Ni Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ  khác với tập thể Tăng Ni Phật Tử Việt Nam ở trong nước, đặc biệt về phương diện tâm lý và quan điểm chính trị. Yếu tố này cho thấy tâm lý và quan điểm chính trị của Tăng Ni Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ liên hệ gắn bó và chia xẻ với tâm lý và quan điểm chính trị của cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung và tại Hoa Kỳ nói riêng vì có chung một hoàn cảnh tỵ nạn cộng sản. Do bản chất từ bi, trí tuệ và giải thoát, sự phát biểu và bày tỏ tâm lý và quan điểm chính trị của Tăng Ni Phật Tử Việt Nam luôn luôn trong cung cách thể hiện lòng từ bi và không khích động lòng thù hận, vì luôn luôn tâm niệm rằng cộng đồng người Việt hải ngoại và tương lai của Việt Nam cần được xây dựng bằng những chất liệu tốt trên nền tảng đạo đức của các tôn giáo nói chung. Tự do của mình không thể xây dựng trên sự hủy diệt tự do của nguời khác. Nhân quyền của mình không thể thành tựu bằng sự giẩm đạp lên nhân quyền của người khác.

 

Mẫu đối thoại sau đây giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và một vị Lạt Ma Tây Tạng, vốn là một tù nhân trong một nhà tù khủng khiếp của Trung Cộng, đã cho thấy sức nhẫn nại và cũng là một sức mạnh vô biên của những người con Phật:

-    Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi: Trong khi bị tra tấn ác độc, thầy có sợ không?

-   Thầy Lạt Ma trả lời: Bạch Ngài, con không sợ. Điều duy nhất con sợ là mình  đánh mất lòng từ.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng với một tinh thần như thế, Ngài tranh đấu cho nền tự trị của quốc gia Tây Tạng của Ngài và đã nhận được sự hậu thuẩn và kính trọng của các vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới.

 

Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni,

Kính thưa quý đạo hữu,

 

Hy vọng những trình bày trên đây phần nào đã cho thấy được diện mục của Cộng đồng Tăng Ni Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ. Biết được mình là ai cũng là lúc biết mình đi hướng nào.

 

Trân trọng cám ơn và kính chào chư tôn đức và quý liệt vị.

  

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.