Hướng
đi của
CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO
VIỆT NAM TẠI HOA KỲ
Bài thuyết trình của HT Thích Tín Nghĩa trong Đại Hội Bất Thường
GHPGVNTNHN-HK,
ngày 12 - 01 – 08 tại Chùa Bảo Quang, Santa Ana, California
“Trong lịch sử truyền bá Phật giáo Việt Nam cũng như thế giới, có lúc
rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng có lúc vẻ vang cũng đáng tự hào. Lúc
bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu mờ, nội bộ của Tăng Ni bị
phân hóa, thành phần của Tăng Ni có nhiều điểm dị biệt, giới hạnh suy
kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ phiến diện. Trái lại, lúc vẻ
vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp, biết gạt bỏ những quyền lợi
riêng tư, những ngã chấp tầm thường để tiến xa trên con đường tịnh
hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm
sự nghiệp…”
(Đức đệ tam Tăng thống Thích Đôn Hậu)

Hòa thượng Thích
Tín Nghĩa (mặc áo tràng màu vàng) Hình: Lý Kiến Trúc - Văn Hóa
Magazine
|
PSN trân trọng gởi đến bạn đọc bài
tham luận HƯỚNG ĐI CỦA CỘNG ĐỒNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI HOA KỲ đã được
Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, nguyên Tổng vụ trưởng tổng vụ Cư Sĩ GHPGVNTN/HK trình bày trong Đại Hội
Bất Thường GHPGVNTNHNHK, ngày 12 tháng 01 năm 2008 tại Chùa Bảo Quang thành phố Santa Ana, California, Hoa Kỳ do Hòa Thượng Chánh thư ký
Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTNHN/Hoa-Kỳ, Thích Thắng Hoan triệu tâp.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật
Kính bạch chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ý niệm đầu tiên khi muốn tìm hay muốn xác định Hướng Đi luôn luôn là
câu hỏi: Hướng Nào? Câu hỏi này xuất phát từ nhiều lý do: Hoặc một
cách chung chung, trời đất mênh mông, 4 phương 8 hướng, mình biết đi
về hướng nào; Hoặc cụ thể hơn, một thanh niên, sinh viên trước ngưỡng
cửa cuộc đời, nhiều khi cũng tự hỏi: đâu là Hướng Đi của đời mình; Gần
gủi hơn với chúng ta, những người đang sống trong xã hội Hoa Kỳ, Hướng
Đi luôn luôn luôn là câu hỏi then chốt, căn bản của hai đảng chính trị
lớn trước mùa bầu cử. Bởi vì phải xác định hướng đi thế nào, vừa giữ
được bản sắc đặc biệt của đảng mình, hoặc bảo thủ, hoặc tự do, nếu
không sẽ bị chính đảng viên của mình từ bỏ vì không đáp ứng tâm lý, sở
thích, lối sống và nếp suy tư của họ, vừa thích nghi với những biến
chuyển lớn đang hoặc sắp xãy ra trong đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội của Hoa Kỳ và thế giới sẽ có những ảnh hưởng quyết định đến cá
nhân họ. Đặc biệt với chúng ta, những Tăng Ni và Phật tử ở hải ngoại
nói chung và ở Hoa Kỳ nói riêng, đang trải qua một cơn biến động lớn
mà ảnh hưởng của nó đã tác hại nghiêm trọng, không chỉ riêng với Giáo
Hội Thống Nhất mà còn lan rộng đến tất cả các tổ chức và sinh hoạt nói
chung của Phật Giáo Việt Nam hải ngoại. Đặc biệt nhất là hôm nay,
chúng ta đang tìm một mô thức tổ chức và sinh hoạt cho mình để có thể
vượt qua cơn biến động hiện nay mà tiếp tục con đường chúng ta đã
chọn, đó là: Hoằng pháp độ sinh.
Thỉnh thoảng, sáng sớm vào giờ các cháu đi học, chúng tôi thấy hai
cháu đi ra cổng của một căn nhà đối diện, một cháu quẹo tay phải, một
cháu quẹo tay trái. Hướng quẹo tay phải để đến một ngôi trường tiểu
học vì cháu khoảng 9 tuổi; Hướng quẹo tay trái để đến một ngôi trường
trung học vì cháu khoảng 12 tuổi. Hình ảnh đơn giản này cho thấy một
nguyên tắc căn bản: Hướng đi tùy thuộc chính yếu vào con người. Người
ở đây có thể là một cá nhân, cũng có thể là một tập thể. Hướng đi của
người này không giống với hướng đi của người kia. Hướng đi của tập thể
này không giống với hướng đi của tập thể khác. Khác biệt về hướng đi
như thế xuất phát từ sự khác biệt của từng cá nhân cũng như sự khác
biệt của mỗi tập thể. Nói đến cá nhân không phải chỉ nói đến cá nhân
cha sanh mẹ đẻ mà muốn nói đến một cá nhân trong tương quan và chịu sự
tác động qua lại với xã hội. Cũng vậy, nói đến một tập thể, không phải
chỉ nói đến tập thể nguyên thủy mà muốn nói đến một tập thể trong
tương quan và chịu tác động nhân duyên với xã hội và thời đại của tập
thể đó. Do vậy, muốn tìm hiểu hướng đi của ai hoặc cho ai, muốn biết
hướng đi của tập thể nào hoặc cho tập thế nào, trước tiên và căn bản
là phải biết hoặc phải xác định được họ là ai. Câu hỏi đang được đặt
ra là: Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?
Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?
Trả lới được câu hỏi này, nghĩa là xác định được “diên mục”, “căn
cước” của Cộng đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai, chúng ta có
thể xem như đi được 2/3 con đường tìm hướng đi của tập thể này. Phần
còn lại chỉ là phần làm sao để thích nghi với xã hội và thời đại mà
tập thể này đang sống với.
Biến cố lớn của Phật Giáo Việt Nam hải ngoại hiện nay thực ra khởi đi
từ cái gốc của vấn đề là không xác định được rõ ràng mình lài ai, dẫn
đến hướng đi khác nhau, rồi chống nhau. Những mâu thuẩn, phân hóa hiện
nay rõ ràng không xuất phát từ sự khác biệt về kinh điển giáo lý, cũng
không xuất phát từ sự khác biệt về nhận thức và sự hành trì giới luật,
cũng không xuất phát từ sự khác biệt giữa các tông phái. Ngay cả cũng
không khác biệt những mục tiêu hướng đến như tự do, dân chủ, nhân
quyền và phục hoạt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bên nhà. Chỉ
duy nhất khác biệt về cách nhìn và hướng đi, để rồi từ đó, có một
thiểu số người xem những ai khác cách nhìn hoặc khác hướng đi với mình
là những kẻ thù và tìm đủ mọi cách để triệt hạ, Và triệt hạ bằng những
phương thức, thủ đoạn hoàn toàn không phải Phật giáo. Đó là nguồn gốc
của những cơn bảo tố xãy ra cho Phật giáo Việt Nam từ trong nước ra
đến hải ngoại; Và không phải chỉ mới xãy ra hiện nay mà trước đây
nhiều năm cũng đã có.
Khác cách nhìn và hướng đi trong cùng một tập thể bởi vì những cá nhân
trong đó không hoặc chưa xác định được mình là ai.
Vậy, Cộng đồng Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ là ai?
Đây là tập thể mà bản sắc cá biệt được cấu thành bởi ba yếu tố:
1-
Cộng đồng Phật giáo;
2-
Việt
Nam;
3-
Tại Hoa Kỳ
Cả ba yếu tố cùng nhau cấu tạo nên “diện mạo” của tập thể này. Mất một
trong ba yếu tố, “diện mạo” của tập thể này sẽ khác đi.
Yếu tố Cộng đồng Phật giáo:
Đây là danh xưng chỉ cho tập thể Tăng Ni Phật tử, tập thể của những
người con Phật, tập thể của những người sống, làm việc, tu học và hành
đạo theo lời dạy của Đức Phật. Đây chính là yếu tố quyết định, quan
trọng nhất trong ba yếu tố. Giống như chất DNA trong cơ thể của mỗi
con người khiến cho có thể phân biệt được người này với người khác.
Yếu tố Phật là nền tảng khiến cho quan niệm sống, lối suy tư và cách
hành xử của tập thể Tăng Ni Phật tử không giống với những tập thể của
các cộng đồng khác trong xã hội. Mức độ khác biệt nhiều hay ít tùy
theo từng vấn đề. Yếu tố Phật, nói cụ thể, chính là mục đích, lý tưởng
của những người học Phật, tu Phật và hành đạo theo đức Phật. Tuy là có
thiên kinh vạn quyển, tuy là có nhiều tông phái, nhiều pháp môn tu
tập, nhưng mục đích và lý tưởng của những người học Phật, tu Phật và
hành đạo theo đức Phật không gì khác hơn là sự Giải thoát, như lời
phát nguyện mà Tăng Ni Phật tử đọc tụng mỗi ngày: “Ngã kim phát tâm
bất vị tự cầu nhơn thiên phước báo, Thanh văn Duyên Giác, nãi chí
quyền thừa chư vị Bồ Tát; duy y tối thượng thùa phát Bồ đề tâm: nguyện
dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A nậu đa la tam miệu
tam bồ đề”. Mục đích và lý tưởng đó cao quý biết bao: không mong
cầu được phước báo ở các cõi trời, cõi người; cũng không mong cầu
thành đạt các quả thánh như Thanh văn, Duyên Giác, ngay cả đến các quả
vị Bồ tát; Duy nhất chỉ mong cầu được giác ngộ, giải thoát thành Phật
để cứu độ tất cả chúng sanh đều thành Phật”. Đức Phật đã từng dạy:
nước trong bốn biển đều có chung một vị, đó là vị mặn; giáo pháp của
ngài trong vô số pháp môn cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát.
Lý tưởng và mục tiêu giải thoát được thể hiện cụ thể trong cuộc sống
tu học, hành đạo và ứng xử với cuộc đời nhiều mặt bằng hai đức tính Từ
Bi và Trí Tuệ của đạo Phật. Từ Bi và Trí Tuệ vừa là hạnh nguyện vừa là
phương pháp tu tập để hướng đến mục tiêu giải thoát.
Do đó, như chất DNA trong cơ thể con người, mục tiêu và lý tưởng giải
thoát, hay nói đầy đủ là Từ Bi, Trí Tuệ và Giải thoát là bản sắc đặc
thù của người Phật tử, của cộng đồng Phật giáo, của tập thể Tăng Ni
Phật tử. Rời bỏ bản sắc đặc thù này thì không còn là Phật giáo nữa, là
đi lạc vào tà đạo.
Do vì không thấy được, không xác định được hoặc đánh mất bản sắc đặc
biệt của mình là Từ Bi, Trí Tuệ và Giải thoát nên trong cơn biến động
đang xãy ra hiện nay để lộ ra hai thách thức lớn đối với Phật giáo
Việt Nam trong và ngoài nước:
Thách thức thứ nhất, có thể xem là nội chướng, do chính tự thân của
người tu học và hành đạo đã tha hóa và thế tục hóa mục đích và lý
tưởng cao quý của mình, để rồi trôi lăn trong “ngũ trược ác thế” với
những được mất, khen chê, phải trái, vốn là danh tướng hư vọng của thế
gian;
Thách thức thứ hai, thuộc về ngoại ma, chỉ chung những chướng duyên
nghịch cảnh từ bên ngoài, đặc biệt chỉ cho những thế lực vô minh nhằm
hủy hoại Phật pháp, vốn thời nào cũng có, phát xuất từ sự cuồng tín
tôn giáo và tham vọng chính trị… Gọi là thách thức lớn, không phải vì
những thế lực vô minh này mạnh hay yếu, lớn hay nhỏ, mà bởi vì trong
khi ứng phó với những thế lự vô minh này, những người học Phật, tu
Phật và hành đạo theo Đức Phật đã quên mất mục tiêu giải thoát, đánh
mất lòng từ bi và nuôi lớn sự hận thù. Và như thế, có nghĩa là, trước
tiên, chính mình đã làm suy yếu, sụp đổ cái mà mình muốn bảo vệ, phục
hồi. Lúc bấy giờ chỉ còn là hận thù này chống trả hận thù khác, bạo
lực này muốn tiêu diệt bạo lực kia. Nói đến bạo lực, chúng ta cũng
biết rằng, bạo lực không phải chỉ là vũ khí gươm dao hay súng đạn
trong tay mà còn là những ý niệm, tư tưởng, ngôn ngữ hàm chứa sự hận
thù muốn hủy diệt người khác. Đâu đây, chúng ta đã nghe những lời như
là hiệu triệu xuất quân, chẳng hạn như: “Mỗi Phật tử hãy gắng là Bồ
Tát Địa Tạng không ngại có mặt ngay tại ngục tối A-tỳ”, hoặc
mỗi Phật tử hãy như “bồ tát thấy dân kêu gào, gạt nước mằt, xông
mình vào chính trị hà khắc cứu dân mắc nạn chốn lầm than”. Chúng
ta hãy mường tượng thử xem, làm sao có được “từng đoàn Địa Tạng”,
“từng đoàn Bồ Tát” với tâm lý vọng động, hận thù xông đi bẻ gãy gông
cùm xiềng xích ở bất kỳ đâu, trên trần thế cũng như dưới địa ngục.
Không có bất kỳ một chỗ nào trong kinh điển Phật giáo chứa đựng một ý
niệm và một cảnh tượng thúc giục bạo lực như vậy. Ngài Địa Tạng thệ
nguyện vào địa ngục hay các vị Bồ Tát vào nơi “chính trị hà khắc cứu
dân mắc nạn lầm than” là với diệu lực từ bi, giải thoát của các ngài
để trước hết, chuyển hóa tội nhân và kẻ hung ác khiến họ trực ngộ được
vô thường, nhân quả, nghiệp báo mà khởi lên tâm niệm muốn phát Bồ đề
tâm để được giác ngộ. Chính từ một niệm khởi lên đó, họ được giải
thoát khỏi những ngục hình hoặc từ bỏ con đường cai trị ác độc, và do
đó, dân chúng được an lạc. Chính sự suy diễn, trích dẫn kinh điển nhằm
phục vụ thiên kiến và tham vọng danh lợi của mình là nguy cơ làm thoái
hóa, biến chất và làm lạc hướng Phật giáo.
Đức Đệ Tam Tăng Thống GHPGVNTN, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, qua bức Tâm
Thư gởi ra hải ngoại năm 1991 trước khi viên tịch, Ngài đã khơi dậy
ngọn đèn sơ tâm xuất gia để thắp sáng bản thể tăng già, làm sáng tỏ
hướng đi cho Tăng Ni Phật tử hải ngoại. Nhờ đó, như một sức mạnh tinh
thần có khả năng xóa bỏ những dị biệt, những mâu thuẩn, chư tôn đức
Tăng Ni Phật tử thuộc nhiều hệ phái và tổ chức Giáo hội khác nhau tại
Hoa Kỳ đã cùng ngồi lại thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ, mở đầu cho sự kết hợp sinh hoạt tốt đẹp của
Phật giáo Việt Nam hải ngoại, bao gồm đầy đủ các châu. Được như vậy,
vì qua bức Tâm Thư, Tăng Ni Phật Tử Việt Nam hải ngoại nói chung và
tại Hoa Kỳ nói riêng thấy rõ được diện mục chân thực của chính mình và
từ đó cũng biết được hướng đi của mình. Ngài đã tha thiết khuyên nhủ:
“Trong lịch sử truyền bá Phật giáo Việt
Nam cũng như thế giới, có lúc rất bi thảm đầy tủi nhục, nhưng có lúc
vẻ vang cũng đáng tự hào. Lúc bi thảm là lúc bản thể của Tăng Ni bị lu
mờ, nội bộ của Tăng Ni bị phân hóa, thành phần của Tăng Ni có nhiều
điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ
phiến diện. Trái lại, lúc vẻ vang là lúc nội bộ chúng Tăng hòa hiệp,
biết gạt bỏ những quyền lợi riêng tư, những ngã chấp tầm thường để
tiến xa trên con đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu
cánh, lấy bản nguyện độ sanh làm sự nghiệp…”
Và Ngài tha thiết kêu gọi: “hãy phát huy hơn nữa bản thể của Tăng
Già mà đoàn kết hòa hiệp, hãy cùng nhau thể hiện tinh thần tương kính,
tương thuận, tương giáo, tưong sám, như luật dạy…”
Tiếc thay, 16 năm sau, qua hình thức của Giáo Chỉ và Thông Bạch Hướng
Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ này, Tăng Ni Phật Tử hải ngoại đã nhận được một
nội dung kêu gọi sự đấu tranh hận thù, kích động sự thanh trừng nội
bộ, thực hiện những thủ đoạn thế gian, đưa đến sự tan vỡ các tổ chức
Giáo hội hải ngoại, đặc biệt là Giáo Hội Hoa Kỳ, vốn là thành tựu của
không biết bao nhiêu tâm nguyện và công lao của chư tôn đức Tăng Ni
Phật tử và cũng là hoài bảo thiết tha của Đức Đệ Tam Tăng Thống
GHPGVNTN.
Đây là bài học lớn, là kinh nghiệm “bi thảm đầy tủi nhục” để
Tăng Ni Phật tử ý thức được rằng phải biết rõ “diện mục” của mình và
Hướng Đi của mình không có gì khác hơn là “tiến xa trên con
đường tịnh hạnh, lấy giác ngộ giải thoát làm cứu cánh, lấy bản nguyện
độ sanh làm sự nghiệp”. Được như vậy, sẽ không còn bị lạc
trong lớp sương mù dày đặc của huyển tướng thế gian.
Yếu tố Việt Nam:
Sau yếu tố “Cộng đồng Phật giáo” như là một chất DNA trong cơ thể con
người, để phân biệt với các cộng đồng khác trong xã hội, yếu tố Việt
Nam xác định rõ hơn “diện mục”, “căn cước” của tập thể Tăng Ni Phật tử
trong tổ chức này về mặt nguồn gốc, quê hương, thầy tổ, văn hóa,
truyền thống để có thể phân biệt được với các tập thể Tăng Ni Phật tử
Thái Lan, Tăng Ni Phật Tử Triều Tiên, Tăng Ni Phật Tử Tây Tạng…
Hơn nữa, yếu tố Việt Nam còn nói lên mối liên hệ gắn bó của tập thể
Tăng Ni Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ với đồng bào và Phật tử Việt Nam
trong nước về tất cả những thăng trầm vinh nhục, những thất bại và
thành công, những khổ nạn và hy vọng, và đặc biệt về những công cuộc
vận động cho một Việt Nam thực sự tự do, dân chủ, nhân quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, lãnh hải.
Yếu tố Việt Nam cũng nói lên mối liên hệ gắn bó của tập thể Tăng Ni
Phật tử Việt Nam ở Hoa Kỳ với những ước vọng cao quý, chính đáng của
Tăng Ni Phật tử ở Việt Nam về một Giáo Hội Phật giáo Việt Nam độc lập,
thoát khỏi sự kiểm soát của Nhà nước để có thể phát triển góp phần xây
dựng nền tảng đạo đức cho xã hội Việt Nam. Phục hưng Phật giáo Việt
Nam vốn đã bị suy yếu sau một thời gian dài chiến tranh và dưới chế độ
độc đảng vừa là bổn phận, trách nhiệm vừa là hạnh nguyện độ sanh của
Tăng Ni Phật Tử Việt Nam trong và ngoài nước. Nhưng phục hưng Phật
giáo Việt Nam không phải là chuyện làm có thể được thực hiện trong một
sớm một chiều, ngay cả cũng không làm được trong một vài thế hệ. Hiện
nay trên 50 triệu thanh thiếu niên Việt Nam thuộc thế hệ sinh sau 1975
hoặc chưa đến 10 tuổi trong năm này (trong tổng số dân gần 84 triệu),
vì điều kiện kinh tế và xã hội, đã không có cơ hội biết hoặc tiếp xúc
với Phật giáo. Với kinh nghiệm Phật giáo Đại Hàn, vốn đã từng là quốc
giáo của xứ này, nay trở thành chỉ là một tôn giáo thiểu số so với Tin
Lành và Thiên Chúa mới truyền vào trong những thế kỷ gần đây. Hình ảnh
đó có thể là hình ảnh tương lai của Phật Giáo Việt Nam trong lòng đất
nước Việt Nam, nơi mà trong nhiều triều đại, Phật giáo cũng đã từng là
quốc giáo. Những nổ lực và kế hoạch phục hưng Phật giáo Việt Nam, nếu
có, phải là những nổ lực phục hưng nền văn hóa Việt Nam với những sinh
hoạt, nghi lễ truyền thống dân gian ở hạ tầng và với những chương
trình đào tạo thuộc lãnh vực tư tưởng, giáo dục, hoằng pháp ở thượng
tầng. Đức Khổng Tử đã dạy “bách niên chi kế mạc như thụ nhân”. Phục
hưng văn hóa Việt Nam, phục hưng Phật giáo Việt Nam chính là kế hoạch
trăm năm trồng người. Và do đó, dù khó khăn bao nhiêu cũng phải vượt
qua chứ không phải chờ cho sạch bóng Cộng sản rồi mới bắt đầu.
Yếu tố Hoa Kỳ:
Đây là yếu tố cuối cùng để tạo thành bản sắc của tập thể Tăng Ni Phật
Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ khác với tập thể Tăng Ni Phật Tử Việt Nam ở
trong nước, đặc biệt về phương diện tâm lý và quan điểm chính trị. Yếu
tố này cho thấy tâm lý và quan điểm chính trị của Tăng Ni Phật Tử Việt
Nam tại Hoa Kỳ liên hệ gắn bó và chia xẻ với tâm lý và quan điểm chính
trị của cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung và tại Hoa Kỳ nói
riêng vì có chung một hoàn cảnh tỵ nạn cộng sản. Do bản chất từ bi,
trí tuệ và giải thoát, sự phát biểu và bày tỏ tâm lý và quan điểm
chính trị của Tăng Ni Phật Tử Việt Nam luôn luôn trong cung cách thể
hiện lòng từ bi và không khích động lòng thù hận, vì luôn luôn tâm
niệm rằng cộng đồng người Việt hải ngoại và tương lai của Việt Nam cần
được xây dựng bằng những chất liệu tốt trên nền tảng đạo đức của các
tôn giáo nói chung. Tự do của mình không thể xây dựng trên sự hủy diệt
tự do của nguời khác. Nhân quyền của mình không thể thành tựu bằng sự
giẩm đạp lên nhân quyền của người khác.
Mẫu đối thoại sau đây giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma và một vị Lạt Ma Tây
Tạng, vốn là một tù nhân trong một nhà tù khủng khiếp của Trung Cộng,
đã cho thấy sức nhẫn nại và cũng là một sức mạnh vô biên của những
người con Phật:
- Đức
Đạt Lai Lạt Ma hỏi: Trong khi bị tra tấn ác độc, thầy có sợ không?
- Thầy
Lạt Ma trả lời: Bạch Ngài, con không sợ. Điều duy nhất con sợ là mình
đánh mất lòng từ.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng với một tinh thần như thế, Ngài tranh đấu cho
nền tự trị của quốc gia Tây Tạng của Ngài và đã nhận được sự hậu thuẩn
và kính trọng của các vị nguyên thủ quốc gia trên thế giới.
Kính bạch chư tôn đức Tăng Ni,
Kính thưa quý đạo hữu,
Hy vọng những trình bày trên đây phần nào đã cho thấy được diện mục
của Cộng đồng Tăng Ni Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ. Biết được mình là
ai cũng là lúc biết mình đi hướng nào.
Trân trọng cám ơn và kính chào chư tôn đức và quý liệt vị.