Thành quả hay tai
họa
GS. Võ
Văn Ái
HT.
Chánh Lạc
TT.
Viên Lý
TT.
Giác Đẳng
4
Chức sắc chủ chốt của Văn Phòng II VHĐ (mới).
|
Vào giữa và cuối tháng 9 năm 2007, Phòng Thông Tin Phật Giáo
Quốc Tế (PTTPGQT) tại Paris đã công bố Giáo Chỉ số 9 (viết tắt
là Giáo Chỉ) của Viện Tăng Thống (giải tán Văn Phòng II cũ để
thành lập Văn Phòng II mới với thành phần nhân sự gồm 14 vị cho
cả hải ngoại) và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9
(viết tắt là Thông Bạch) của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN (giải tán các
GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada).
Sau khi hai văn bản này được phổ biến (chỉ phổ biến trên các
trang nhà điện tử toàn cầu và qua các nhóm email mà không gửi
trực tiếp bằng thư đến chư Tôn Giáo Phẩm đang hành hoạt trong
các GHTNHN), đã tạo ra một cơn biến động lớn chưa từng thấy
trong sinh hoạt của GHTN nói riêng và Phật Giáo Việt Nam nói
chung tại hải ngoại. Do vậy, trên các cơ quan truyền thông báo
chí, trang nhà điện tử toàn cầu và nhóm email, chúng ta nhận
thấy có rất nhiều quyết nghị, thông cáo báo chí, tâm thư, bài
viết từ nhiều thành phần khác nhau trong cộng đồng người Việt
hải ngoại xoay quanh cơn biến động này.
Những vị “khâm tuân” Giáo Chỉ và Thông Bạch thì cho rằng đây
là thành quả, là sự sáng suốt của chư vị lãnh đạo GHTN, là hành
động kịp thời ngăn chận những âm mưu xóa sổ, tiêu diệt, biến
tướng GHTN của Cộng Sản và tay sai. Những người bênh vực lý
luận rằng nếu chư vị lãnh đạo GHTN mà không làm như vậy (giải
phẫu để cắt khối u bệnh hoạn trong cơ thể của GHTN) thì GH này
đã hay sẽ bị Cộng Sản và tay sai dùng mọi thủ đoạn để hoặc là
tiêu diệt hoặc là đưa GHTN đi theo “quốc doanh”!
Dù sao những lý luận trên cũng chỉ là lý thuyết. Nếu chỉ căn
cứ trên lý thuyết không thôi để thẩm định giá trị đúng-sai và
thành-bại của một phương thức, một đề án, một kế hoạch, một
chương trình hành động, một đường hướng phục vụ thì quả là rất
thiếu sót, nếu không muốn nói là không tưởng! Hơn nữa, thông
thường, khi đưa ra một chính sách hay một kế hoạch hành động thì
tổ chức có trách nhiệm phải đồng thời thực hiện công tác quan
sát, điều tra, nghiên cứu và phúc trình tất cả mọi thành-bại để
qua đó có thể kịp thời điều chỉnh những sai sót hầu thúc đẩy
công việc được tiến hành đến nơi đến chốn. Chính vì vậy, chúng
ta cần tìm hiểu, quan sát, thẩm định sự kiện ngay trong thực tế
áp dụng, trong sinh hoạt cụ thể giữa lòng xã hội, trong bối cảnh
hoạt động của tập thể hay cộng đồng.
Vì thế, vấn đề phải được đặt ra là sau khi Giáo Chỉ và Thông
Bạch đã được công bố thì trên thực tế đã có những tác động,
những phản ứng, những thành quả hoặc những hệ quả tai hại gì?
Vậy thì việc ban hành Giáo Chỉ và Thông Bạch đã đưa đến những
thành quả gì? Trên thực tế Giáo Chỉ và Thông Bạch có mang lại
thành quả hay không? Nếu có thì đó là thành quả gì?
Những vị “khâm tuân” cho rằng nhờ Giáo Chỉ và Thông Bạch ra
đời mà đã giữ được GHTN không bị tiêu diệt, không bị đem giao
cho “quốc doanh”. Nếu như vậy thì xét trên mặt hiện thực xã hội
thời gian từ năm 1975 đến trước khi có Đại Hội Bất Thường tại Tu
Viện Nguyên Thiều vào tháng 10 năm 2003, GHTN thật sự đã đứng
trước tình hình nguy hiểm nhất đến sự sinh tồn, bởi vì chính
sách tàn bạo của bạo lực chuyên chính và bởi vì nhân sự của GH
rất ít, chỉ có nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích
Quảng Độ cùng một vài vị Tôn túc khác. Trong tình cảnh hiểm
nguy khốn khó nhất đó mà GHTN còn tồn tại được thì hiện nay đã
có 40 vị Giáo Phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện, 20 Ban Đại Diện
GHTN tại các tỉnh (theo hồ sơ của PTTPGQT), sao GHTN lại bị tiêu
diệt hay bị quốc doanh hóa? Xét về tình hình của các GHTNHN tại
Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và
Canada,
chúng ta thấy suốt gần hai thập niên qua, các GHTNHN này đã một
lòng một dạ sống chết và hy sinh cho sự tồn tại và phục hoạt
GHTN trong nước. Cho đến nay, thực tế vẫn không có vấn đề các
GHTNHN này thay đổi lập trường, có ý đồ tiêu diệt hay đưa GHTN
vào tròng “quốc doanh”.
Để làm rõ hơn sự thật ở trên, người viết xin được đề cập đến
hai vấn đề mà những người “khâm tuân” thường viện dẫn để biện
minh cho việc ban hành Giáo Chỉ và Thông Bạch và để buộc tội chư
tôn đức Tăng, Ni trong các GHTNHN khác. Đó là vấn đề liên quan
đến Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và liên quan đến việc chư tôn đức
Tăng, Ni ở hải ngoại trong Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải
Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại và Ngày Về Nguồn.
Trước hết, xin nói về vấn đề liên quan đến Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ. Những vị nhân danh “khâm tuân” viện dẫn đủ thứ lý do và
đưa ra vô số lời buộc tội đối với Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ.
Người viết bài này từ trước cũng như trong suốt mấy tháng nay đã
từng tiếp cận, tìm hiểu về Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ qua kinh sách
mà Thượng Tọa đã sáng tác, qua phong cách hành hoạt của Thượng
Tọa, qua chư tôn đức Tăng, Ni và nhiều cư sĩ Phật tử trong và
ngoài nước. Nhưng người viết cũng xin thưa ngay ra đây rằng
những điều được viết trong bài viết này không đại diện, không
nói thay cho bất cứ một vị nào khác ngoài sự hiểu biết của chính
người viết.
Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ từ suốt trên 8 tháng qua đã im lặng
trước biến cố Giáo Chỉ-Thông Bạch và tiếp tục công việc nghiên
cứu, dịch thuật và sáng tác. Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã được
nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ mời vào
làm Tổng Thư Ký VHĐ vào năm 1999 và được chính thức công bố
trong Đại Hội Khoáng Đại kỳ 8 của GHPGVNTN tổ chức tại Phật Học
Viện Quốc Tế, thành phố North Hills, bang California, Hoa Kỳ.
Sau một thời gian làm việc trong Viện Hòa Đạo với vai trò Tổng
Thư Ký, Thượng Tọa đã đối diện với các khó khăn phát xuất từ bên
trong nội bộ GH qua phương thức làm việc. Tất nhiên đối với
chính quyền Cộng Sản thì GH không những chỉ gặp khó khăn mà còn
bị bức hại nghiêm trọng hơn nữa.
Khó khăn trong nội bộ GH chính là phương thức làm việc tùy
tiện của PTTPGQT. Thượng Tọa là Tổng Thư Ký của Viện Hóa Đạo mà
có nhiều quyết định, nhiều văn kiện của VHĐ Thượng Tọa không hề
được biết hay được tham khảo, trong khi PTTPGQT đã phổ biến ở
nước ngoài. Khi gặp phải các trường hợp nêu trên, Thượng Tọa đã
có viết thư trình bày với cư sĩ Võ Văn Ái. Nhưng cư sĩ Võ Văn
Ái không những không thay đổi phương thức làm việc lại còn tỏ vẻ
sân si và tiếp tục cách mà ông đã làm. Vì không thể chấp nhận
một vai trò có tính cách bù nhìn cho nên Thượng Tọa đã viết thư
trình lên Hòa Thượng Viện Trưởng xin nghỉ việc vào năm 2000.
Hòa Thượng Viện Trưởng nhận được thư từ chức của Thượng Tọa
nhưng đã không có quyết định chấp thuận hay không, nghĩa là xem
như không có gì xảy ra. Chính vì vậy, trong Đại Hội Bất Thường
vào tháng 10 năm 2003 tại Tu Viện Nguyên Thiều, Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ đã được mời đảm nhận vai trò Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện
Hóa Đạo. Sự kiện Thượng Tọa đã được mời làm Phó Viện Trưởng
trong Đại Hội Bất Thường năm 2003 cho thấy rõ rằng nhị vị Hòa
Thượng lãnh đạo tối cao của GH vẫn tin cẩn Thượng Tọa và cũng
cho thấy rằng lá thư từ chức mà Thượng Tọa đã đệ trình lên Hòa
Thượng Viện Trưởng vào năm 2000 đã không còn có hiệu lực. Cho
đến khi Giáo Chỉ số 2 ban hành và do PTTPGQT công bố tại hải
ngoại vào cuối năm 2005, mà Thượng Tọa cũng như một số quý
Thượng Tọa trong VHĐ trong nước vẫn chưa biết mình đã không còn
là thành viên trong Hội Đồng Viện Hóa Đạo. Vậy mà, trong cơn
biến động của Giáo Chỉ và Thông Bạch, những người “khâm tuân” đã
không ngừng đổ tội lên Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ cho rằng là vì có
đơn xin từ chức của Thượng Tọa nên Viện Hóa Đại chỉ theo đó mà
cho thôi việc!
Về vấn đề công nhận Ban Hướng Dẫn GĐPT Trên Thế Giới: BHD/GĐPT
Trên Thế Giới sau khi thành lập tại Ấn Độ vào năm 2004 đã đệ
trình văn thư xin VHĐ chuẩn y. Tuy nhiên, lúc đó Hòa Thượng Viện
Trưởng vì đang bị bệnh và nhập thất cho nên đã truyền dạy là
giao cho Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và chư vị Giáo Phẩm trong Ban
Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo giải quyết sự việc trên. Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ vì thừa hành lời dạy của Hòa Thượng Viện Trưởng nên đã
triệu tập cuộc họp và tham khảo ý kiến của chư vị Giáo Phẩm
trong Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo để lấy quyết định công nhận
BHD/GĐPT Trên Thế Giới. Cũng cần nhắc lại ở đây là trong thời
gian tiến hành Đại hội thành lập BHD/GĐPT Trên Thế Giới tại Ấn
Độ, Thượng Tọa Thích Như Điển, Thượng Tọa Thích Viên Lý, Thượng
Tọa Thích Nguyên Siêu đã quang lâm chứng minh. Nhiều chư tôn
đức Giáo Phẩm trong Văn Phòng II VHĐ và GHTNHN/HK đã hoan hỷ hỗ
trợ về mặt tinh thần lẫn vật chất, trong đó có Hòa Thượng Thích
Chánh Lạc, Hòa Thượng Thích Huyền Việt. Cư sĩ Võ Văn Ái đã sốt
sắng phổ biến tin tức và khích lệ công tác Phật sự này ngay từ
đầu. Vậy mà sau này chính cư sĩ Võ Văn Ái đã ra Thông Cáo Báo
Chí phủ nhận tư cách của BHD/GĐPT Trên Thế Giới và khi biến động
Giáo Chỉ và Thông Bạch xảy ra, những người “khâm tuân” đã đổ tội
ngược lại cho Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ là âm mưu, là qua mặt Hòa
Thượng Viện Trưởng.
Cho đến nay, Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã làm gì để bị kết tội
là phá hoại, là bán đứng GHTN cho Cộng Sản? Bằng chứng ở đâu?
Không thấy ai đó đưa ra bằng chứng cụ thể, chỉ thấy một luận
điệu ấu trĩ là xuyên tạc, vu khống, chụp mũ và buộc tội vô căn
cứ.
Vấn đề ở đây không phải là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã đi ngược
lại hay phản bội lập trường, phương thức và đường hướng hoạt
động của GHTN, mà chính là vì Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ không chấp
nhận sự thao túng và lạm dụng chức năng của cư sĩ Võ Văn Ái. Vì
vậy cư sĩ Võ Văn Ái từ sự bất mãn đi đến chống đối, thù nghịch,
tung tin thất thiệt và vu hãm đối với cá nhân Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ. PTTPGQT hay Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo chỉ có vai trò
và trách nhiệm thừa hành và phổ biến các quyết định, các văn
kiện của GHTN, chứ không thể là nơi tạo ra các quyết định hay
các văn kiện quan trọng của GHTN một cách tùy tiện. Cái tâm
chất vị ngã và tư thù này của cư sĩ Võ Văn Ái, cấu kết với Hòa
Thượng Thích Chánh Lạc để thao túng và mưu cầu địa vị trong GH,
đã được chứng thực rất rõ bằng việc loại trừ Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ và nhiều vị Thượng Tọa trong Hội Đồng VHĐ qua Giáo Chỉ số
2 vào cuối năm 2005; bằng việc xem GHTNHN tại Canada như tổ chức
thù nghịch vì GH này đã vạch trần âm mưu thao túng của cư sĩ Võ
Văn Ái trong Thư Thỉnh Nguyện đệ trình VHĐ sau khi Giáo Chỉ số 2
ban hành; bằng việc đánh phá và loại trừ tất cả chư tôn đức
Tăng, Ni và cư sĩ không đồng thuận với sự thao túng của cư sĩ Võ
Văn Ái trong các GHTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada
qua Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số
9; bằng việc đánh phá và loại trừ chư tôn đức Giáo Phẩm của
GHTNHN Úc Châu qua Quyết định chuẩn y thành phần nhân sự vì Hòa
Thượng Thích Bảo Lạc, Thượng Tọa Thích Quảng Ba, Thượng Tọa
Thích Nhật Tân, Thượng Tọa Thích Tâm Phương, Đại Đức Thích
Nguyên Tạng chống đối sự thao túng của cư sĩ Võ Văn Ái đối với
nội bộ GHTNHN tại Úc Châu; bằng việc đánh phá và giải tán toàn
BHD/TƯ/GĐPTVN tại Hoa Kỳ qua Quyết định vào ngày 10 tháng 2 năm
2008 vì các Huynh trưởng đã chống đối việc cư sĩ Võ Văn Ái đưa
Huynh Trưởng Lê Công Cầu làm Vụ Trưởng GĐPT Vụ và dùng Huynh
trưởng Trần Đình Minh làm con rối để đánh phá GĐPTVN/HK.
Nay xin nói về vấn đề liên quan đến chư tôn đức Tăng, Ni và cư
sĩ Phật tử tại hải ngoại trong Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải
Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Ngày Về Nguồn, Vận động thành
lập Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Trong Hiến Chương
của GHTN cũng như trong các Quy Chế và Nội Quy của các GHTNHN
tại hải ngoại không có chỗ nào cấm chế không cho chư tôn đức
Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử thành viên của GH thành lập các Hội
Thân Hữu, các Hội từ thiện xã hội, các tập thể Tăng Già để góp
phần hoằng dương Chánh pháp, cứu khổ quần sinh. Việc chư tôn
đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử thành viên của GHTN tham gia sinh
hoạt trong một vài tổ chức tập thể Phật Giáo, vốn không liên can
đến GHPGVN trong nước hay các tổ chức chính trị thế gian, là
việc bình thường, hợp tình hợp lý với truyền thống Chánh pháp và
Giới luật đạo Phật. GHTNHN/HK hay VPII/VHĐ không phải là cơ
quan quyền lực thống lãnh toàn diện hết tất cả các tổ chức Phật
Giáo Việt Nam tại hải ngoại thì có thẩm quyền gì để bắt các tổ
chức Phật Giáo này phải xin phép, phải được sự chuẩn thuận của
VPII/VHĐ cho mọi Phật sự? Tại hải ngoại có nhiều tổ chức GHPG
từ trước đến nay không là thành viên của GHTN, như vậy tất cả
các tổ chức GHPG này đều là Cộng Sản hết hay sao?
Vấn đề là chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử trong các tập
thể đó đã làm điều gì tổn hại đến GHTN, đến Phật Giáo Việt Nam,
đến Tăng, Ni? Hay đó chỉ là những xuyên tạc, vu khống, chụp mũ,
buộc tội đầy ác ý và không căn cứ? Sự thật đã hiển lộ ra một
cách minh bạch qua tất cả những văn thư, tâm thư, tâm nguyện,
quyết nghị, thông báo, tường thuật, bài viết trong sáng của tất
cả chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử trong các tập thể như
Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải
Ngoại, Ngày Về Nguồn, Ban Vận Động Thành Lập Cộng Đồng Phật Giáo
Việt Nam tại Hoa Kỳ và các Ban Hướng Dẫn GĐPTVN từ Trung Ương
đến các Miền. Tất cả những văn bản này hiện vẫn còn đăng tải và
lưu giữ trên nhiều trang nhà điện tử toàn cầu như
www.phapvan.ca ,
www.phusa.info
,
www.haitrieuam.com ,
www.trungdao.net,
www.giadinhaolam.com ,
www.vuonlam.us, v.v....
Những vị “khâm tuân” nghĩ sao về các trường hợp sau đây: Việc
Hòa Thượng Thích Hộ Giác có mối liên hệ rất chặt chẽ với Giáo
phái Phât Giáo Nguyên Thủy trong nước từ bấy lâu nay; việc Hòa
Thượng Thích Hộ Giác, Hòa Thượng Thích Chơn Trí, Hòa Thượng
Thích Huyền Việt, Thượng Tọa Thích Giác Đẳng, Thượng Tọa Thích
Trí Tịnh là thành viên của Giáo Hội Nguyên Thủy tại Hoa Kỳ; việc
Hòa Thượng Thích Chánh Lạc có cơ sở xuất bản Phú Lâu Na chuyên
in sách của Hòa Thượng Thích Trí Quang để bán lấy tiền riêng;
việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc đem tiền của nhiều như núi để
tài trợ cho các tờ báo chuyên đánh phá chư tôn đức Tăng, Ni như
Khai Thác Thị Trường, Đối Lập, Góp Gió, Tinparis, v.v...; việc
Hòa Thượng Thích Chánh Lạc cấu kết với CLCG tại Florida để đánh
phá chư Tăng, Ni; việc Thượng Tọa Thích Viên Lý thành lập Trung
Tâm Chân Nguyên và Viện Triết Lý VN và Triết Học Thế Giới; việc
Thượng Tọa Thích Viên Lý và Thượng Tọa Thích Giác Đẳng là thành
viên Hội Đồng Giảng Huấn của Học Viện Phật Giáo Hòa Hảo; việc cư
sĩ Võ Văn Ái là Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền, Chủ
Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, nhận tiền của cơ
quan NED; tất cả những việc trên có phải đều là chống lại GHTN?
Trên đây là một số sự kiện được đưa ra để qua đó nhìn thấy rõ
hơn về luận cứ mà những vị “khâm tuân” viện dẫn để chứng minh
cho thành quả của Giáo Chỉ và Thông Bạch. Những luận cứ ấy vừa
mang tính chủ quan với cái nhìn một chiều và lập trường cá nhân
cục bộ, vừa không biện minh được thực tế tan nát của đại khối
Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại do Giáo Chỉ và Thông Bạch tạo
ra.
Trong suốt trên 8 tháng qua, kể từ sau khi Giáo Chỉ và Thông
Bạch ra đời, tại hải ngoại trong giới Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử,
đâu đâu cũng nghe than vãn về biến cố này! Điều đau lòng là sự
ban hành của Giáo Chỉ và Thông Bạch dưới chữ ký của những vị
trưởng lão tôn túc lãnh đạo một Giáo Hội có truyền thống uy tín
lớn lao của cả nước, nhưng Tăng, Ni và Phật tử thay vì hoan hỷ
hòa hợp thì lại đau buốt tim gan và phân hóa tê liệt! Thực tế
bi thương này nói lên một điều không thể chối cãi được rằng Giáo
Chỉ và Thông Bạch vốn không đáp ứng được nguyện vọng của Tăng,
Ni và Phật tử hải ngoại, đồng thời cũng không là phương thức
thích đáng với hiện tình của GHTN và Phật Giáo Việt Nam. Nỗi
đau buồn rồi cũng sẽ phai nhạt theo thời gian, nhưng cái còn lại
lâu dài chính là những hậu quả tai hại mà Giáo Chỉ và Thông Bạch
gây ra. Những hậu quả tai hại đó là gì? Nay xin đưa ra một số
tiêu biểu cụ thể, như sau:
1. Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục
đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN cho
nên đã bất chấp mọi thủ thuật cơ tâm giải thích sai lạc Chánh
pháp của Đức Phật theo tư kiến và tư dục của mình. Điển hình là
trường hợp Hòa Thượng Thích Chánh Lạc, ông Võ Văn Ái, ông Ngô
Trọng Anh, ông Bảo Quốc Kiếm đã dám cho rằng: “Chế độ Cộng Sản
tại Việt Nam là Tập đế trong Tứ Đế”; “giáo nghĩa tương quan
tương duyên của duyên khởi đã giết hại bao nhiêu Tăng, Ni và
Phật tử Việt Nam”; hành trạng của chư vị tôn túc như Cố Đại Lão
Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu,
Hòa Thượng Thích Trí Quang, v.v... là “bùng nổ”, là “bình
phong”; kết án chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử là làm “biến
tướng Bát Chánh Đạo”; v.v… Đó đều là những quan điểm sai lầm và
nguy hại đối với Chánh Pháp của Đức Phật. Chính những xuyên tạc
Chánh Pháp đó đã góp phần không nhỏ làm giao động tín tâm của
quần chúng Phật tử bốn phương, tạo duyên cớ để cho những kẻ chưa
một ngày biết tu học trong giáp pháp giác ngộ và giải thoát của
Đức Phật được dịp thốt lời thị phi đối với Chánh Pháp, bất chấp
mọi hậu quả tai hại không lường cho sự tồn tại của giáo pháp
Phật Đà!
2. Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục
đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN cho
nên đã đem quan điểm chánh trị thế gian để do lường và thẩm định
tư cách và phẩm hạnh của chư vị xuất gia. Theo chủ trương của
họ, hễ vị xuất gia nào không theo GHTN, không lên tiếng chống
Cộng, không tấn công chư tôn đức Tăng, Ni đang hành đạo trong
GHPGVN thì đều là thành phần xấu, biến tướng, không xứng ở trong
hàng ngũ xuất gia, trưởng tử của Như Lai! Đó là quan điểm hoàn
toàn sai lầm và nguy hại cho sự tồn tại của Phật Pháp. Bởi vì
từ khi Đức Phật còn tại thế đến nay, hàng ngũ của chư vị xuất
gia lấy việc nghiêm trì giới luật, lấy bản thể thanh tịnh hòa
hợp, lấy đạo lực thân chứng Chánh Pháp làm chuẩn mực, làm kim
chỉ nam, làm nền tảng cho mọi hành hoạt và mục đích cứu cánh.
Phật Giáo không thể nào lấy quan điểm và lập trường chánh trị
thế tục để thẩm định tư cách và phẩm hạnh của chư vị xuất gia.
Chư vị xuất gia tùy theo thệ nguyện và phương thức tu tập mà có
thể chọn con đường hành đạo của mình hoặc là phát nguyện tham
gia trong các tổ chức Phật Giáo để góp phần xiển dương Chánh
Pháp, giải khổ quần sinh, hoặc là tự mình chọn cho mình phương
thức hành đạo đặc thù để truyền bá Chánh Pháp, tiếp độ tha nhân,
hoặc là phát nguyện nhập thất chuyên tu để thành tựu mục tiêu
tối thượng rồi sau đó mới đi vào đời mà cứu khổ độ mê. Nhưng
tất cả chư vị xuất gia đều lấy việc thực nghiệm Chánh Pháp,
nghiêm trì giới luật, thanh tịnh hòa hợp, giữ vững chí nguyện
xuất trần làm tiêu chí. Chính vì thái độ cục bộ và phi Chánh
Pháp của những vị “khâm tuân” đó mà đã dẫn đến tình trạng hỗn
loạn như ngày nay. Trong đó dựa trên quan điểm chính trị thế
gian, bằng những lời lẽ thô tục, chứa đầy ác tâm, những người tự
xưng là giòng họ Thích (Thích Tỉnh Thức, Thích Chánh Hạnh, Thích
Không Tánh, Thích Chánh Lạc, Thích Như Tấn), là Phật tử (Ngô
Trọng Anh, Bảo Quốc Kiếm, Nguyễn Khắc Anh Tâm, Chúc Thuật, Võ
Văn Sáu, Võ Văn Ái, Việt Hải, Tri An, Phạm Hoài Việt), và ngay
cả những kẻ ngoại đạo (Tú Gàn Nguyễn Cần, Nguyễn Bá Long, Nguyễn
Văn Lục, Âu Dương Thệ) cũng lớn tiếng phỉ báng, vu khống, chụp
mũ, mạ lị và buộc tội chư tôn đức Tăng Ni, chỉ vì chư vị này đã
không “khâm tuân”, không tham gia đầu phục GHTN, đã không chống
Cộng theo kiểu mà những vị “khâm tuân” này đặt ra!
3. Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục
đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN đã
không ngần ngại kích động, cổ vũ lòng thù hận nhắm vào chư tôn
đức Tăng, Ni và Phật tử không tùng phục chủ trương của họ. Khi
vu khống, chụp mũ chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử là “thân Cộng,
là hòa hợp hòa giải với Cộng Sản, là bán đứng GHTN cho Cộng
Sản”, những vị theo chủ trương “khâm tuân” đã lợi dụng lòng thù
hận đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam của tập thể người Việt tỵ
nạn Cộng Sản tại hải ngoại để trút hết bao nhiêu oan khiên và sự
trả thù lên chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử không “khâm tuân”!
Đó là hành vi không những sai Chánh pháp mà còn chứa đầy ác
tâm. Những vị chủ trương “khâm tuân” vì để đạt mục đích kích
động thù hận, nên đã không hề nhắc đến tinh thần từ bi bao dung
và vị tha của Phật Giáo, trong khi chính lòng từ bi bao dung và
vị tha mới là yếu tính của Đạo Phật, làm cho Đạo Phật được tồn
tại và phát triển sâu rộng qua suốt quá trình lịch sử trên hai
mươi lăm thế kỷ nay. Đánh mất lòng từ bi, bao dung và vị tha,
Đạo Phật không còn là Đạo Phật chân chính nữa. Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc ngày nay tôn vinh Đức Phật, lấy Ngày Vesak làm ngày văn hóa
và tôn giáo thế giới, nguyên do chính là vì tinh thần từ bi, trí
tuệ, bao dung và hòa bình của Phật Giáo đã, đang và sẽ góp phần
hữu hiệu để chuyển hóa phần nào tình trạng bất an, hận thù và
khổ đau của nhân loại trên hành tinh này.
Trong chủ trương kích động lòng thù hận, những vị “khâm tuân”
đã định danh một cách sai lầm và tai hại rằng những ngôi Chùa
của chư tôn đức Tăng, Ni nào không theo chủ trương “khâm tuân”
của họ là những “pháo đài”. Chùa là ngôi Tam Bảo, là chốn đạo
tràng để cho chư Tăng, Ni và quần chúng Phật tử tu học và hoằng
dương Chánh pháp giác ngộ và giải thoát của Đức Phật. Vậy mà họ
cố tình gọi đó là “pháo đài”! Quả thật những vị “khâm tuân” đã
không còn biết đến Tam Bảo là gì, không còn nghĩ đến sứ mệnh
thiêng liêng cao cả “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh” là
thế nào.
4. Giáo Chỉ số 9 ra lệnh giải tán Văn Phòng II cũ để thành
lập Văn Phòng II mới với 14 vị cho toàn hải ngoại, trong đó tại
Hoa Kỳ có 11 vị, Âu Châu, Úc Châu và Canada mỗi nơi một vị.
Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 ra lệnh giải tán
toàn bộ các GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada.
Hai sự kiện này đã dẫn đến tình trạng chia rẽ và phân hóa trầm
trọng trong nội bộ của các GHPGVNTN tại hải ngoại, khiến cho
GHTN ở Hoa Kỳ đã rơi vào tình trạng có hai Đại Hội Bất Thường và
thành phần thiểu số đã bất chấp đến tâm nguyện của quá bán thành
viên khác tiếp tục sử dụng danh xưng GHPGVNHN/HK; GHTN Úc Châu,
sau khi Hòa Thượng Thích Như Huệ, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và
Thượng Tọa Thích Tâm Minh đệ trình văn thư xin từ chức vì không
thể chấp nhận quyết định của VHĐ đối với thành phần nhân sự, thì
rơi vào sự phân rã hầu như không thể sinh hoạt được; GHTN Canada
lâu nay là một tập thể thanh tịnh hòa hợp bây giờ cũng bị sứt mẻ
vì Thượng Tọa Thích Thiện Tâm đi theo chủ trương của những vị
“khâm tuân” tách ra khỏi tập thể Tăng Già Canada; GHTN Âu Châu
mặc dù vẫn giữ được tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tập thể
Tăng Già, nhưng bản thân của Hòa Thượng Thích Trí Minh thì phải
chọn con đường im lặng! GĐPTVN là một tổ chức giáo dục tuổi trẻ
đã có mặt từ trong nước gần bảy thập niên và ở hải ngoại trên
ba mươi năm. Từ trước đến nay các huynh trưởng và đoàn sinh
GĐPT vẫn một lòng phục vụ cho GHTN, vẫn trung thành với đường
lối và lập trường của GHTN. Vậy mà chỉ vì lý do “khâm tuân”,
chỉ vì bảo vệ một vài cá nhân huynh trưởng bị bãi nhiệm vì vi
phạm điều lệ, GHTNHN/HK đã ra Quyết định giải tán toàn
BHD/TƯ/GĐPTVNHK. Làm như thế tức là nhẫn tâm loại bỏ tuổi trẻ
Phật tử Việt Nam! Như vậy, mối liên hệ tinh thần giữa các GHTN ở
hải ngoại đối với GHTN trong nước từ mấy chục năm nay, qua Giáo
Chỉ và Thông Bạch đã trở nên mờ nhạt, mặc dù tất cả các GHTN tại
hải ngoại vẫn không thay đổi lập trường đối với công cuộc vận
động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và phục hoạt GHTN trong
nước! Sự phân hóa và hoang mang không những chỉ xảy ra trong
nội bộ của GHTN mà còn lan rộng ra trong cộng đồng Phật Giáo
Việt Nam ở hải ngoại. Qua đó, mối liên hệ pháp hữu giữa chư
Tăng, Ni với nhau, mối liên hệ đạo hữu giữa các Phật tử với
nhau, cũng vì vậy mà bị ảnh hưởng tai hại. Thêm vào đó là những
thành phần thế gian và ngoại giáo lợi dụng tình hình bất ổn
trong Phật Giáo để gia tăng sự đánh phá!
5. Những vị chủ trương “khâm tuân”, khi không còn được sự hậu
thuẫn rộng rãi và hùng hậu của nội bộ Phật Giáo, đã phải tìm đến
các tổ chức, đoàn thể và đảng phái chính trị bên ngoài để tìm
thế đứng, tìm lực lượng ủng hộ. Do đó đã dẫn đến tình trạng lên
tiếng can thiệp vào chuyện nội bộ của GHTN, của Phật Giáo từ các
thế lực thế gian này. Trong khi trên thực tế các tổ chức, đoàn
thể và đảng phái chính trị ngoài thế gian không hề biết nội dung
giáo lý và phương thức hành đạo của Phật Giáo thế nào, cũng
không hề nắm vững tình hình sinh hoạt của Phật Giáo ra sao!
Trường hợp điển hình là việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc và
Thượng Tọa Thích Thiện Tâm đã cấu kết với ông Nguyễn Bá Long,
Phát ngôn nhân của Hiến chương 2000, ở Canada, trong vấn đề gọi
là “chấm giải và phát giải thưởng” cho hai văn bản Giáo Chỉ và
Thông Bạch của GHTN. Ông Nguyễn Bá Long làm sao có đủ tư cách
và thẩm quyền để chấm điểm cho một Giáo Chỉ của Viện Tăng Thống
và Thông Bạch của Viện Hóa Đạo? Giáo chỉ của VTT và Thông Bạch
của VHĐ là hai văn bản mang tính pháp lý tối cao được ban hành
từ hai Hội Đồng lãnh đạo tối cao của GHTN, một GH có thẩm quyền
đại diện cho Tăng, Ni và Phật tử cả nước. Làm sao với hai văn
bản trọng đại như vậy mà ông Nguyễn Bá Long dám chấm điểm, dám
quyết định! Như vậy ông Nguyễn Bá Long là ai? Có phải làm vậy
tức là thừa nhận vai trò tối cao của ông Nguyễn Bá Long đối với
Hội Đồng Lưỡng Viện GHTN? Trong khi thực chất, ông Nguyễn Bá
Long chỉ là người làm chính trị hoạt đầu lợi dụng uy tín của
GHTN để đánh bóng cái danh hư huyễn của ông mà thôi! Hai vị Hòa
Thượng Thích Chánh Lạc và Thích Thiện Tâm sao có thể cúc cung
thân hành đến đó để cho ông Nguyễn Bá Long đứng ở trên mà ban
phát ân huệ xuống như vậy? Hai vị Hòa Thượng đó không thấy là
mình đang bán uy danh của GHTN bằng cái giá rẻ mạt ba ngàn đồng
hay sao?
Có người nói, đối với kẻ ác chúng ta không thể xử sự theo cách
khoan dung độ lượng, vì làm như vậy chúng ta sẽ bị kẻ ác tiêu
diệt. Đó là quan điểm bình thường trên thế gian này, giống như
cách nói theo tục ngữ “ăn miếng trả miếng.” Đó là quan điểm xây
dựng trên nền tảng hữu ngã của thế giới nhị nguyên, phân biệt
rõ ràng nhân-ngã bỉ-thử. Từ tâm thức và hành tác đó mà chúng
sinh tạo nghiệp nhân và thọ nghiệp quả. Trong vòng nhân quả
nghiệp lực ấy mà chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi,
không biết khởi điểm từ đâu và kết thúc lúc nào!
Đức Phật liễu ngộ thật minh bạch căn nguyên, hành tướng và hệ
quả của những yếu tố ấy đối với sự hiện hữu của chúng sinh cho
nên, Ngài đã thành tựu đạo quả giác ngộ và giải thoát. Từ kinh
nghiệm thực chứng tự thân, Đức Phật hướng dẫn con người thành
đạt mục tiêu tối thượng của đời người là giải thoát khổ đau.
Đạo Phật vì vậy, là con thuyền đi ngược dòng: đi ngược dòng thế
sự vô minh và khổ não, đi ngược dòng vượt thoát khỏi phiền não
tham, sân, si, đi ngược dòng từ bờ bên này (thử ngạn) sang bờ
bên kia (bỉ ngạn). Đạo Phật vì vậy, không đi theo con đường thế
gian đi. Đạo Phật không lấy oán để báo oán, không lấy bạo lực
để đối đầu với bạo lực, không lấy bản ngã để chống lại bản ngã.
Đạo Phật lấy từ bi để cảm hóa chúng sinh, lấy trí tuệ để chuyển
hóa vô minh và phiền não! Tất nhiên điều ấy không phải dễ làm.
Nhưng nếu làm không được thì đó không phải là tại vì Đạo Phật
nói sai, mà vì diệu lực của từ bi và trí tuệ của người làm chưa
đầy đủ. Bởi lẽ, trên hai ngàn rưỡi năm nay, đã có biết bao
người có đủ diệu lực của từ bi và trí tuệ để cảm hóa nhân sinh
và chuyển hóa vô minh phiền não!
Cỗ xe Chánh Pháp còn được chuyển vận trên thế gian lâu dài để
làm lợi lạc cho nhân quần xã hội chính là nhờ vào diệu lực của
đôi bánh: từ bi và trí tuệ. Tháo hai cái bánh đó ra, cỗ xe
Chánh pháp sẽ không còn có thể chạy được nữa!
Trần Đại Linh
|