.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007

 

Thành quả hay tai họa

  • PSN - 1.05.2008


GS. Võ Văn Ái


HT. Chánh Lạc


TT. Viên Lý


TT. Giác Đẳng

4 Chức sắc chủ chốt của Văn Phòng II VHĐ (mới).

Vào giữa và cuối tháng 9 năm 2007, Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (PTTPGQT) tại Paris đã công bố Giáo Chỉ số 9 (viết tắt là Giáo Chỉ) của Viện Tăng Thống (giải tán Văn Phòng II cũ để thành lập Văn Phòng II mới với thành phần nhân sự gồm 14 vị cho cả hải ngoại) và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 (viết tắt là Thông Bạch) của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN (giải tán các GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada). 

Sau khi hai văn bản này được phổ biến (chỉ phổ biến trên các trang nhà điện tử toàn cầu và qua các nhóm email mà không gửi trực tiếp bằng thư đến chư Tôn Giáo Phẩm đang hành hoạt trong các GHTNHN), đã tạo ra một cơn biến động lớn chưa từng thấy trong sinh hoạt của GHTN nói riêng và Phật Giáo Việt Nam nói chung tại hải ngoại. Do vậy, trên các cơ quan truyền thông báo chí, trang nhà điện tử toàn cầu và nhóm email, chúng ta nhận thấy có rất nhiều quyết nghị, thông cáo báo chí, tâm thư, bài viết từ nhiều thành phần khác nhau trong cộng đồng người Việt hải ngoại xoay quanh cơn biến động này.  

Những vị “khâm tuân” Giáo Chỉ và Thông Bạch thì cho rằng đây là thành quả, là sự sáng suốt của chư vị lãnh đạo GHTN, là hành động kịp thời ngăn chận những âm mưu xóa sổ, tiêu diệt, biến tướng GHTN của Cộng Sản và tay sai.  Những người bênh vực lý luận rằng nếu chư vị lãnh đạo GHTN mà không làm như vậy (giải phẫu để cắt khối u bệnh hoạn trong cơ thể của GHTN) thì GH này đã hay sẽ bị Cộng Sản và tay sai dùng mọi thủ đoạn để hoặc là tiêu diệt hoặc là đưa GHTN đi theo “quốc doanh”!   

Dù sao những lý luận trên cũng chỉ là lý thuyết. Nếu chỉ căn cứ trên lý thuyết không thôi để thẩm định giá trị đúng-sai và thành-bại của một phương thức, một đề án, một kế hoạch, một chương trình hành động, một đường hướng phục vụ thì quả là rất thiếu sót, nếu không muốn nói là không tưởng!  Hơn nữa, thông thường, khi đưa ra một chính sách hay một kế hoạch hành động thì tổ chức có trách nhiệm phải đồng thời thực hiện công tác quan sát, điều tra, nghiên cứu và phúc trình tất cả mọi thành-bại để qua đó có thể kịp thời điều chỉnh những sai sót hầu thúc đẩy công việc được tiến hành đến nơi đến chốn.  Chính vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu, quan sát, thẩm định sự kiện ngay trong thực tế áp dụng, trong sinh hoạt cụ thể giữa lòng xã hội, trong bối cảnh hoạt động của tập thể hay cộng đồng. 

Vì thế, vấn đề phải được đặt ra là sau khi Giáo Chỉ và Thông Bạch đã được công bố thì trên thực tế đã có những tác động, những phản ứng, những thành quả hoặc những hệ quả tai hại gì? 

Vậy thì việc ban hành Giáo Chỉ và Thông Bạch đã đưa đến những thành quả gì?  Trên thực tế Giáo Chỉ và Thông Bạch có mang lại thành quả hay không?  Nếu có thì đó là thành quả gì? 

Những vị “khâm tuân” cho rằng nhờ Giáo Chỉ và Thông Bạch ra đời mà đã giữ được GHTN không bị tiêu diệt, không bị đem giao cho “quốc doanh”.  Nếu như vậy thì xét trên mặt hiện thực xã hội thời gian từ năm 1975 đến trước khi có Đại Hội Bất Thường tại Tu Viện Nguyên Thiều vào tháng 10 năm 2003, GHTN thật sự đã đứng trước tình hình nguy hiểm nhất đến sự sinh tồn, bởi vì chính sách tàn bạo của bạo lực chuyên chính và bởi vì nhân sự của GH rất ít, chỉ có nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ cùng một vài vị Tôn túc khác.  Trong tình cảnh hiểm nguy khốn khó nhất đó mà GHTN còn tồn tại được thì hiện nay đã có 40 vị Giáo Phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện, 20 Ban Đại Diện GHTN tại các tỉnh (theo hồ sơ của PTTPGQT), sao GHTN lại bị tiêu diệt hay bị quốc doanh hóa? Xét về tình hình của các GHTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada, chúng ta thấy suốt gần hai thập niên qua, các GHTNHN này đã một lòng một dạ sống chết và hy sinh cho sự tồn tại và phục hoạt GHTN trong nước.  Cho đến nay, thực tế vẫn không có vấn đề các GHTNHN này thay đổi lập trường, có ý đồ tiêu diệt hay đưa GHTN vào tròng “quốc doanh”.  

Để làm rõ hơn sự thật ở trên, người viết xin được đề cập đến hai vấn đề mà những người “khâm tuân” thường viện dẫn để biện minh cho việc ban hành Giáo Chỉ và Thông Bạch và để buộc tội chư tôn đức Tăng, Ni trong các GHTNHN khác. Đó là vấn đề liên quan đến Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và liên quan đến việc chư tôn đức Tăng, Ni ở hải ngoại trong Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại và Ngày Về Nguồn.

Trước hết, xin nói về vấn đề liên quan đến Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ.  Những vị nhân danh “khâm tuân” viện dẫn đủ thứ lý do và đưa ra vô số lời buộc tội đối với Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ.  Người viết bài này từ trước cũng như trong suốt mấy tháng nay đã từng tiếp cận, tìm hiểu về Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ qua kinh sách mà Thượng Tọa đã sáng tác, qua phong cách hành hoạt của Thượng Tọa, qua chư tôn đức Tăng, Ni và nhiều cư sĩ Phật tử trong và ngoài nước.  Nhưng người viết cũng xin thưa ngay ra đây rằng những điều được viết trong bài viết này không đại diện, không nói thay cho bất cứ một vị nào khác ngoài sự hiểu biết của chính người viết. 

Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ từ suốt trên 8 tháng qua đã im lặng trước biến cố Giáo Chỉ-Thông Bạch và tiếp tục công việc nghiên cứu, dịch thuật và sáng tác.  Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã được nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ mời vào làm Tổng Thư Ký VHĐ vào năm 1999 và được chính thức công bố trong Đại Hội Khoáng Đại kỳ 8 của GHPGVNTN tổ chức tại Phật Học Viện Quốc Tế, thành phố North Hills, bang California, Hoa Kỳ.  Sau một thời gian làm việc trong Viện Hòa Đạo với vai trò Tổng Thư Ký, Thượng Tọa đã đối diện với các khó khăn phát xuất từ bên trong nội bộ GH qua phương thức làm việc.  Tất nhiên đối với chính quyền Cộng Sản thì GH không những chỉ gặp khó khăn mà còn bị bức hại nghiêm trọng hơn nữa. 

Khó khăn trong nội bộ GH chính là phương thức làm việc tùy tiện của PTTPGQT.  Thượng Tọa là Tổng Thư Ký của Viện Hóa Đạo mà có nhiều quyết định, nhiều văn kiện của VHĐ Thượng Tọa không hề được biết hay được tham khảo, trong khi PTTPGQT đã phổ biến ở nước ngoài.  Khi gặp phải các trường hợp nêu trên, Thượng Tọa đã có viết thư trình bày với cư sĩ Võ Văn Ái.  Nhưng cư sĩ Võ Văn Ái không những không thay đổi phương thức làm việc lại còn tỏ vẻ sân si và tiếp tục cách mà ông đã làm.  Vì không thể chấp nhận một vai trò có tính cách bù nhìn cho nên Thượng Tọa đã viết thư trình lên Hòa Thượng Viện Trưởng xin nghỉ việc vào năm 2000.  Hòa Thượng Viện Trưởng nhận được thư từ chức của Thượng Tọa nhưng đã không có quyết định chấp thuận hay không, nghĩa là xem như không có gì xảy ra.  Chính vì vậy, trong Đại Hội Bất Thường vào tháng 10 năm 2003 tại Tu Viện Nguyên Thiều, Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã được mời đảm nhận vai trò Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo.  Sự kiện Thượng Tọa đã được mời làm Phó Viện Trưởng trong Đại Hội Bất Thường năm 2003 cho thấy rõ rằng nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo tối cao của GH vẫn tin cẩn Thượng Tọa và cũng cho thấy rằng lá thư từ chức mà Thượng Tọa đã đệ trình lên Hòa Thượng Viện Trưởng vào năm 2000 đã không còn có hiệu lực.  Cho đến khi Giáo Chỉ số 2 ban hành và do PTTPGQT công bố tại hải ngoại vào cuối năm 2005, mà Thượng Tọa cũng như một số quý Thượng Tọa trong VHĐ trong nước vẫn chưa biết mình đã không còn là thành viên trong Hội Đồng Viện Hóa Đạo.  Vậy mà, trong cơn biến động của Giáo Chỉ và Thông Bạch, những người “khâm tuân” đã không ngừng đổ tội lên Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ cho rằng là vì có đơn xin từ chức của Thượng Tọa nên Viện Hóa Đại chỉ theo đó mà cho thôi việc! 

Về vấn đề công nhận Ban Hướng Dẫn GĐPT Trên Thế Giới: BHD/GĐPT Trên Thế Giới sau khi thành lập tại Ấn Độ vào năm 2004 đã đệ trình văn thư xin VHĐ chuẩn y. Tuy nhiên, lúc đó Hòa Thượng Viện Trưởng vì đang bị bệnh và nhập thất cho nên đã truyền dạy là giao cho Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và chư vị Giáo Phẩm trong Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo giải quyết sự việc trên.  Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ vì thừa hành lời dạy của Hòa Thượng Viện Trưởng nên đã triệu tập cuộc họp và tham khảo ý kiến của chư vị Giáo Phẩm trong Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo để lấy quyết định công nhận BHD/GĐPT Trên Thế Giới.  Cũng cần nhắc lại ở đây là trong thời gian tiến hành Đại hội thành lập BHD/GĐPT Trên Thế Giới tại Ấn Độ, Thượng Tọa Thích Như Điển, Thượng Tọa Thích Viên Lý, Thượng Tọa Thích Nguyên Siêu đã quang lâm chứng minh.  Nhiều chư tôn đức Giáo Phẩm trong Văn Phòng II VHĐ và GHTNHN/HK đã hoan hỷ hỗ trợ về mặt tinh thần lẫn vật chất, trong đó có Hòa Thượng Thích Chánh Lạc, Hòa Thượng Thích Huyền Việt.  Cư sĩ Võ Văn Ái đã sốt sắng phổ biến tin tức và khích lệ công tác Phật sự này ngay từ đầu.  Vậy mà sau này chính cư sĩ Võ Văn Ái đã ra Thông Cáo Báo Chí phủ nhận tư cách của BHD/GĐPT Trên Thế Giới và khi biến động Giáo Chỉ và Thông Bạch xảy ra, những người “khâm tuân” đã đổ tội ngược lại cho Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ là âm mưu, là qua mặt Hòa Thượng Viện Trưởng. 

Cho đến nay, Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã làm gì để bị kết tội là phá hoại, là bán đứng GHTN cho Cộng Sản?  Bằng chứng ở đâu?  Không thấy ai đó đưa ra bằng chứng cụ thể, chỉ thấy một luận điệu ấu trĩ là xuyên tạc, vu khống, chụp mũ và buộc tội vô căn cứ. 

Vấn đề ở đây không phải là Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ đã đi ngược lại hay phản bội lập trường, phương thức và đường hướng hoạt động của GHTN, mà chính là vì Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ không chấp nhận sự thao túng và lạm dụng chức năng của cư sĩ Võ Văn Ái.  Vì vậy cư sĩ Võ Văn Ái từ sự bất mãn đi đến chống đối, thù nghịch, tung tin thất thiệt và vu hãm đối với cá nhân Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ.  PTTPGQT hay Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo chỉ có vai trò và trách nhiệm thừa hành và phổ biến các quyết định, các văn kiện của GHTN, chứ không thể là nơi tạo ra các quyết định hay các văn kiện quan trọng của GHTN một cách tùy tiện.  Cái tâm chất vị ngã và tư thù này của cư sĩ Võ Văn Ái, cấu kết với Hòa Thượng Thích Chánh Lạc để thao túng và mưu cầu địa vị trong GH, đã được chứng thực rất rõ bằng việc loại trừ Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và nhiều vị Thượng Tọa trong Hội Đồng VHĐ qua Giáo Chỉ số 2 vào cuối năm 2005; bằng việc xem GHTNHN tại Canada như tổ chức thù nghịch vì GH này đã vạch trần âm mưu thao túng của cư sĩ Võ Văn Ái trong Thư Thỉnh Nguyện đệ trình VHĐ sau khi Giáo Chỉ số 2 ban hành; bằng việc đánh phá và loại trừ tất cả chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ không đồng thuận với sự thao túng của cư sĩ Võ Văn Ái trong các GHTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada qua Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9; bằng việc đánh phá và loại trừ chư tôn đức Giáo Phẩm của GHTNHN Úc Châu qua Quyết định chuẩn y thành phần nhân sự vì Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Thượng Tọa Thích Quảng Ba, Thượng Tọa Thích Nhật Tân, Thượng Tọa Thích Tâm Phương, Đại Đức Thích Nguyên Tạng chống đối sự thao túng của cư sĩ Võ Văn Ái đối với nội bộ GHTNHN tại Úc Châu; bằng việc đánh phá và giải tán toàn BHD/TƯ/GĐPTVN tại Hoa Kỳ qua Quyết định vào ngày 10 tháng 2 năm 2008 vì các Huynh trưởng đã chống đối việc cư sĩ Võ Văn Ái đưa Huynh Trưởng Lê Công Cầu làm Vụ Trưởng GĐPT Vụ và dùng Huynh trưởng Trần Đình Minh làm con rối để đánh phá GĐPTVN/HK.

Nay xin nói về vấn đề liên quan đến chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử tại hải ngoại trong Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Ngày Về Nguồn, Vận động thành lập Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.  Trong Hiến Chương của GHTN cũng như trong các Quy Chế và Nội Quy của các GHTNHN tại hải ngoại không có chỗ nào cấm chế không cho chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử thành viên của GH thành lập các Hội Thân Hữu, các Hội từ thiện xã hội, các tập thể Tăng Già để góp phần hoằng dương Chánh pháp, cứu khổ quần sinh.  Việc chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử thành viên của GHTN tham gia sinh hoạt trong một vài tổ chức tập thể Phật Giáo, vốn không liên can đến GHPGVN trong nước hay các tổ chức chính trị thế gian, là việc bình thường, hợp tình hợp lý với truyền thống Chánh pháp và Giới luật đạo Phật.  GHTNHN/HK hay VPII/VHĐ không phải là cơ quan quyền lực thống lãnh toàn diện hết tất cả các tổ chức Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại thì có thẩm quyền gì để bắt các tổ chức Phật Giáo này phải xin phép, phải được sự chuẩn thuận của VPII/VHĐ cho mọi Phật sự?  Tại hải ngoại có nhiều tổ chức GHPG từ trước đến nay không là thành viên của GHTN, như vậy tất cả các tổ chức GHPG này đều là Cộng Sản hết hay sao? 

Vấn đề là chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử trong các tập thể đó đã làm điều gì tổn hại đến GHTN, đến Phật Giáo Việt Nam, đến Tăng, Ni?  Hay đó chỉ là những xuyên tạc, vu khống, chụp mũ, buộc tội đầy ác ý và không căn cứ?  Sự thật đã hiển lộ ra một cách minh bạch qua tất cả những văn thư, tâm thư, tâm nguyện, quyết nghị, thông báo, tường thuật, bài viết trong sáng của tất cả chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử trong các tập thể như Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Hải Ngoại, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Ngày Về Nguồn, Ban Vận Động Thành Lập Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và các Ban Hướng Dẫn GĐPTVN từ Trung Ương đến các Miền.  Tất cả những văn bản này hiện vẫn còn đăng tải và lưu giữ trên nhiều trang nhà điện tử toàn cầu như www.phapvan.ca , www.phusa.info , www.haitrieuam.com , www.trungdao.net, www.giadinhaolam.com , www.vuonlam.us, v.v....  

Những vị “khâm tuân” nghĩ sao về các trường hợp sau đây:  Việc Hòa Thượng Thích Hộ Giác có mối liên hệ rất chặt chẽ với Giáo phái Phât Giáo Nguyên Thủy trong nước từ bấy lâu nay; việc Hòa Thượng Thích Hộ Giác, Hòa Thượng Thích Chơn Trí, Hòa Thượng Thích Huyền Việt, Thượng Tọa Thích Giác Đẳng, Thượng Tọa Thích Trí Tịnh là thành viên của Giáo Hội Nguyên Thủy tại Hoa Kỳ; việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc có cơ sở xuất bản Phú Lâu Na chuyên in sách của Hòa Thượng Thích Trí Quang để bán lấy tiền riêng; việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc đem tiền của nhiều như núi để tài trợ cho các tờ báo chuyên đánh phá chư tôn đức Tăng, Ni như Khai Thác Thị Trường, Đối Lập, Góp Gió, Tinparis, v.v...; việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc cấu kết với CLCG tại Florida để đánh phá chư Tăng, Ni; việc Thượng Tọa Thích Viên Lý thành lập Trung Tâm Chân Nguyên và Viện Triết Lý VN và Triết Học Thế Giới; việc Thượng Tọa Thích Viên Lý và Thượng Tọa Thích Giác Đẳng là thành viên Hội Đồng Giảng Huấn của Học Viện Phật Giáo Hòa Hảo; việc cư sĩ Võ Văn Ái là Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Quốc Tế Nhân Quyền, Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Quyền Làm Người Việt Nam, nhận tiền của cơ quan NED; tất cả những việc trên có phải đều là chống lại GHTN? 

Trên đây là một số sự kiện được đưa ra để qua đó nhìn thấy rõ hơn về luận cứ mà những vị “khâm tuân” viện dẫn để chứng minh cho thành quả của Giáo Chỉ và Thông Bạch.  Những luận cứ ấy vừa mang tính chủ quan với cái nhìn một chiều và lập trường cá nhân cục bộ, vừa không biện minh được thực tế tan nát của đại khối Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại do Giáo Chỉ và Thông Bạch tạo ra. 

 Trong suốt trên 8 tháng qua, kể từ sau khi Giáo Chỉ và Thông Bạch ra đời, tại hải ngoại trong giới Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, đâu đâu cũng nghe than vãn về biến cố này!  Điều đau lòng là sự ban hành của Giáo Chỉ và Thông Bạch dưới chữ ký của những vị trưởng lão tôn túc lãnh đạo một Giáo Hội có truyền thống uy tín lớn lao của cả nước, nhưng Tăng, Ni và Phật tử thay vì hoan hỷ hòa hợp thì lại đau buốt tim gan và phân hóa tê liệt!  Thực tế bi thương này nói lên một điều không thể chối cãi được rằng Giáo Chỉ và Thông Bạch vốn không đáp ứng được nguyện vọng của Tăng, Ni và Phật tử hải ngoại, đồng thời cũng không là phương thức thích đáng với hiện tình của GHTN và Phật Giáo Việt Nam.  Nỗi đau buồn rồi cũng sẽ phai nhạt theo thời gian, nhưng cái còn lại lâu dài chính là những hậu quả tai hại mà Giáo Chỉ và Thông Bạch gây ra.  Những hậu quả tai hại đó là gì?  Nay xin đưa ra một số tiêu biểu cụ thể, như sau:

1.  Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN cho nên đã bất chấp mọi thủ thuật cơ tâm giải thích sai lạc Chánh pháp của Đức Phật theo tư kiến và tư dục của mình.  Điển hình là trường hợp Hòa Thượng Thích Chánh Lạc, ông Võ Văn Ái, ông Ngô Trọng Anh, ông Bảo Quốc Kiếm đã dám cho rằng:  “Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam là Tập đế trong Tứ Đế”; “giáo nghĩa tương quan tương duyên của duyên khởi đã giết hại bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam”; hành trạng của chư vị tôn túc như Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, Hòa Thượng Thích Trí Quang, v.v... là “bùng nổ”, là “bình phong”; kết án chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử là làm “biến tướng Bát Chánh Đạo”; v.v…  Đó đều là những quan điểm sai lầm và nguy hại đối với Chánh Pháp của Đức Phật.  Chính những xuyên tạc Chánh Pháp đó đã góp phần không nhỏ làm giao động tín tâm của quần chúng Phật tử bốn phương, tạo duyên cớ để cho những kẻ chưa một ngày biết tu học trong giáp pháp giác ngộ và giải thoát của Đức Phật được dịp thốt lời thị phi đối với Chánh Pháp, bất chấp mọi hậu quả tai hại không lường cho sự tồn tại của giáo pháp Phật Đà!

2.  Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN cho nên đã đem quan điểm chánh trị thế gian để do lường và thẩm định tư cách và phẩm hạnh của chư vị xuất gia.  Theo chủ trương của họ, hễ vị xuất gia nào không theo GHTN, không lên tiếng chống Cộng, không tấn công chư tôn đức Tăng, Ni đang hành đạo trong GHPGVN thì đều là thành phần xấu, biến tướng, không xứng ở trong hàng ngũ xuất gia, trưởng tử của Như Lai!  Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm và nguy hại cho sự tồn tại của Phật Pháp.  Bởi vì từ khi Đức Phật còn tại thế đến nay, hàng ngũ của chư vị xuất gia lấy việc nghiêm trì giới luật, lấy bản thể thanh tịnh hòa hợp, lấy đạo lực thân chứng Chánh Pháp làm chuẩn mực, làm kim chỉ nam, làm nền tảng cho mọi hành hoạt và mục đích cứu cánh.  Phật Giáo không thể nào lấy quan điểm và lập trường chánh trị thế tục để thẩm định tư cách và phẩm hạnh của chư vị xuất gia.  Chư vị xuất gia tùy theo thệ nguyện và phương thức tu tập mà có thể chọn con đường hành đạo của mình hoặc là phát nguyện tham gia trong các tổ chức Phật Giáo để góp phần xiển dương Chánh Pháp, giải khổ quần sinh, hoặc là tự mình chọn cho mình phương thức hành đạo đặc thù để truyền bá Chánh Pháp, tiếp độ tha nhân, hoặc là phát nguyện nhập thất chuyên tu để thành tựu mục tiêu tối thượng rồi sau đó mới đi vào đời mà cứu khổ độ mê.  Nhưng tất cả chư vị xuất gia đều lấy việc thực nghiệm Chánh Pháp, nghiêm trì giới luật, thanh tịnh hòa hợp, giữ vững chí nguyện xuất trần làm tiêu chí.  Chính vì thái độ cục bộ và phi Chánh Pháp của những vị “khâm tuân” đó mà đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn như ngày nay.  Trong đó dựa trên quan điểm chính trị thế gian, bằng những lời lẽ thô tục, chứa đầy ác tâm, những người tự xưng là giòng họ Thích (Thích Tỉnh Thức, Thích Chánh Hạnh, Thích Không Tánh, Thích Chánh Lạc, Thích Như Tấn), là Phật tử (Ngô Trọng Anh, Bảo Quốc Kiếm, Nguyễn Khắc Anh Tâm, Chúc Thuật, Võ Văn Sáu, Võ Văn Ái, Việt Hải, Tri An, Phạm Hoài Việt), và ngay cả những kẻ ngoại đạo (Tú Gàn Nguyễn Cần, Nguyễn Bá Long, Nguyễn Văn Lục, Âu Dương Thệ) cũng lớn tiếng phỉ báng, vu khống, chụp mũ, mạ lị và buộc tội chư tôn đức Tăng Ni, chỉ vì chư vị này đã không “khâm tuân”, không tham gia đầu phục GHTN, đã không chống Cộng theo kiểu mà những vị “khâm tuân” này đặt ra! 

3.  Những vị theo chủ trương “khâm tuân” vì để đạt được mục đích trả thù cá nhân, tham vọng riêng tư và thao túng GHTN đã không ngần ngại kích động, cổ vũ lòng thù hận nhắm vào chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử không tùng phục chủ trương của họ.  Khi vu khống, chụp mũ chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử là “thân Cộng, là hòa hợp hòa giải với Cộng Sản, là bán đứng GHTN cho Cộng Sản”, những vị theo chủ trương “khâm tuân” đã lợi dụng lòng thù hận đối với chế độ Cộng Sản Việt Nam của tập thể người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại hải ngoại để trút hết bao nhiêu oan khiên và sự trả thù lên chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử không “khâm tuân”!  Đó là hành vi không những sai Chánh pháp mà còn chứa đầy ác tâm.  Những vị chủ trương “khâm tuân” vì để đạt mục đích kích động thù hận, nên đã không hề nhắc đến tinh thần từ bi bao dung và vị tha của Phật Giáo, trong khi chính lòng từ bi bao dung và vị tha mới là yếu tính của Đạo Phật, làm cho Đạo Phật được tồn tại và phát triển sâu rộng qua suốt quá trình lịch sử trên hai mươi lăm thế kỷ nay.  Đánh mất lòng từ bi, bao dung và vị tha, Đạo Phật không còn là Đạo Phật chân chính nữa. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc ngày nay tôn vinh Đức Phật, lấy Ngày Vesak làm ngày văn hóa và tôn giáo thế giới, nguyên do chính là vì tinh thần từ bi, trí tuệ, bao dung và hòa bình của Phật Giáo đã, đang và sẽ góp phần hữu hiệu để chuyển hóa phần nào tình trạng bất an, hận thù và khổ đau của nhân loại trên hành tinh này.

Trong chủ trương kích động lòng thù hận, những vị “khâm tuân” đã định danh một cách sai lầm và tai hại rằng những ngôi Chùa của chư tôn đức Tăng, Ni nào không theo chủ trương “khâm tuân” của họ là những “pháo đài”.  Chùa là ngôi Tam Bảo, là chốn đạo tràng để cho chư Tăng, Ni và quần chúng Phật tử tu học và hoằng dương Chánh pháp giác ngộ và giải thoát của Đức Phật.  Vậy mà họ cố tình gọi đó là “pháo đài”!  Quả thật những vị “khâm tuân” đã không còn biết đến Tam Bảo là gì, không còn nghĩ đến sứ mệnh thiêng liêng cao cả “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh” là thế nào. 

4.  Giáo Chỉ số 9 ra lệnh giải tán Văn Phòng II cũ để thành lập Văn Phòng II mới với 14 vị cho toàn hải ngoại, trong đó tại Hoa Kỳ có 11 vị, Âu Châu, Úc Châu và Canada mỗi nơi một vị.  Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 ra lệnh giải tán toàn bộ các GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu và Canada.  Hai sự kiện này đã dẫn đến tình trạng chia rẽ và phân hóa trầm trọng trong nội bộ của các GHPGVNTN tại hải ngoại, khiến cho GHTN ở Hoa Kỳ đã rơi vào tình trạng có hai Đại Hội Bất Thường và thành phần thiểu số đã bất chấp đến tâm nguyện của quá bán thành viên khác tiếp tục sử dụng danh xưng GHPGVNHN/HK; GHTN Úc Châu, sau khi Hòa Thượng Thích Như Huệ, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thượng Tọa Thích Tâm Minh đệ trình văn thư xin từ chức vì không thể chấp nhận quyết định của VHĐ đối với thành phần nhân sự, thì rơi vào sự phân rã hầu như không thể sinh hoạt được; GHTN Canada lâu nay là một tập thể thanh tịnh hòa hợp bây giờ cũng bị sứt mẻ vì Thượng Tọa Thích Thiện Tâm đi theo chủ trương của những vị “khâm tuân” tách ra khỏi tập thể Tăng Già Canada; GHTN Âu Châu mặc dù vẫn giữ được tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tập thể Tăng Già, nhưng bản thân của Hòa Thượng Thích Trí Minh thì phải chọn con đường im lặng! GĐPTVN là một tổ chức giáo dục tuổi trẻ đã có mặt từ trong nước gần bảy thập niên và ở hải ngoại trên ba  mươi năm.  Từ trước đến nay các huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT vẫn một lòng phục vụ cho GHTN, vẫn trung thành với đường lối và lập trường của GHTN.  Vậy mà chỉ vì lý do “khâm tuân”, chỉ vì bảo vệ một vài cá nhân huynh trưởng bị bãi nhiệm vì vi phạm điều lệ, GHTNHN/HK đã ra Quyết định giải tán toàn BHD/TƯ/GĐPTVNHK.  Làm như thế tức là nhẫn tâm loại bỏ tuổi trẻ Phật tử Việt Nam! Như vậy, mối liên hệ tinh thần giữa các GHTN ở hải ngoại đối với GHTN trong nước từ mấy chục năm nay, qua Giáo Chỉ và Thông Bạch đã trở nên mờ nhạt, mặc dù tất cả các GHTN tại hải ngoại vẫn không thay đổi lập trường đối với công cuộc vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và phục hoạt GHTN trong nước!  Sự phân hóa và hoang mang không những chỉ xảy ra trong nội bộ của GHTN mà còn lan rộng ra trong cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại.  Qua đó, mối liên hệ pháp hữu giữa chư Tăng, Ni với nhau, mối liên hệ đạo hữu giữa các Phật tử với nhau, cũng vì vậy mà bị ảnh hưởng tai hại.  Thêm vào đó là những thành phần thế gian và ngoại giáo lợi dụng tình hình bất ổn trong Phật Giáo để gia tăng sự đánh phá! 

5.  Những vị chủ trương “khâm tuân”, khi không còn được sự hậu thuẫn rộng rãi và hùng hậu của nội bộ Phật Giáo, đã phải tìm đến các tổ chức, đoàn thể và đảng phái chính trị bên ngoài để tìm thế đứng, tìm lực lượng ủng hộ.  Do đó đã dẫn đến tình trạng lên tiếng can thiệp vào chuyện nội bộ của GHTN, của Phật Giáo từ các thế lực thế gian này.  Trong khi trên thực tế các tổ chức, đoàn thể và đảng phái chính trị ngoài thế gian không hề biết nội dung giáo lý và phương thức hành đạo của Phật Giáo thế nào, cũng không hề nắm vững tình hình sinh hoạt của Phật Giáo ra sao! 

Trường hợp điển hình là việc Hòa Thượng Thích Chánh Lạc và Thượng Tọa Thích Thiện Tâm đã cấu kết với ông Nguyễn Bá Long, Phát ngôn nhân của Hiến chương 2000, ở Canada, trong vấn đề gọi là “chấm giải và phát giải thưởng” cho hai văn bản Giáo Chỉ và Thông Bạch của GHTN.  Ông Nguyễn Bá Long làm sao có đủ tư cách và thẩm quyền để chấm điểm cho một Giáo Chỉ của Viện Tăng Thống và Thông Bạch của Viện Hóa Đạo?  Giáo chỉ của VTT và Thông Bạch của VHĐ là hai văn bản mang tính pháp lý tối cao được ban hành từ hai Hội Đồng lãnh đạo tối cao của GHTN, một GH có thẩm quyền đại diện cho Tăng, Ni và Phật tử cả nước.  Làm sao với hai văn bản trọng đại như vậy mà ông Nguyễn Bá Long dám chấm điểm, dám quyết định! Như vậy ông Nguyễn Bá Long là ai?  Có phải làm vậy tức là thừa nhận vai trò tối cao của ông Nguyễn Bá Long đối với Hội Đồng Lưỡng Viện GHTN? Trong khi thực chất, ông Nguyễn Bá Long chỉ là người làm chính trị hoạt đầu lợi dụng uy tín của GHTN để đánh bóng cái danh hư huyễn của ông mà thôi!  Hai vị Hòa Thượng Thích Chánh Lạc và Thích Thiện Tâm sao có thể cúc cung thân hành đến đó để cho ông Nguyễn Bá Long đứng ở trên mà ban phát ân huệ xuống như vậy?  Hai vị Hòa Thượng đó không thấy là mình đang bán uy danh của GHTN bằng cái giá rẻ mạt ba ngàn đồng hay sao? 

Có người nói, đối với kẻ ác chúng ta không thể xử sự theo cách khoan dung độ lượng, vì làm như vậy chúng ta sẽ bị kẻ ác tiêu diệt.  Đó là quan điểm bình thường trên thế gian này, giống như cách nói theo tục ngữ “ăn miếng trả miếng.”  Đó là quan điểm xây dựng trên nền tảng  hữu ngã của thế giới nhị nguyên, phân biệt rõ ràng nhân-ngã bỉ-thử. Từ tâm thức và hành tác đó mà chúng sinh tạo nghiệp nhân và thọ nghiệp quả.  Trong vòng nhân quả nghiệp lực ấy mà chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi, không biết khởi điểm từ đâu và kết thúc lúc nào! 

Đức Phật liễu ngộ thật minh bạch căn nguyên, hành tướng và hệ quả của những yếu tố ấy đối với sự hiện hữu của chúng sinh cho nên, Ngài đã thành tựu đạo quả giác ngộ và giải thoát.  Từ kinh nghiệm thực chứng tự thân, Đức Phật hướng dẫn con người thành đạt mục tiêu tối thượng của đời người là giải thoát khổ đau.  Đạo Phật vì vậy, là con thuyền đi ngược dòng: đi ngược dòng thế sự vô minh và khổ não, đi ngược dòng vượt thoát khỏi phiền não tham, sân, si, đi ngược dòng từ bờ bên này (thử ngạn) sang bờ bên kia (bỉ ngạn).  Đạo Phật vì vậy, không đi theo con đường thế gian đi.  Đạo Phật không lấy oán để báo oán, không lấy bạo lực để đối đầu với bạo lực, không lấy bản ngã để chống lại bản ngã.  Đạo Phật lấy từ bi để cảm hóa chúng sinh, lấy trí tuệ để chuyển hóa vô minh và phiền não!  Tất nhiên điều ấy không phải dễ làm.  Nhưng nếu làm không được thì đó không phải là tại vì Đạo Phật nói sai, mà vì diệu lực của từ bi và trí tuệ của người làm chưa đầy đủ.  Bởi lẽ, trên hai ngàn rưỡi năm nay, đã có biết bao người có đủ diệu lực của từ bi và trí tuệ để cảm hóa nhân sinh và chuyển hóa vô minh phiền não! 

Cỗ xe Chánh Pháp còn được chuyển vận trên thế gian lâu dài để làm lợi lạc cho nhân quần xã hội chính là nhờ vào diệu lực của đôi bánh:  từ bi và trí tuệ.  Tháo hai cái bánh đó ra, cỗ xe Chánh pháp sẽ không còn có thể chạy được nữa!


Trần Đại Linh

 

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.