Trong
dòng vận hành của lịch sử đất nước, Phật Giáo Việt
Nam
đã có mặt trên hai ngàn năm. Trong sự tồn sinh của cộng đồng dân
tộc, Phật Giáo Việt Nam là một thực thể xã hội bất khả phân. Suốt
từ khi có mặt đến nay, Phật Giáo Việt Nam đã cùng với đất nước, với
dân tộc trải qua biết bao thăng trầm, vinh nhục! Cùng với dân tộc,
Phật Giáo Việt Nam đã chứng kiến bao nhiêu biến thiên của thời cuộc,
bao nhiêu hưng vong của triều đại và thể chế chính trị! Với chính
mình, Phật Giáo Việt
Nam
cũng đã kinh qua nhiều thích ứng trong sắc diện của cơ cấu tổ chức
hoạt động. Nhưng, điều khá lý thú và kỳ diệu là, cho đến nay, sau
hơn hai ngàn năm, Phật Giáo Việt Nam vẫn còn đứng vững trong lòng
dân tộc, trong khi một số đạo giáo và các chế độ chính trị đã lần
lượt bị đào thải.
Yếu tố nào mà khiến cho Phật Giáo Việt
Nam có được bản sắc đặc thù như vậy? Ở đây, trong bài này, tôi xin
thử tìm hiểu đó là những yếu tố nào. Tất nhiên, đây không phải là
vấn đề mới mẻ gì, vì từ trước cũng đã có vị trình bày và thảo luận.
Chỉ mong rằng từ những điểm nhìn khác nhau đó, người đọc sẽ có được
một tổng quan rõ ràng hơn về Phật Giáo Việt Nam. Cái nhìn của mỗi
người có thể có khác nhau, nhưng tôi tin rằng tất cả đều nhắm về
cùng một hướng, đó là Phật Giáo Việt Nam.
I. NỘI LỰC TRÍ TUỆ:
Khi đức Thế Tôn dạy: “Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi,”
Ngài muốn khuyến tấn hàng đệ tử rằng, đi giữa thế gian vô minh tăm
tối, người con Phật phải tự nương vào chính năng lực của mình, chứ
không phải của ai khác, và năng lực ấy chính là trí tuệ. Cho nên,
người Phật tử phải tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ để soi đường mà
đi.
Trí tuệ là một trong các yếu tính của Phật Giáo, vì nội dung của
giác ngộ và giải thoát chính là trí tuệ. Không có trí tuệ sẽ không
thể liễu ngộ được bản chất của các pháp, của cuộc đời. Không liễu
ngộ được bản chất của các pháp, của cuộc đời thì không thể giải
thoát ra khỏi sự trói buộc của vô minh, phiền não và khổ đau. Vì
thế, trí tuệ khác với tri thức thường nghiệm thế gian. Tri thức
thường nghiệm xây dựng trên và hơn nữa bị chi phối bởi tâm thức hữu
ngã, vốn là sản phẩm của vô minh và các phiền não. Tri thức thường
nghiệm mặc nhiên, theo quán tính hay tập khí, thừa nhận sự thật hữu
của các pháp. Trí tuệ nhìn thấy pháp chỉ là giả danh, do duyên mà
khởi sinh, do duyên mà hoại diệt, vốn không có tự tánh, vốn là
không, do tâm phân biệt, do vọng niệm mà chúng sinh thấy là thật
có. Dưới ánh sáng quán chiếu của trí tuệ, không có chỗ cho một ý
niệm hữu ngã tồn tại, không có chỗ cho chính ý niệm về trí tuệ như
một thực hữu. Cho nên, trong Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã, Tôn Giả Tu Bồ
Đề đã nói với Thiên Đế Thích rằng: “Nếu có pháp nào cao hơn
Niết-bàn, tôi cũng nói đó như huyễn, như mộng. Huyễn, mộng và
Niết-bàn, không hai, không khác.”
Giữ ngọn đuốc trí tuệ giác ngộ ấy luôn luôn cháy sáng, cho nên Phật
Giáo Việt
Nam dù trải qua bao nhiêu biến đổi của thời cuộc, chính thể và xã
hội, vẫn không đánh mất bản tính như thật của mình. Trong những
hoàn cảnh thực tế của Phật Giáo Việt Nam, ngọn đuốc trí tuệ có công
năng đặc thù là rọi sáng vào ba mục tiêu để cho Tăng, Ni và Phật tử
Việt Nam nhắm đích mà đi tới. Ba mục tiêu đó là: Thứ nhất, thành
tựu mục đích thực chứng giác ngộ và giải thoát. Thứ hai, vượt thoát
được những trói buộc, cố chấp, hệ phược trong thế gian đầy dẫy vô
minh, phiền não và chướng nạn. Thứ ba, mở rộng tầm nhìn bao quát
trên mọi lĩnh vực để hoạch định đúng hướng đi trước mắt và tương lai
cho Phật Giáo Việt Nam.
Thực chứng giác ngộ và giải thoát vừa là nội dung tinh yếu xác định
nội lực kiên cố mà qua đó Phật Giáo tồn tại, vừa là lý tưởng cao cả
như là tiêu đích tối hậu mà tất cả mọi người con Phật đều nhắm đến.
Thiếu vắng thực chứng giác ngộ và giải thoát, Phật Giáo chỉ còn là
cái vỏ hình thức bề ngoài, chỉ còn cái danh không có cái thực. Vì
thế, dù sống trong bất cứ hoàn cảnh và thời đại nào, Tăng, Ni và
Phật tử Việt Nam vẫn luôn luôn nỗ lực thực nghiệm giới-định-tuệ để
thành tựu mục đích giác ngộ và giải thoát cho mình và tha nhân. Bởi
vậy, thời nào có những vị cao Tăng thạc đức mà nội lực thực chứng
siêu quần thì thời ấy Phật Giáo được phổ truyền và phát triển hưng
thịnh. Do vậy, ngày nay chúng ta thấy trong lịch sử hai ngàn năm
Phật Giáo Việt Nam những bậc đống lương thạch trụ như ngài Pháp
Hiền, Cảm Thành, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thảo Đường, đệ
nhất tổ thiền phái Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa, Huyền
Quang, Hương Hải, Chân Nguyên, Liễu Quán, Toàn Nhật, Vĩnh Nghiêm, Tố
Liên, Khánh Hòa, Khánh Anh, Quảng Đức, v.v… Trước khi thị tịch,
Thiền sư Ngộ Ấn, thời nhà Lý, đã nói bài kệ rằng:
“Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.”
Trong bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, tập III, Sử gia Lê Mạnh Thát dịch bài kệ trên như sau:
“Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu
Rỗng không tâm ngộ có gì đâu
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
Sen nở trong lò ướt chửa khô.”
Có thực chứng trí tuệ giác ngộ và giải thoát mới nhìn thấu suốt đuợc
bản thất không thật của các pháp, của cuộc đời để có thể ung dung tự
tại mà làm Phật sự giữa thế gian mà không bị trói buộc, phiền lụy.
Đó chính là phong thái siêu việt, đứng trên tất cả mọi vướng mắc của
định kiến, biên kiến, chủ nghĩa, ý thức hệ của cuộc đời, của thế
sự. Dù xả thân đóng góp vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát
triển đất nước cuối cùng vẫn không để bản thân mình bị hệ lụy trong
vòng danh tướng phàm phu. Hình ảnh của một Tuệ Trung Thượng Sĩ lúc
nước nhà nguy biến thì cầm gươm ra trận bảo vệ non sông, lúc thời
thế thái bình thịnh trị thì trở về thiền môn cửa Phật thực nghiệm
chánh pháp để tự độ và độ tha, là một hình ảnh sống động phi thường
biểu hiện tinh thần tự tại giải thoát. Quốc sư Vạn Hạnh, trong bài
kệ thị chúng cũng đã dạy cho chúng ta thấy nội lực thực chứng trí
tuệ giác ngộ và giải thoát chính là sức mạnh vượt thoát lên mọi hệ
phược đối với cuộc đời:
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”
“Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi thu hép vàng
Theo vận thịnh suy không hãi sợ
Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương.”
(Lê Mạnh Thát dịch, Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, tập III)
Quả thật vậy, nhìn lại quá trình lịch sử Phật Giáo Việt
Nam
suốt hai ngàn năm qua, chúng ta ắt thấy rất rõ rằng chư vị tiền bối
tổ sư đều là những vị cao Tăng đắc đạo, trí tuệ siêu quần. Quý ngài
dù xả thân đóng góp rất lớn trong việc dựng nước và giữ nước vẫn
không hề bị trói buộc hay cố chấp theo danh lợi, địa vị quyền thế,
xu hướng chính trị. Quý ngài có tầm nhìn rất khoáng đạt, cởi mở,
tinh xác trước hiện thực và từ đó dẫn đạo cho hướng đi tới tương
lai. Khi đất nước còn trong tình trạng xây dựng nền độc lập tự chủ,
quốc gia chưa thành lập được hệ thống giáo dục công cộng, chư vị
tiền bối tổ sư của Phật Giáo Việt Nam đã lấy Chùa làm những trung
tâm hoằng pháp, văn hóa, giáo dục và hoạt động xã hội để góp phần
hữu hiệu trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy, nhiều
nhân tài, nhờ được hun đúc, trưởng dưỡng và giáo dục trong các ngôi
Chùa, đã ra gánh vác việc trị quốc an dân. Khi đất nước đã thật sự
được độc lập tự chủ, sinh hoạt quốc dân đã được ổn định và hòa bình,
nhà nước đã thiết lập được hệ thống giáo dục công cộng để đào tào
nhân tài, chư vị tiền bối tổ sư của Phật Giáo Việt Nam đã nỗ lực
không ngừng trong công tác hoằng pháp lợi sanh vừa khai mở dân trí,
vừa phát khởi tín tâm nơi Phật Pháp, vừa xây dựng vững chắc nền tảng
đạo đức, luân lý, và trật tự xã hội. Hình ảnh của Điều Ngự Giác
Hoàng Trần Nhân Tông, đệ nhất tổ Thiền phái Trúc Lâm, đi du hóa khắp
nơi trong dân gian để thuyết pháp không những đã làm sáng lên sứ
mệnh hoằng dương Chánh pháp của một “sứ giả Như Lai”, mà còn nêu cao
tầm nhìn khoáng đạt xa và rộng của ngài đối với cơ đồ của Phật Giáo
Việt Nam. Ngày xưa, Vua Lương Võ Đế ở Trung Quốc, đã từng tâm niệm
rằng, nếu trong đất nước của ông mà người dân nào cũng đều quy y Tam
Bảo, giữ gìn Ngũ Giới và thực hành Thập Thiện của nhà Phật, thì ông
không cần phải dùng đến luật pháp và hình phạt để trị dân nữa. Với
nội hàm là trí tuệ giác ngộ, Phật Giáo Việt Nam đã chứng tỏ được
phong thái cởi mở, bao dung, đã thể hiện được tinh thần vô chấp,
khoáng đạt và tầm nhìn sâu rộng đối với mọi vấn đề. Chính vì vậy,
Phật Giáo Việt Nam đã không đặt mình vào vị thế đối đầu với Nho
Giáo, Lão Giáo hay sau này khi các trào lưu văn hóa và tôn giáo Tây
phương tràn vào Việt Nam với Công Giáo La Mã và Tin Lành, v.v…
Trước sự phát triển lớn mạnh phi thường của nền văn minh khoa học kỹ
thuật, các trào lưu văn hóa và tôn giáo khác ngày càng cảm thấy bị
đẩy lùi vào quá khứ với những tín điều, giáo điều phản tri thức,
phản khoa học, thì Phật Giáo đang ngày càng được quý trọng, được phổ
cập hơn trong thế giới nhân loại hiện đại.
Với nội hàm trí tuệ, Phật Giáo Việt
Nam có đủ sức mạnh tri kiến để nhìn thấu suốt mọi hiện trạng đang
xảy ra trong bản thân mình và xã hội chung quanh. Nhìn vào tự thân
để thấy rõ là mình đang hành xử theo phương thức nào, phương thức ấy
có thù ứng với hoàn cảnh, với nhu cầu, với thực tế mà Phật Giáo Việt
Nam đang hiện hữu, đang cần và không mộng tưởng. Nhìn vào tự thân
cũng để nhận biết được rằng thân thể của mình có phải đã già cỗi, đã
suy nhược, đã mất hết sức đề kháng với hoàn cảnh thực tế và nó đang
cần phải trẻ trung hóa, đang cần phải vận động đúng cách để phục hồi
sức khỏe hầu có thể đủ sức để thích nghi theo môi trường chung
quanh. Nhìn vào tự thân cũng là cách để thấy trong đó bộ phận nào
của cơ thể đang có vấn đề, đang suy nhược, đang cần phải chăm sóc kỹ
lưỡng hơn, hoặc có thể phải điều trị đúng cách nếu bộ phận ấy đang
bị bệnh. Nhìn ra xã hội chung quanh để thấy rằng đất nước và nhân
loại đang suy nghĩ, nói và làm gì, để nhận biết thực tế và hướng đi
của xã hội chung quanh đang như thế nào, để nhận chân được đúng đắn
vị trí, vai trò và sứ mệnh nào mà mình cần thực hiện để góp phần xây
dựng và phát triển hữu hiệu cho xã hội chung quanh.
Với nội hàm trí tuệ, Phật Giáo Việt Nam không dung dưỡng sự có mặt
của thành kiến, cố chấp để trói buộc mình trong bất cứ tư thế nào dù
đó là tư thế thuần túy tôn giáo, chứ đừng nói là tư thế thuộc đảng
phái, chủ nghĩa hay ý hệ chính trị. Phật Giáo Việt
Nam đứng trên tất cả mọi định kiến, cố chấp và hệ phược. Bởi vì,
mọi định kiến, cố chấp và hệ phược đều là những chướng duyên trên
con đường phát huy trí tuệ giác ngộ. Bởi vì mọi tư thế thuộc đảng
phái, chủ nghĩa hay ý hệ chính trị đều chỉ tồn tại trong một thời
gian nhất định nào đó rồi cũng tiêu hoại theo vô thường, còn mục
đích giác ngộ và giải thoát như là nội hàm của Phật Giáo Việt Nam
thì vượt trên những hình thái hạn cục ấy.
II. ĐỨC LỚN TỪ BI:
Đức Phật vì lòng từ bi cứu khổ chúng sinh mà thị hiện ra đời. Trong
Giáo pháp của đức Thế Tôn, mọi chủng loại đều được lợi lạc bình
đẳng. Trong hàng ngũ đệ tử xuất gia cũng như tại gia của đức Phật
dung nạp tất cả mọi thành phần xã hội, không phân biệt giai cấp,
giàu nghèo, tuổi tác, thân sơ. Trọn cuộc đời của đức Phật, không hề
có bất cứ ai mà ngài xem là kẻ thù. Những vị có lòng làm tổn hại
đến ngài đều được ngài từ bi tế độ như Đề Bà Đạt Đa, Vô Não, v.v…
Cho nên, đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú, kệ số 5:
‘Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù, chỉ có từ
bi mới trừ được hận thù. Đó là định luật của ngàn xưa.” (Thích
Trí Đức dịch).
Phật Giáo Việt Nam, suốt hai ngàn năm qua là dòng vận hành lịch sử
của trí tuệ giác ngộ và đức từ bi bao la vô lượng. Đại Việt Sử Lược
ghi lại tấm lòng từ bi của Vua Lý Thánh Tông như sau:
“Ta ở trong thâm cung, sưởi lò than, lại choàng thêm áo lông
chồn, thế mà khí lạnh còn như vậy. Huống nữa là ở trong lao tù bị
cái khổ xiềng trói, việc thẳng cong chưa rõ, mà bụng lại không đủ
no, mình không đủ đắp ấm. Vạn nhất mà bị khí lạnh thổi ép thì há
không chết vì vô tội sao? Ta rất thương xót. Nay sai các chức việc
phát chiếu mền của kho vua đem ban cho họ cùng một ngày được cấp hai
bữa ăn.” (Trích theo Sử gia Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, tập III).
Vua Lý Thánh Tông thuộc giòng Thiền Thảo Đường. Nhà vua đã lấy
Chánh pháp mà trị quốc, lấy đức từ bi mà cảm hóa sinh dân.
Đến đời nhà Trần, khi Vua Trần Thái Tông bỏ ngôi vua mà lên núi Yên
Tử để tránh thế tục phiền não, Quốc sư Viên Chứng đã khuyên nhà vua
như sau:
“Phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý
muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay
thiên hạ muốn đón bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được! Duy có việc
nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng chút xao lãng mà thôi.”
(Trích theo Sử gia Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập
III).
Qua lời khuyên của Quốc sư Viên Chứng, ta thấy có ba ý chính: Một
là, để làm việc lớn, trị quốc an dân, cần phải bỏ cái ngã cá nhân tư
kỷ của một người mà hướng tâm đến sự lợi lạc cho tất cả nhân quần xã
hội. Hai là, để làm việc lớn, trị quốc an dân, cần phải có tâm
lượng từ bi bao dung, biết nghĩ cho thiên hạ. Ba là, muốn có được
tấm lòng bao la rộng lớn như vậy thì cần phải tinh chuyên nghiên cứu
và thực nghiệm Phật pháp. Liễu ngộ được lời dạy chí thánh chứa đựng
đức lớn từ bi của Quốc sư Viên Chứng, Vua Trần Thái Tông đã đem tâm
nguyện của một người Phật tử để phục vụ hết lòng cho đất nước và
không quên việc nghiên cứu Phật học, tu tập chánh pháp. Nhà vua đã
sáng tác bộ Khóa Hư Lục để góp phần truyền bá giáo lý Phật Đà.
Trong Cư Trần Lạc Đạo Phú, Điều Ngự Giác Hoàng, Đệ nhất tổ thiền
phái Trúc Lâm, đã viết:
“Đức Bụt từ bi,
Mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;”
(Sử gia Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông)
Đức lớn từ bi của Phật Giáo Việt Nam cũng đã được hiển thị rành rành
trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du. Thi hào vì
lòng từ bi thương tưởng đến những oan hồn uổng tử chịu nhiều khổ báo
nặng nề, nên đã sáng tác bài văn tế để lấy Phật pháp, đem đức lớn từ
bi mà cảm hóa sinh linh:
“Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có câu rằng: “Vạn cảnh giai không”
Ai ai lấy Phật làm long
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.”
Hoặc là:
“Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có chăng chăng
Nam Mô Phật Nam Mô Pháp Nam Mô Tăng
Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.”
Trong thời cận đại, vào thập niên 60 của thế kỷ trước, trong công
cuộc vận động cho quyền bình đẳng tôn giáo, Phật Giáo Việt Nam đã
ghi đậm hình ảnh bi nguyện sáng chói của Bồ Tát Quảng Đức, khi ngài
đã tự hỏa thiêu nhục thân để cúng dường chư Phật và hồi hướng công
đức thù thắng ấy cho Chánh Pháp cửu trụ, cho Phật Pháp trường tồn,
cho những người lãnh đạo đất nước có đủ sự sáng suốt để trị quốc an
dân. Hành động ấy phát xuất từ đức từ bi lớn, không một chút thù
hận, không một vướng mắc ngã chấp. Đó chính thực là thi thiết đại
nguyện xả kỷ lợi tha của Bồ tát. Chính đức lớn từ bi ấy mới có năng
lực nhiệm mầu để thức tỉnh lương tâm nhân loại và thắp sáng lý tưởng
trí tuệ và từ bi cao cả của Phật Giáo Việt Nam.
III. NHÌN RÕ THỰC TRẠNG HÔM NAY
Nhân loại hiện nay, mặc dầu đã thoát khỏi mối đe dọa diệt chủng của
thời kỳ đối đầu lưỡng cực của chiến tranh lạnh giữa hai ý thức hệ tư
bản và cộng sản, nhưng sự manh nha của các thế lực quốc tế qua
khuynh hướng tạo dựng những đối lực tương xứng để tránh cảnh bị thua
sút về nhiều lãnh vực trước sức mạnh của một cường quốc duy nhất
trên thế giới này, đã là những mầm móng của bất an cho con người.
Thêm vào đó, hằng ngày nhân loại vẫn còn chứng kiến những thảm cảnh
kinh hoàng của khủng bố như ôm bom tự sát, giết hại tập thể hàng
loạt để gây khủng hoảng! Trong khi ở nhiều nơi trên thế giới nạn
thảm sát con người vì khác biệt chủng tộc, nạn đói rách, khan hiếm
nước uống vì nghèo khổ và môi trường khí hậu của trái đất thay đổi
bởi tình trạng ô nhiễm môi sinh toàn cầu vẫn còn hoành hành làm cho
hàng triệu người phải gánh chịu bao nhiêu đau khổ, lầm than. Thế
giới vẫn còn nhiều bất an và khổ não!
Chính vì vậy, mà mấy năm trước đây Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã ra
Quyết nghị vinh danh tinh thần từ bi hòa bình của đức Phật và hằng
năm tổ chức trọng thể đại lễ Phật Đản. Ủy Ban Tổ chức Đại Lễ Phật
Đản của Liên Hiệp Quốc quyết định luân phiên tổ chức Đại Lễ tôn vinh
ngày Đản Sinh của đức Phật tại nhiều quốc gia khác nhau. Hình ảnh
từ bi và giáo pháp giải thoát của đức Phật sẽ được thắp sáng rực rỡ
hơn lên trong những lần Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại Lễ Phật Đản như
vậy. Tham lam, thù hận và si mê là bản chất câu sinh của chúng sinh,
do đó, thế giới và nhân loại không ngừng gánh chịu bao nhiêu đau
thương, khổ nạn vì lòng tham lam, tâm thù hận và tánh si mê ấy.
Giáo pháp hàm ngụ trí tuệ giác ngộ và tâm từ bi vô lượng của đức
Phật là diệu dược chủ trị những căn bịnh trầm kha đó cho chúng sinh
suốt trên hai mươi lăm thế kỷ qua. Nhờ thấm nhuận giáo pháp ấy mà
đã có biết bao nhiêu chúng sinh xây dựng được cuộc sống an lạc và
giải thoát! Đó là sự cống hiến vô cùng lớn lao của Phật Giáo cho
loài người mà không một tôn giáo, chủ thuyết, hay ý thức hệ nào có
thể sánh được.
Sau khi chủ nghĩa cộng sản đã bị sụp đổ toàn diện tại Đông Âu và
Liên Bang Sô Viết vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Vì tình
hình đó, cộng sản Trung Quốc cũng đã thay đổi chính sách sâu xa để
thích ứng với thời cuộc và tìm con đường sinh tồn. Cộng sản Việt
Nam bắt buộc phải chọn con đường đổi thay để tồn tại. Trải qua hai
thập niên biến đổi, cộng sản Việt Nam hiện nay thực chất chỉ còn là
một tập đoàn lãnh đạo tài phiệt và độc tài, từ ruột cho đến vỏ đều
không còn một cái gì là cộng sản cả. Cụm từ “xã hội chủ nghĩa” chỉ
là một danh xưng trống rỗng dùng để che đậy sự biến chất, khủng
hoảng và tham vọng bên trong. Nhìn như vậy để thấy rằng, cơ chế
chính trị, dù mang danh nghĩa là chuyên chế độc tài cộng sản, cũng
bắt buộc phải thay đổi trước biến thiên không ngừng của thời đại,
của xã hội, nếu muốn sống còn. Điều khác là, từ một cơ chế đột tài
toàn trị với chính sách tập quyền chỉ đạo và bao cấp, cùng bao nhiêu
đặc quyền đặc lợi cho thành phần đảng viên, mà kiến thức, tư duy,
hành động bị đóng khung trong cái khuôn thước lạc hậu, ấu trĩ, thiên
kiến, chủ quan, khi bước vào môi trường đổi mới, thay đổi sẽ phải
đối diện với muôn ngàn hụt hẫn, phản kháng, bất cập, hỗn độn, trì
trệ, bế tắc! Điều thấy rõ là, chính vì thế mà các tệ nạn, trở thành
quốc nạn, như tham nhũng, lạm quyền, thối nát, trục lợi, sử dụng
luật rừng, v.v… đã ngày càng làm cho chế độ không yên và xã hội dao
động! Để có thể hỗ trợ đắc lực cho tiến trình hội nhập vào cộng
đồng thế giới và phát triển đất nước, chính quyền Việt Nam cần phải
quyết tâm loại bỏ thật sự quốc nạn tham nhũng, song song là nỗ lực
xây dựng một nền pháp trị nghiêm minh và hiệu quả. Muốn cho các sự
việc trên được thành công thì chính quyền đồng thời cũng phải chấp
nhận quyền tự do căn bản của người dân như tự do tôn giáo, ngôn
luận, báo chí, v.v…
Điều đau lòng nhất cho dân tộc Việt Nam chính là hệ quả khốc hại của
việc phá sản toàn diện trên đất nước trải qua hàng thế kỷ nay. Phá
sản từ nền tảng đạo đức, luân lý, tôn giáo đến văn hóa, giáo dục,
kinh tế, chính trị, v.v… Bằng các chính sách nô lệ hóa của thực dân,
độc tài toàn trị và đấu tranh giai cấp của cộng sản, khích động lòng
thù hận, gieo rắc tư tưởng xem vật chất là trên hết, đàn áp tiêu
diệt tất cả mọi thành phần tri thức, văn hóa, phân hóa, hủ hóa, can
thiệp vào nội bộ các tôn giáo để kiểm soát và chế tài mọi hoạt động,
tất cả những hành động phá sản ấy, đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng
và suy kiệt trầm trọng cho cả cộng đồng xã hội Việt Nam!
Cùng với nỗi trầm thống của dân tộc, Phật Giáo Việt Nam cũng gánh
chịu bao nhiêu đau thương! Sự phân hóa nội bộ của Phật Giáo Việt
Nam đã kéo dài mấy thập niên qua mà cho đến hôm nay vẫn còn trầm
trọng. Tăng, Ni bị biến chất, giới hạnh sa sút, nạn tham nhũng xâm
nhập vào tận chốn thiền môn. Tinh thần và đầu óc kỳ thị địa phương,
kỳ thị giáo phái, hệ phái ngày càng lan rộng. Tất cả những sự kiện
ấy đã và đang làm cho Phật Giáo Việt Nam đi vào con đường bế tắc!
Các Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ Phái và cá nhân Tăng, Ni chỉ nghĩ đến
quyền lợi của mình mà bỏ quên tiền đồ của Phật Giáo Việt Nam. Trước
sự đổi thay của xã hội, sự cạnh tranh truyền bá của các tôn giáo
khác, nếu Phật Giáo Việt Nam không giải quyết được bế tắc trước mắt
thì nguy cơ mất dần uy tín, vị thế và ảnh hưởng lớn lao mà mình đã
có trong lòng dân tộc từ bao lâu nay sẽ trở thành hiện thực, giống
như tình trạng của Phật Giáo Đại Hàn từ trên nửa thế kỷ trở lại
đây!
Vào các thập niên đầu thế kỷ 20, mặc dù chịu phải sự đàn áp và đối
xử bất công của chủ nghĩa thực dân Pháp, vốn là thế lực dựa lưng cho
phong trào tôn giáo Tây phương xâm nhập vào Việt Nam, chư tôn đức
Tăng, Ni ở khắp ba miền Nam Trung Bắc đều ý thức rất rõ về thực
trạng suy đồi của Phật Giáo Việt Nam lúc bấy giờ, cho nên, đã quyết
tâm khởi động công cuộc chấn hưng Phật Giáo. Những bước căn bản
nhưng thiết yếu và thành quả lâu dài ảnh hưởng tích cực đến mấy chục
năm sau chính là phát hành kinh sách, báo chí, mở các trường Phật
Học đào tạo Tăng, Ni tài đức, thực hiện các chuyến hoằng pháp khắp
nơi dưới nhiều hình thức, chú tâm đến việc giáo dục thanh thiếu niên
Phật tử để đưa Phật Pháp vào ngay trong sinh hoạt gia đình, chấn
chỉnh thiền môn, trang nghiêm giới hạnh đối với hàng ngũ xuất gia,
củng cố và phát triển chánh tín nơi hàng Phật tử tại gia. Đến đầu
thập niên 50 của thế kỷ trước, thành quả của công cuộc chấn hưng ấy
đã hiển lộ rõ ràng, đó chính là sự ra đời của Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam. Những Tăng, Ni tài đức được đào tạo trong các trường Phật
Học trước đó đã có thể đứng ra gánh vác trọng trách của Phật Giáo
nước nhà. Nếu chư tôn đức Tăng Ni trong thời kỳ trước, vì sự bức
bách của thực dân Pháp mà không mạnh dạn đứng ra thực hiện các công
tác hoằng pháp, văn hóa, giáo dục, thì làm sao có thể đào tạo được
những Tăng, Ni tài đức để gánh vác Phật sự sau này! Chính vì
vậy, việc chư Tôn đức Tăng, Ni tranh thủ cơ duyên để xây dựng các
trường Phật Học, Viện Cao Đẳng và Đại Học Phật Giáo để đào tạo Tăng,
Ni và giáo dục thanh thiếu niên là một công tác quan trọng cần được
thực hiện trong mọi hoàn cảnh và thời đại.
Trong một đất nước mà những di chứng của sự phá sản vẫn còn tồn
đọng, nhất là lòng thù hận, nghi kỵ, dối trá, tham lam, nhũng lạm
đang đục khoét vào tận xương tủy của dân tộc, Phật Giáo Việt Nam cần
được xây dựng và phát triển vững mạnh để góp phần chữa lành vết
thương cho dân tộc, làm dưỡng chất cho đời sống đạo đức tâm linh và
hòa bình an lạc. Muốn cho Phật Giáo Việt Nam thật sự phát huy bản
sắc đặc thù để đóng góp cho dân tộc thì cơ bản cần phải có những
điều kiện như sau:
Thứ nhất, về phía chính quyền Việt Nam phải dứt khoát không can
thiệp vào việc nội bộ của Phật Giáo bằng bất cứ hình thức nào. Để
thể hiện chính sách đó, chính quyền Việt Nam cần thực hiện một số
việc cụ thể như: Hủy bỏ Ban Tôn Giáo Chính Phủ, giải tán các ban
ngành công an đặc trách về Phật Giáo, để cho Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam rút ra khỏi vai trò là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, không ép
buộc chư vị Tôn đức Tăng, Ni tham gia vào các chức vụ thuộc hệ thống
chính trị nhà nước như dân biểu quốc hội, hội đồng nhân dân, ủy ban
mặt trận tổ quốc, trả lại quyền sinh hoạt hợp pháp cho GHPGVNTN để
GH này có thể phát huy được khả năng góp phần vào việc hoằng dương
Chánh pháp, thăng tiến xã hội và tiếp độ quần sinh.
Thứ hai, về phía GHPGVN cần phải mạnh dạn và quyết tâm thực hiện một
số công tác cần thiết như: Hủy bỏ vế sau cùng trong khẩu hiệu:
“Đạo pháp-Dân tộc-Xã hội chủ nghĩa”. Tức hủy bỏ vế “Xã hội chủ
nghiã”. Thực chất vế sau đã đảo ngược hẳn nội dung của hai vế
trước, vì “xã hội chủ nghĩa” là một chủ nghĩa, mà Đạo Pháp và Dân
tộc thì vượt trên mọi chủ nghĩa, hơn nữa, chủ nghĩa ở đây là đại
biểu cho chế độ, mà chế độ thì chì tồn tại trong giai đoạn, còn Đạo
pháp và Dân tộc thì tồn tại vĩnh viễn. GH cần phải can đảm cương
quyết rút tên ra khỏi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam để thực sự sinh hoạt
độc lập theo truyền thống của Phật Giáo Việt Nam. GH phải chỉnh đốn
lại việc nghiêm trì giới luật để thanh tịnh hàng ngũ xuất gia,
nghiêm cấm Tăng, Ni tham gia vào các cơ chế chính trị nhà nước như
dân biểu quốc hội, hội đồng nhân dân, ủy ban mặt trận tổ quốc.
Thứ ba, chư Tăng, Ni dù đang sinh hoạt trong Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ
Phái nào cũng đều có cùng một mục đích phụng sự đó là Phật Giáo Việt
Nam và dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, không một vị Tăng, Ni đạo
hạnh thanh tịnh, giới đức trang nghiêm nào vì sinh hoạt khác Giáo
Hội, Giáo Phái, Hệ Phái mà phải bị chỉ trích, vu khống, chụp mũ, thù
địch. Phật Giáo Việt Nam là chung của tất cả mọi Tăng, Ni và Phật
tử Việt Nam. Bất cứ vị Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam nào cũng đều có
quyền và bổn phận góp phần xây dựng và phát triển nền Phật Giáo Việt
Nam. Không ai có thể nhân danh bất cứ tổ chức nào để chỉ trích, vu
khống, chụp mũ và tạo sự thù địch đối với Tăng, Ni và Phật tử Việt
Nam khi họ không sinh hoạt trong tổ chức với mình. Mỗi tổ chức Phật
Giáo Việt Nam có đường hướng và phương thức hành đạo riêng, mà không
ai có quyền can dự vào việc hành đạo của họ. Nếu có điều gì sai
trái đi ngược lại tinh thần Chánh pháp thuộc phần hành của tổ chức
hay cá nhân thì nên lấy tinh thần hòa hợp và xây dựng để trình bày
hoặc góp ý. Mọi tư duy, phát ngôn và hành động đều nên đặt lợi ích
chung của Phật Giáo Việt Nam lên trên hết.
Thứ tư, qua bao nhiêu thập niên vì chướng duyên bên ngoài xã hội và
bên trong tự thân, như sự đánh phá từ các thế lực chính trị, sự phân
hóa bên trong nội bộ Phật Giáo, sự tha hóa theo xu hướng chính trị
của một số thành phần trong Phật Giáo, sự biến chất trước những biến
thiên và thay đổi của hoàn cảnh xã hội, sự bê tha trong việc thực
hiện sứ mệnh hoằng pháp, văn hóa và giáo dục, v.v…, nội lực của
Phật Giáo Việt Nam đã bị suy yếu và tiêu trầm. Ngược lại, cũng
chính vì nội lực bị phân liệt, cho nên Phật Giáo Việt Nam rất dễ bị
các thế lực bên ngoài và thành phần bất hảo bên trong đàn áp và thao
túng. Thực trạng của Phật Giáo Việt Nam ở trong và ngoài nước hiện
nay là một bằng chứng cụ thể. Vì thế, việc xây dựng nội lực tự thân
là yếu tố tiên quyết và cần thiết để phát triển nền Phật Giáo Việt
Nam toàn diện. Nội lực ấy phải do chính Tăng, Ni và Phật tử Việt
Nam tự nỗ lực gầy dựng, chứ không thể nương nhờ vào bất cứ thế lực
nào khác bên ngoài. Những tiếp sức bên ngoài nếu có, dù đó là thiện
tâm thiện ý, cũng chỉ là duyên phụ, nền tảng căn bản vẫn là chính
Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam.
Những đau thương và mất mát lớn lao mà dân tộc và Phật Giáo Việt Nam
đã trải qua suốt hàng thế kỷ nay đã thấm tận tin óc của mỗi người
dân và Phật tử Việt Nam! Xin hãy lấy đó làm động lực thức tỉnh để
nếu không làm được gì lợi ích thiết thực lâu dài thì cũng đừng nhẫn
tâm gây ra thêm thảm nạn cho Phật Giáo Việt Nam!
Nguyện cầu Chánh Pháp cửu trụ và Phật Giáo Việt Nam trường tồn.
|