.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007


Giá trị của các văn kiện Giáo Hội:

Giáo chỉ, Thông bạch, Chúc thư... thật và giả

  • PSN - 13.08.2008 | Thích Tâm Không


“tục nam” này được ủy nhiệm làm “phát ngôn nhân” VHĐ...

Thế gian vốn điên đảo. Con nhà Phật ai cũng biết như vậy. Nhưng trong vài năm qua, các sự việc xảy ra trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, quốc nội và hải ngoại, cũng điên đảo không kém.

Lý do là vì trong nội bộ giáo hội có một người nam thế tục từ một tổ chức thế tục, tình nguyện xin gia nhập để giúp về giao tế, rồi dần dần mua được niềm tin của cấp lãnh đạo tối cao trong VHĐ, người nam thế tục này bắt đầu thao túng, chuyên quyền, làm khuynh đảo cả sinh hoạt giáo hội. Có thể gọi người này là “tục nam”, chứ không phải là cư sĩ, cũng không phải thiện nam – vì cư sĩ là người tại gia chuyên tu, hành trì giới luật, cung kính Tam Bảo; còn thiện nam thì trước hết phải thiện, chứ ác quá làm sao gọi là thiện nam được!

Từ khi “tục nam” này được ủy nhiệm làm “phát ngôn nhân” VHĐ, sinh hoạt giáo hội bắt đầu có nhiều giáo chỉ và nhiều trường hợp bất thường: giáo chỉ lưu nhiệm cho GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ có 3 cái cho 3 kỳ Đại hội Khoáng Đại Kỳ I (1996), Kỳ II (2000), Kỳ  III (2004), rồi giáo chỉ số 2 (2005), số 9 (2007), số 10 (2007). Các giáo chỉ lưu nhiệm thì đúng hạn kỳ, được ban hành trong Đại hội Khoáng Đại, đúng hiến chương của GHPGVNTN nhưng sai qui chế của GHPGVNTNHN-HK (ở đây không phải là chỗ để bàn rộng); còn 3 giáo chỉ 2, 9 và 10 thì bất thường, với những nhận định để qui chiếu lý do một cách mơ hồ (ở đây cũng không phải là chỗ để bàn rộng). Từ các giáo chỉ đầu tiên xuất hiện trong giai đoạn người tục nam phát ngôn nhân tham gia giáo hội, đã có sự bán tin bán nghi trong chư vị giáo phẩm rồi. Nhưng đó là các giáo chỉ ảnh hưởng GH tại Hoa Kỳ mà không liên quan các nước và Châu khác nên ảnh hưởng không trầm trọng lắm. Đến khi giáo chỉ số 2, phá tan Ban Chỉ Đạo VHĐ sáng giá trong nước, sự phi lý càng lộ rõ hơn khiến chư tôn đức thành viên GHPGVNTN Hải ngoại không còn tin tưởng và cũng không mong đợi giáo chỉ ban hành nữa. Thế rồi, lại có giáo chỉ số 9, số 10. Chưa kể các quyết định này, quyết định nọ… làm náo loạn cả sinh hoạt của giáo hội các Châu và các nước. Đúng là thời đại của giáo chỉ, của văn kiện!

Đặc biệt là với sự phân tích chi ly của nhiều tôn đức và cư sĩ về nội dung lẫn hình thức của Giáo chỉ số 9, người ta không còn tin tưởng giáo chỉ là do Đức Tăng Thống ban hành nữa, dù rằng văn kiện nào đưa ra cũng có con dấu và chữ ký của Ngài. Có chăng, Ngài chỉ “nghe nói”, và đã chuẩn y bằng kim khẩu. Ngay cả khi đọc thông điệp chúc Xuân Mậu Tý, một thông điệp viết sẵn (nên Ngài đọc không được suông sẻ), có thể Ngài cũng chỉ có thể “chuẩn y” tại chỗ Giáo chỉ số 9 theo yêu cầu (của VHĐ) mà không được biết nội dung thực sự của giáo chỉ ra sao. Ngài chỉ nói Tôi gửi lời khen ngợi chư liệt vị đã tận tình hoằng dương chánh pháp nơi các xứ sở xa xôi, đồng thời vẫn nhất tâm hậu thuẫn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quê nhà. Đặc biệt chư quý liệt vị đã chí thành khâm tuân và thi hành Giáo chỉ số 9 do tôi ban hành và các Thông tư, Thông bạch của Viện Hóa Đạo nhằm chấn chỉnh và phát huy Giáo hội trước tình thế mới, cũng như làm rạng danh hai nghìn năm Phật giáo Việt Nam, chư liệt vị Tổ sư, các Thánh tử đạo và những người đã hy sinh để bảo vệ dân tộc, bảo vệ lãnh thổ và bảo vệ chánh pháp.” Đây là câu khen ngợi không được tự nhiên được lồng vào lời chúc Xuân của một vị Tăng Thống. Chưa bao giờ lãnh đạo tối cao của giáo hội ban hành giáo chỉ rồi lại ngỏ lời ngợi khen cấp dưới là “đã chí thành khâm tuân và thi hành”! Chắc chắn là có vấn đề. Mặt khác, nếu đây là một văn bản viết sẵn từ ai đó để Ngài đọc, sẽ không chứng minh được rằng Ngài nắm rõ nội dung giáo chỉ và thông bạch hướng dẫn. Có thể Ngài chỉ biết cái tên và con số của hai văn kiện này thôi (điểm này trước sau gì cũng sẽ được phơi bày qua một tài liệu đặc biệt phỏng vấn Ngài, mà hiện nay chưa tiện phổ biến).

Giáo chỉ, thông bạch, con dấu, chữ ký, logo giáo hội, letterhead của lưỡng viện, v.v… nói chung là các hình thức hành chánh của giáo hội, từ “biến cố giáo chỉ” về sau, đã không còn đủ sức để gây niềm tin đối với Tăng Ni và Phật Tử. Bây giờ người ta chỉ đọc và nghiệm phần nội dung chứ không để ý lắm về hình thức. Văn kiện nào ấn ký Tăng Thống hay Viện trưởng VHĐ nhưng viết sặc mùi chính trị, thiếu đạo phong của một cao tăng, biết ngay là xuất phát từ tục nam VVA của PTTPGQT. Đó là lý do có khi thông điệp năm này được nhiều cơ sở giáo hội tại hải ngoại đọc, nhưng năm khác lại không nơi nào chịu đọc. HT. Thiện Hạnh đã có lần “tố giác” trong “Bản Phúc Trình” về chuyện không chịu đọc thông điệp này là lý do đó.

Sau biến cố giáo chỉ số 9, bắt đầu có một số giáo chỉ, quyết định, thông tư được phổ biến mà rồi bị tục nam VVA lên tiếng cảnh báo, cho rằng đều là giả. Cách phản bác không đủ sức thuyết phục, ví dụ đối với việc bãi nhiệm tục nam VVA, phát ngôn nhân VHĐ, thì PTTPGQT chỉ biết biện bạch, bảo vệ cho chức vị của ông bằng câu này “Đại lão HT Thích Quảng Độ và Viện Hóa Đạo không hề có ý định như thế” (trích TCBC ngày 25/3/2008 - Cảnh báo tài liệu giả “bãi nhiệm” ông Võ Văn Ái chức Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN. Xem Quê Mẹ). Cũng trong TCBC này, tục nam VVA phân tích hình thức lắp ráp giả mạo như thế nào của các “tài liệu giả” đó. Nhưng mới đây, qua phân tích kỹ thuật vi tính của Diệu Trang Nghiêm về giáo chỉ số 9, người ta cũng thấy sự lắp ráp tương tự trong giáo chỉ số 9, có nghĩa là giáo chỉ này được đánh máy riêng, và gắn chữ ký con dấu của Đức Tăng Thống vào.

Gần đây nhất, sau tang lễ của Đức Tăng Thống, có chúc thư ký ngày 10/5/2008 của Ngài được phổ biến, bắt nguồn từ email của ĐĐ. Thích Đồng Thọ (vị thị giả của Đức Tăng Thống), tục nam VVA lập tức lên tiếng phủ nhận (trước hết là vì chúc thư này mặc nhiên không đếm kể gì đến tục nam VVA và TCL trong thành phần nhân sự của VHĐ mà chúc thư đề nghị). Sau đó vài ngày lại có thư xác nhận của ĐĐ. Thích Minh Tuấn rằng chúc thư do Thích Đồng Thọ phổ biến là chúc thư thật. Tục nam VVA vội vàng nhờ chính hai vị đại đức này lên tiếng xác minh. Xét về nội dung bản chúc thư, người hiểu việc không ai tin đó là chúc thư thật, không cần tục nam VVA phải quýnh quáng phủ nhận để bảo vệ chức vị của mình. Có người còn cho rằng đó chỉ là sự đóng kịch: tài liệu giả, phủ nhận tài liệu giả, cũng đều từ một người, một xuất xứ mà thôi. Cũng có người cho rằng đó là do HT Thiện Hạnh từ Huế tung ra nhằm thăm dò dư luận. Nhưng việc này cũng khó đoán định, không cần phải bàn thêm. Chỉ nhìn nơi hình thức văn kiện thì thấy rằng kỹ thuật lắp ráp đã tinh xảo hơn, dùng Adobe Photoshop để tách màu (bằng nhiều layers) theo hướng dẫn của Diệu Trang Nghiêm cũng không thấy chỗ ráp nối.

Ngày 11/8/2008, lại có một chúc thư của Đức Tăng Thống được phổ biến nữa. Chúc thư này, về nội dung có vẻ “thật” hơn, vì theo chúc thư này (được ký ngày 17/01/2005) thì Đức Tăng Thống không áp đặt và can thiệp nhiều vào việc sắp xếp nhân sự của VHĐ như là chúc thư trước đó. Tục nam VVA đã phản ứng nhè nhẹ bằng email gửi cho các groups và diễn đàn chứ không phản ứng mạnh như đối với chúc thư “giả” ký ngày 10/5/2008, có thể vì chúc thư sau này (nhưng thời gian thì cũ hơn) vẫn để yên cho tục nam VVA trong chức vị phát ngôn nhân VHĐ và cũng có ca ngợi việc làm của PTTPGQT. Thế nhưng, hình thức của chúc thư ký ngày 17/01/2005 cũng rất tinh vi, không thấy dấu ráp nối.

Các chúc thư đưa ra lung tung như vậy trước hết là một sự bất kính đối với Đức Tăng Thống mà hiện nay chúng ta chưa đủ bằng chứng để qui tội ai là người đã bày ra  trò chơi này. Có thể là các thế lực ác (cộng sản, ngoại đạo, tổ chức chính trị nào đó), cũng có thể do phát ngôn nhân hoặc chánh thư ký VTT (như có người phỏng đoán). Nhưng mặt khác của vấn đề cũng cho thấy về hình thức, với kỹ thuật tinh xảo của vi tính, tính chất thật và giả của một văn kiện giáo hội không thể phân định được nữa. Chỉ còn phần nội dung và tính hợp lý của thời gian là chìa khóa để dựa vào mà xét định.

Tại sao cần phải giả? Và tại sao cần phải giả đò giả? - Giả là để tạo thuận lợi cho mình và giả đò giả là để thăm dò, để chận đứng cái thật.

Vấn đề cần được phân tích mổ xẻ ở đây là CHÚC THƯ VÀ GIÁO CHỈ SẮP CÔNG BỐ CỦA VPII VHĐ TẠI CHÙA PHÁP LUÂN VÀO NGÀY 17/8/2008 CÓ THẬT HAY KHÔNG?

Làm sao biết chúc thư và giáo chỉ ấy là thật hay giả? Trước hết hãy để tục nam VVA trả lời xem sao. Với TCBC ra ngày 22/7/2008, tiêu đề “Kính xin đồng bào Phật tử và đồng bào các giới cảnh giác chúc thư giả của Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang”, tục nam VVA đã đưa ra 2 điểm phản bác không có tính thuyết phục, đồng thời rất vô lý (có lẽ vì quýnh quáng sợ mất chức nên nói bậy): “1. Chúc thư gọi là của Đức Đệ tứ Tăng thống viết từ Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, ngày 10.5.2008 và nói rằng do Đại đức Thích Đồng Thọ chuyển đi là Chúc thư GIẢ. 2. Đại đức Thích Đồng Thọ, thị giả Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, không hề gửi đi cho bất cứ ai một văn kiện nào. Vì lý do dễ hiểu là Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang không hề để lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi là Chúc thư nói trên.” Phủ nhận một văn kiện có letterhead, chữ ký và con dấu của Đức Tăng Thống mà chỉ đưa hai luận điểm sơ sài như vậy làm sao thuyết phục được người đọc! Điều 1, không có lý luận gì cả, chỉ phủ nhận nó giả thôi, nhưng không giải thích vì sao nó giả. Điều 2, cố gắng giải thích, nhưng giải thích này cũng không có lý luận gì cả. Thứ nhất, chưa thể xác định rằng nó giả với lý do “ĐĐ. Thích Đồng Thọ không hề gửi đi cho bất cứ ai một văn kiện nào”, vì có thể ĐĐ. Thích Đồng Thọ không gửi nhưng nhờ người khác gửi, hoặc ai đó lấy được văn kiện đó, mạo tên ĐĐ. Thích Đồng Thọ để gửi. Thứ hai, cách giải thích “vì lý do dễ hiểu là Đức Tăng thống Thích Huyền Quang không hề để lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi là Chúc thư nói trên” cũng không phải là lý luận gì cả, mà còn tố cáo một điểm là tục nam VVA này đã đọc trước, hoặc soạn trước chúc thư và đang nắm trên tay chúc thư ấy nên mới biết được “Đức Tăng thống không hề để lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi là chúc thư nói trên”.

Như vậy, tục nam VVA đã có chúc thư trước và đang chờ công bố vào ngày 17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân, Texas, Mỹ quốc. Điều này hợp lý chăng? Hãy đi sâu vào vấn đề:

-          Chung thất Đức Tăng Thống là ngày 22/8/2008 (nhằm ngày 22/7 năm Mậu Tý). Theo tục nam VVA cho biết, trong TCBC 22/7/2008, “Tại lễ Nhập tháp Đức cố Đệ tứ Thích Tăng thống Thích Huyền Quang hôm 11.7 ở Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo, đã tuyên bố rằng Đức Tăng thống có để lại Di chúc và Giáo chỉ sắp đặt việc Phật sự tại hai Viện Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Hai văn kiện này sẽ được công bố tại kỳ lễ Chung thất (49 ngày) của Đức Tăng thống.” Vậy, khi hai văn kiện này được công bố bởi HT Viện trưởng, (đúng hơn phải do Chánh Thư Ký VTT), trước sự chứng minh của chư tôn giáo phẩm Hội đồng Lưỡng viện, thì tại Chùa Pháp Luân Texas, VPII đã tuyên đọc và phổ biến 5 ngày trước đó rồi. Điều này có nên không, có hợp lý không? VPII VHĐ lại được quyền công bố trước VHĐ quốc nội sao? Lý do gì mà phải gấp gáp, không chờ đợi trong nước công bố trước rồi ở ngoài “khâm tuân” chiếu hành?

-          Chúc thư và giáo chỉ ấy có được đem ra thảo luận trước hội đồng lưỡng viện chưa? Nếu có thì ai cũng biết rồi, đâu có gì gọi là cần bảo mật, giữ thiêng liêng, cần gì phải chờ đến ngày chung thất mới công bố, sao không công bố sớm ngay sau tang lễ để “ổn định nhân tâm”! Nếu không đem ra thảo luận với hội đồng lưỡng viện thì không lẽ chỉ HT Viện trưởng và tục nam VVA biết thôi sao, điều này có được cho phép không? Tục nam VVA xác định đã biết nội dung chúc thư trước tất cả những thành viên giáo phẩm Tăng già khác trong giáo hội, điều này nên không, cho phép không?

-          Làm sao biết được chúc thư và giáo chỉ tuyên đọc ngày 17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân là thật? Vì theo tuyên bố của TT. Thích Viên Định nói trên, phải đến kỳ lễ chung thất thì hai văn kiện chúc thư và giáo chỉ mới được công bố. Chúc thư hay giáo chỉ nào xuất hiện trước ngày đó đều là GIẢ. Đây chính là lời của tục nam VVA viết trong TCBC, sau khi phủ nhận chúc thư sớm phổ biến trước lễ chung thất: “Vậy từ đây đến đó, mọi văn kiện tiếm danh Đức cố Đệ tứ Tăng thống đều là tài liệu giả” (trích nguyên văn câu chót của TCBC từ PTTPGQT, ngày 22/7/2008). Theo câu kết luận chắc như đinh đóng cột của tục nam VVA, chúng ta phải hiểu một cách chắc chắn rằng chúc thư và giáo chỉ tuyên đọc tại Chùa Pháp Luân ngày 17/8/2008, 5 ngày trước kỳ lễ chung thất Đức Tăng Thống, là tài liệu giả (nhấn mạnh: tài liệu giả).

-          Chúng ta thấy vị đệ tử xuất gia duy nhất của Đức Tăng Thống tại hải ngoại là TT. Thích Minh Dung đã tống đạt thư mời tổ chức lễ chung thất cho bổn sư của mình vào ngày 23/8/2008, sau lễ chung thất chính thức tại Tu viện Nguyên Thiều một ngày. Giáo hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan thì tổ chức vào ngày 24/8/2008, sau hai ngày. Cho thấy sự tôn trọng và kính nhường của chư tôn đức này đối với VHĐ trong nước như thế nào. Không có lý do gì để cần phải tố chức sớm và trước lễ chung thất chính thức, nhất là lại có chủ ý tuyên đọc chúc thư và giáo chỉ cũng như làm lễ suy tôn trong dịp này. Phải chăng là một kiểu ăn hớt, nói hớt, để cho VHĐ trong nước buộc lòng phải làm theo cái đã rồi?

-          Bây giờ hãy thử nhìn lại tuần tự các sự việc diễn ra để phỏng định nội tình về chúc thư và giáo chỉ: tục nam VVA tung tin là sẽ có suy tôn và danh sách hội đồng lưỡng viện vào ngày 13/7/2008 trong Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Đức Tăng Thống tại Chùa Diệu Pháp; sau đó là hai chúc thư giả tung ra, rồi lại có sự kiện sẽ tuyên bố chúc thư và giáo chỉ cùng làm lễ suy tôn trong ngày 17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân, Texas. Có thể tục nam này muốn ép HT Viện trưởng phải chấp nhận chúc thư và giáo chỉ do tục nam sáng chế tại Paris. Chúc thư và giáo chỉ sáng chế phải công bố sớm chừng nào tốt chừng đó để chận đứng văn kiện thật (nếu có). Ban đầu muốn công bố sớm, nhưng bị kềm lại, phải chờ đến kỳ chung thất trong nước. Nếu đến lúc đó HT Viện trưởng hoặc Chánh Thư Ký VTT công bố chúc thư hay giáo chỉ không thuận lợi cho tục nam và phe cánh thì không ổn, do đó, phải ra tay trước: công bố ngày 17/8/2008, trước 5 ngày! Với chiêu thức táo bạo này, tục nam buộc HT Viện trưởng một là gửi chúc thư và giáo chỉ thật (nếu có) qua cho PTTPGQT nghiên cứu, điều chỉnh, rồi gửi ngược lại cho Ngài đọc để “thống nhất” văn bản trong và ngoài nước; hai là, hãy chờ VPII VHĐ công bố trước rồi VP I VHĐ dùng văn kiện của VPII mà công bố sau.

 

Qua những điểm trên, bây giờ kết luận chúc thư và giáo chỉ là thật hay giả cũng thật khó. Điều hy vọng cuối cùng là Chúc thư và Giáo chỉ sẽ do thủ bút của Đức Tăng Thống, như ĐĐ. Thích Đồng Thọ xác minh với VHĐ: “theo con được biết Chúc thư của Đức Tăng Thống được Ngài Viện Trưởng đang cất giữ và Chúc thư có lẽ được viết bằng chính bút tích của Đức Tăng Thống chứ không phải là những bảng đánh máy vi tính và giả con dấu cũng như chữ ký của Đức Tăng Thống.”  

Ở hy vọng cuối cùng này, chúng ta hãy chờ xem, chúc thư và giáo chỉ sẽ xuất hiện trong hình thức như thế nào. Dùng máy vi tính để sáng chế, soạn thảo, lắp ráp bao nhiêu giáo chỉ, thông bạch, chúc thư… cũng được cả. Nhưng bút tích của Đức Tăng Thống thì khó mà giả. Chỉ có những họa sĩ chuyên nghiệp về thư pháp may ra cặm cụi sao y thủ bút của người khác. Mà đã đến nước thủ bút cũng giả được thì điều kỳ vọng sau cùng vẫn là nội dung, tinh thần của chúc thư và giáo chỉ ấy: Trước hết, có hợp Hiến chương không? Thứ nữa, có mang lại sự hòa hợp, đoàn kết, thanh tịnh, tương kính, tương giáo cho giáo hội, cho bốn chúng như Phật dạy và luật định hay không? Đây là điều mà ma Ba-tuần cũng không làm được huống gì chỉ là một tục nam bé nhỏ.

Cầu nguyện cho mọi an lành và thanh tịnh đến với chư tôn đức và Phật Tử khắp nơi trước cơn khủng hoảng giáo chỉ, chúc thư, thật và giả của giáo hội trong giai đoạn mới: thiếu vắng bậc lãnh đạo tài đức, khoan dung và từ bi vô lượng như Đức cố Tăng Thống của chúng ta!

 

Úc đại lợi ngày 12 tháng 8 năm 2008
Thích Tâm Không

 

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.