Giá trị của
các văn kiện Giáo Hội:
Giáo chỉ, Thông
bạch, Chúc thư... thật và giả
-
PSN - 13.08.2008 | Thích Tâm Không

“tục nam” này được ủy nhiệm làm “phát ngôn nhân” VHĐ... |
Thế gian vốn điên đảo. Con nhà Phật ai cũng biết như vậy.
Nhưng trong vài năm qua, các sự việc xảy ra trong Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, quốc nội và hải ngoại, cũng điên đảo
không kém.
Lý do là vì trong nội bộ giáo hội có một người nam thế tục từ
một tổ chức thế tục, tình nguyện xin gia nhập để giúp về giao
tế, rồi dần dần mua được niềm tin của cấp lãnh đạo tối cao trong
VHĐ, người nam thế tục này bắt đầu thao túng, chuyên quyền, làm
khuynh đảo cả sinh hoạt giáo hội. Có thể gọi người này là “tục
nam”, chứ không phải là cư sĩ, cũng không phải thiện nam – vì cư
sĩ là người tại gia chuyên tu, hành trì giới luật, cung kính Tam
Bảo; còn thiện nam thì trước hết phải thiện, chứ ác quá làm sao
gọi là thiện nam được!
Từ khi “tục nam” này được ủy nhiệm làm “phát ngôn nhân” VHĐ,
sinh hoạt giáo hội bắt đầu có nhiều giáo chỉ và nhiều trường hợp
bất thường: giáo chỉ lưu nhiệm cho GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ có 3 cái
cho 3 kỳ Đại hội Khoáng Đại Kỳ I (1996), Kỳ II (2000), Kỳ III
(2004), rồi giáo chỉ số 2 (2005), số 9 (2007), số 10 (2007). Các
giáo chỉ lưu nhiệm thì đúng hạn kỳ, được ban hành trong Đại hội
Khoáng Đại, đúng hiến chương của GHPGVNTN nhưng sai qui chế của
GHPGVNTNHN-HK (ở đây không phải là chỗ để bàn rộng); còn 3 giáo
chỉ 2, 9 và 10 thì bất thường, với những nhận định để qui chiếu
lý do một cách mơ hồ (ở đây cũng không phải là chỗ để bàn rộng).
Từ các giáo chỉ đầu tiên xuất hiện trong giai đoạn người tục nam
phát ngôn nhân tham gia giáo hội, đã có sự bán tin bán nghi
trong chư vị giáo phẩm rồi. Nhưng đó là các giáo chỉ ảnh hưởng
GH tại Hoa Kỳ mà không liên quan các nước và Châu khác nên ảnh
hưởng không trầm trọng lắm. Đến khi giáo chỉ số 2, phá tan Ban
Chỉ Đạo VHĐ sáng giá trong nước, sự phi lý càng lộ rõ hơn khiến
chư tôn đức thành viên GHPGVNTN Hải ngoại không còn tin tưởng và
cũng không mong đợi giáo chỉ ban hành nữa. Thế rồi, lại có giáo
chỉ số 9, số 10. Chưa kể các quyết định này, quyết định nọ… làm
náo loạn cả sinh hoạt của giáo hội các Châu và các nước. Đúng là
thời đại của giáo chỉ, của văn kiện!
Đặc biệt là với sự phân tích chi ly của nhiều tôn đức và cư sĩ
về nội dung lẫn hình thức của Giáo chỉ số 9, người ta không còn
tin tưởng giáo chỉ là do Đức Tăng Thống ban hành nữa, dù rằng
văn kiện nào đưa ra cũng có con dấu và chữ ký của Ngài. Có
chăng, Ngài chỉ “nghe nói”, và đã chuẩn y bằng kim khẩu. Ngay cả
khi đọc thông điệp chúc Xuân Mậu Tý, một thông điệp viết sẵn
(nên Ngài đọc không được suông sẻ), có thể Ngài cũng chỉ có thể
“chuẩn y” tại chỗ Giáo chỉ số 9 theo yêu cầu (của VHĐ) mà không
được biết nội dung thực sự của giáo chỉ ra sao. Ngài chỉ nói
“Tôi
gửi lời khen ngợi chư liệt vị đã tận tình hoằng dương chánh pháp
nơi các xứ sở xa xôi, đồng thời vẫn nhất tâm hậu thuẫn Giáo hội
Phật giáo Việt
Nam Thống nhất tại quê nhà. Đặc biệt chư quý liệt vị đã chí
thành khâm tuân và thi hành Giáo chỉ số 9 do tôi ban hành và các
Thông tư, Thông bạch của Viện Hóa Đạo nhằm chấn chỉnh và phát
huy Giáo hội trước tình thế mới, cũng như làm rạng danh hai
nghìn năm Phật giáo Việt Nam, chư liệt vị Tổ sư, các Thánh tử
đạo và những người đã hy sinh để bảo vệ dân tộc, bảo vệ lãnh thổ
và bảo vệ chánh pháp.” Đây là câu khen ngợi không được tự nhiên được
lồng vào lời chúc Xuân của một vị Tăng Thống. Chưa bao giờ lãnh
đạo tối cao của giáo hội ban hành giáo chỉ rồi lại ngỏ lời ngợi
khen cấp dưới là “đã chí thành khâm tuân và thi hành”! Chắc chắn
là có vấn đề. Mặt khác, nếu đây là một văn bản viết sẵn từ ai đó
để Ngài đọc, sẽ không chứng minh được rằng Ngài nắm rõ nội dung
giáo chỉ và thông bạch hướng dẫn. Có thể Ngài chỉ biết cái tên
và con số của hai văn kiện này thôi (điểm này trước sau gì cũng
sẽ được phơi bày qua một tài liệu đặc biệt phỏng vấn Ngài, mà
hiện nay chưa tiện phổ biến).
Giáo chỉ, thông bạch, con dấu, chữ ký, logo
giáo hội, letterhead của lưỡng viện, v.v… nói chung là các hình
thức hành chánh của giáo hội, từ “biến cố giáo chỉ” về sau, đã
không còn đủ sức để gây niềm tin đối với Tăng Ni và Phật Tử. Bây
giờ người ta chỉ đọc và nghiệm phần nội dung chứ không để ý lắm
về hình thức. Văn kiện nào ấn ký Tăng Thống hay Viện trưởng VHĐ
nhưng viết sặc mùi chính trị, thiếu đạo phong của một cao tăng,
biết ngay là xuất phát từ tục nam VVA của PTTPGQT. Đó là lý do
có khi thông điệp năm này được nhiều cơ sở giáo hội tại hải
ngoại đọc, nhưng năm khác lại không nơi nào chịu đọc. HT. Thiện
Hạnh đã có lần “tố giác” trong “Bản Phúc Trình” về chuyện không
chịu đọc thông điệp này là lý do đó.
Sau biến cố giáo chỉ số 9, bắt đầu có một số
giáo chỉ, quyết định, thông tư được phổ biến mà rồi bị tục nam
VVA lên tiếng cảnh báo, cho rằng đều là giả. Cách phản bác không
đủ sức thuyết phục, ví dụ đối với việc bãi nhiệm tục nam VVA,
phát ngôn nhân VHĐ, thì PTTPGQT chỉ biết biện bạch, bảo vệ cho
chức vị của ông bằng câu này “Đại lão HT Thích Quảng Độ và
Viện Hóa Đạo không hề có ý định như thế” (trích TCBC ngày
25/3/2008 - Cảnh báo tài liệu giả “bãi nhiệm” ông Võ Văn Ái
chức Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN. Xem Quê Mẹ).
Cũng trong TCBC này, tục nam VVA phân tích hình thức lắp ráp giả
mạo như thế nào của các “tài liệu giả” đó. Nhưng mới đây, qua
phân tích kỹ thuật vi tính của Diệu Trang Nghiêm về giáo chỉ số
9, người ta cũng thấy sự lắp ráp tương tự trong giáo chỉ số 9,
có nghĩa là giáo chỉ này được đánh máy riêng, và gắn chữ ký con
dấu của Đức Tăng Thống vào.
Gần đây nhất, sau tang lễ của Đức Tăng Thống,
có chúc thư ký ngày
10/5/2008 của Ngài được phổ biến, bắt nguồn từ email của
ĐĐ. Thích Đồng Thọ (vị thị giả của Đức Tăng Thống), tục nam VVA
lập tức lên tiếng phủ nhận (trước hết là vì chúc thư này mặc
nhiên không đếm kể gì đến tục nam VVA và TCL trong thành phần
nhân sự của VHĐ mà chúc thư đề nghị). Sau đó vài ngày lại có thư
xác nhận của ĐĐ. Thích Minh Tuấn rằng chúc thư do Thích Đồng Thọ
phổ biến là chúc thư thật. Tục nam VVA vội vàng nhờ chính hai vị
đại đức này lên tiếng xác minh. Xét về nội dung bản chúc thư,
người hiểu việc không ai tin đó là chúc thư thật, không cần tục
nam VVA phải quýnh quáng phủ nhận để bảo vệ chức vị của mình. Có
người còn cho rằng đó chỉ là sự đóng kịch: tài liệu giả, phủ
nhận tài liệu giả, cũng đều từ một người, một xuất xứ mà thôi.
Cũng có người cho rằng đó là do HT Thiện Hạnh từ Huế tung ra
nhằm thăm dò dư luận. Nhưng việc này cũng khó đoán định, không
cần phải bàn thêm. Chỉ nhìn nơi hình thức văn kiện thì thấy rằng
kỹ thuật lắp ráp đã tinh xảo hơn, dùng Adobe Photoshop để tách
màu (bằng nhiều layers) theo hướng dẫn của Diệu Trang Nghiêm
cũng không thấy chỗ ráp nối.
Ngày
11/8/2008, lại có một chúc thư của Đức Tăng Thống được phổ
biến nữa. Chúc thư này, về nội dung có vẻ “thật” hơn, vì theo
chúc thư này (được ký ngày
17/01/2005) thì Đức Tăng Thống không áp đặt và can thiệp
nhiều vào việc sắp xếp nhân sự của VHĐ như là chúc thư trước đó.
Tục nam VVA đã phản ứng nhè nhẹ bằng email gửi cho các groups và
diễn đàn chứ không phản ứng mạnh như đối với chúc thư “giả” ký
ngày 10/5/2008, có thể vì chúc thư sau này (nhưng thời gian thì
cũ hơn) vẫn để yên cho tục nam VVA trong chức vị phát ngôn nhân
VHĐ và cũng có ca ngợi việc làm của PTTPGQT. Thế nhưng, hình
thức của chúc thư ký ngày
17/01/2005 cũng rất tinh vi, không thấy dấu ráp nối.
Các chúc thư đưa ra lung tung như vậy trước
hết là một sự bất kính đối với Đức Tăng Thống mà hiện nay chúng
ta chưa đủ bằng chứng để qui tội ai là người đã bày ra trò chơi
này. Có thể là các thế lực ác (cộng sản, ngoại đạo, tổ chức
chính trị nào đó), cũng có thể do phát ngôn nhân hoặc chánh thư
ký VTT (như có người phỏng đoán). Nhưng mặt khác của vấn đề cũng
cho thấy về hình thức, với kỹ thuật tinh xảo của vi tính, tính
chất thật và giả của một văn kiện giáo hội không thể phân định
được nữa. Chỉ còn phần nội dung và tính hợp lý của thời gian là
chìa khóa để dựa vào mà xét định.
Tại sao cần phải giả? Và tại sao cần phải giả
đò giả? - Giả là để tạo thuận lợi cho mình và giả đò giả là để
thăm dò, để chận đứng cái thật.
Vấn đề cần được phân tích mổ xẻ ở đây là
CHÚC THƯ VÀ GIÁO CHỈ SẮP CÔNG BỐ CỦA VPII VHĐ TẠI CHÙA PHÁP LUÂN
VÀO NGÀY 17/8/2008 CÓ THẬT HAY KHÔNG?
Làm sao biết chúc thư và giáo chỉ ấy là thật
hay giả? Trước hết hãy để tục nam VVA trả lời xem sao. Với TCBC
ra ngày 22/7/2008, tiêu đề “Kính xin đồng bào Phật tử và đồng
bào các giới cảnh giác chúc thư giả của Đức cố Đệ tứ Tăng Thống
Thích Huyền Quang”, tục nam VVA đã đưa ra 2 điểm phản bác
không có tính thuyết phục, đồng thời rất vô lý (có lẽ vì quýnh
quáng sợ mất chức nên nói bậy): “1. Chúc thư gọi là của Đức
Đệ tứ Tăng thống viết từ Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định, ngày
10.5.2008 và nói rằng do Đại đức Thích Đồng Thọ chuyển đi là
Chúc thư GIẢ. 2. Đại đức Thích Đồng Thọ, thị giả Đức cố Đệ tứ
Tăng thống Thích Huyền Quang, không hề gửi đi cho bất cứ ai một
văn kiện nào. Vì lý do dễ hiểu là Đức cố Tăng thống Thích Huyền
Quang không hề để lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi
là Chúc thư nói trên.” Phủ nhận một văn kiện có letterhead,
chữ ký và con dấu của Đức Tăng Thống mà chỉ đưa hai luận điểm sơ
sài như vậy làm sao thuyết phục được người đọc! Điều 1, không có
lý luận gì cả, chỉ phủ nhận nó giả thôi, nhưng không giải thích
vì sao nó giả. Điều 2, cố gắng giải thích, nhưng giải thích này
cũng không có lý luận gì cả. Thứ nhất, chưa thể xác định rằng nó
giả với lý do “ĐĐ. Thích Đồng Thọ không hề gửi đi cho bất cứ
ai một văn kiện nào”, vì có thể ĐĐ. Thích Đồng Thọ không gửi
nhưng nhờ người khác gửi, hoặc ai đó lấy được văn kiện đó, mạo
tên ĐĐ. Thích Đồng Thọ để gửi. Thứ hai, cách giải thích “vì
lý do dễ hiểu là Đức Tăng thống Thích Huyền Quang không hề để
lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi là Chúc thư nói
trên” cũng không phải là lý luận gì cả, mà còn tố cáo một
điểm là tục nam VVA này đã đọc trước, hoặc soạn trước chúc thư
và đang nắm trên tay chúc thư ấy nên mới biết được “Đức Tăng
thống không hề để lại một văn bản nào mang nội dung như cái gọi
là chúc thư nói trên”.
Như vậy, tục nam VVA đã có chúc thư trước và
đang chờ công bố vào ngày
17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân,
Texas, Mỹ quốc. Điều này hợp lý chăng? Hãy đi sâu vào
vấn đề:
-
Chung thất Đức Tăng Thống là ngày
22/8/2008 (nhằm ngày 22/7 năm Mậu Tý). Theo tục nam VVA cho
biết, trong TCBC 22/7/2008, “Tại lễ Nhập tháp Đức cố Đệ tứ
Thích Tăng thống Thích Huyền Quang hôm 11.7 ở Tu viện Nguyên
Thiều, Bình Định, Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng
kiêm Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo, đã tuyên bố rằng Đức Tăng thống
có để lại Di chúc và Giáo chỉ sắp đặt việc Phật sự tại hai Viện
Tăng thống và Viện Hóa Đạo. Hai văn kiện này sẽ được công bố tại
kỳ lễ Chung thất (49 ngày) của Đức Tăng thống.” Vậy, khi hai
văn kiện này được công bố bởi HT Viện trưởng, (đúng hơn phải do
Chánh Thư Ký VTT), trước sự chứng minh của chư tôn giáo phẩm Hội
đồng Lưỡng viện, thì tại Chùa Pháp Luân Texas, VPII đã tuyên đọc
và phổ biến 5 ngày trước đó rồi. Điều này có nên không, có hợp
lý không? VPII VHĐ lại được quyền công bố trước VHĐ quốc nội
sao? Lý do gì mà phải gấp gáp, không chờ đợi trong nước công bố
trước rồi ở ngoài “khâm tuân” chiếu hành?
-
Chúc thư và giáo chỉ ấy có được đem ra thảo luận trước hội đồng
lưỡng viện chưa? Nếu có thì ai cũng biết rồi, đâu có gì gọi là
cần bảo mật, giữ thiêng liêng, cần gì phải chờ đến ngày chung
thất mới công bố, sao không công bố sớm ngay sau tang lễ để “ổn
định nhân tâm”! Nếu không đem ra thảo luận với hội đồng lưỡng
viện thì không lẽ chỉ HT Viện trưởng và tục nam VVA biết thôi
sao, điều này có được cho phép không? Tục nam VVA xác định đã
biết nội dung chúc thư trước tất cả những thành viên giáo phẩm
Tăng già khác trong giáo hội, điều này nên không, cho phép
không?
-
Làm sao biết được chúc thư và giáo chỉ tuyên đọc ngày 17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân là thật? Vì theo tuyên bố của
TT. Thích Viên Định nói trên, phải đến kỳ lễ chung thất thì hai
văn kiện chúc thư và giáo chỉ mới được công bố. Chúc thư hay
giáo chỉ nào xuất hiện trước ngày đó đều là GIẢ. Đây chính là
lời của tục nam VVA viết trong TCBC, sau khi phủ nhận chúc thư
sớm phổ biến trước lễ chung thất:
“Vậy từ đây đến đó, mọi văn kiện
tiếm danh Đức cố Đệ tứ Tăng thống đều là tài liệu giả” (trích nguyên văn câu chót của TCBC từ PTTPGQT,
ngày
22/7/2008). Theo câu kết luận chắc như đinh đóng cột của tục nam VVA, chúng
ta phải hiểu một cách chắc chắn rằng
chúc thư và giáo chỉ tuyên đọc
tại Chùa Pháp Luân ngày
17/8/2008, 5 ngày trước kỳ lễ chung thất
Đức Tăng Thống, là
tài liệu giả (nhấn mạnh:
tài liệu giả).
-
Chúng ta thấy vị đệ tử xuất gia duy nhất của Đức Tăng Thống tại
hải ngoại là TT. Thích Minh Dung đã tống đạt thư mời tổ chức lễ
chung thất cho bổn sư của mình vào ngày
23/8/2008, sau lễ chung thất chính thức tại Tu viện Nguyên Thiều một ngày.
Giáo hội PGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan thì tổ
chức vào ngày
24/8/2008, sau hai ngày. Cho thấy sự tôn trọng và kính
nhường của chư tôn đức này đối với VHĐ trong nước như thế nào.
Không có lý do gì để cần phải tố chức sớm và trước lễ chung thất
chính thức, nhất là lại có chủ ý tuyên đọc chúc thư và giáo chỉ
cũng như làm lễ suy tôn trong dịp này. Phải chăng là một kiểu ăn
hớt, nói hớt, để cho VHĐ trong nước buộc lòng phải làm theo cái
đã rồi?
-
Bây giờ hãy thử nhìn lại tuần tự các sự việc diễn ra để phỏng
định nội tình về chúc thư và giáo chỉ: tục nam VVA tung tin là
sẽ có suy tôn và danh sách hội đồng lưỡng viện vào ngày
13/7/2008 trong Lễ Tưởng Nguyện và Thọ Tang Đức Tăng Thống tại
Chùa Diệu Pháp; sau đó là hai chúc thư giả tung ra, rồi lại có
sự kiện sẽ tuyên bố chúc thư và giáo chỉ cùng làm lễ suy tôn
trong ngày 17/8/2008 tại Chùa Pháp Luân, Texas. Có thể tục nam
này muốn ép HT Viện trưởng phải chấp nhận chúc thư và giáo chỉ
do tục nam sáng chế tại
Paris. Chúc thư và giáo chỉ sáng chế phải công bố sớm
chừng nào tốt chừng đó để chận đứng văn kiện thật (nếu có). Ban
đầu muốn công bố sớm, nhưng bị kềm lại, phải chờ đến kỳ chung
thất trong nước. Nếu đến lúc đó HT Viện trưởng hoặc Chánh Thư Ký
VTT công bố chúc thư hay giáo chỉ không thuận lợi cho tục nam và
phe cánh thì không ổn, do đó, phải ra tay trước: công bố ngày
17/8/2008, trước 5 ngày! Với chiêu thức táo bạo này, tục
nam buộc HT Viện trưởng một là gửi chúc thư và giáo chỉ thật
(nếu có) qua cho PTTPGQT nghiên cứu, điều chỉnh, rồi gửi ngược
lại cho Ngài đọc để “thống nhất” văn bản trong và ngoài nước;
hai là, hãy chờ VPII VHĐ công bố trước rồi VP I VHĐ dùng văn
kiện của VPII mà công bố sau.
Qua những điểm trên, bây giờ kết luận chúc
thư và giáo chỉ là thật hay giả cũng thật khó. Điều hy vọng cuối
cùng là Chúc thư và Giáo chỉ sẽ do thủ bút của Đức Tăng Thống,
như ĐĐ. Thích Đồng Thọ xác minh với VHĐ: “theo
con được biết Chúc thư của Đức Tăng Thống được Ngài Viện Trưởng
đang cất giữ và Chúc thư có lẽ được viết bằng chính bút tích của
Đức Tăng Thống chứ không phải là những bảng đánh máy vi tính và
giả con dấu cũng như chữ ký của Đức Tăng Thống.”
Ở hy vọng cuối cùng này, chúng ta hãy chờ xem, chúc thư và giáo
chỉ sẽ xuất hiện trong hình thức như thế nào. Dùng máy vi tính
để sáng chế, soạn thảo, lắp ráp bao nhiêu giáo chỉ, thông bạch,
chúc thư… cũng được cả. Nhưng bút tích của Đức Tăng Thống thì
khó mà giả. Chỉ có những họa sĩ chuyên nghiệp về thư pháp may ra
cặm cụi sao y thủ bút của người khác. Mà đã đến nước thủ bút
cũng giả được thì điều kỳ vọng sau cùng vẫn là nội dung, tinh
thần của chúc thư và giáo chỉ ấy: Trước hết, có hợp Hiến chương
không? Thứ nữa, có mang lại sự hòa hợp, đoàn kết, thanh tịnh,
tương kính, tương giáo cho giáo hội, cho bốn chúng như Phật dạy
và luật định hay không? Đây là điều mà ma Ba-tuần cũng không làm
được huống gì chỉ là một tục nam bé nhỏ.
Cầu nguyện cho mọi an lành và thanh tịnh đến với chư tôn đức và
Phật Tử khắp nơi trước cơn khủng hoảng giáo chỉ, chúc thư, thật
và giả của giáo hội trong giai đoạn mới: thiếu vắng bậc lãnh đạo
tài đức, khoan dung và từ bi vô lượng như Đức cố Tăng Thống của
chúng ta!
Úc đại lợi ngày 12 tháng 8 năm 2008
Thích Tâm Không
|