.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007

Chất vấn ông Võ Văn Ái

  • PSN - 27.08.2008 - Thích Viên Giáo

Đúng ngày 22-8-2008 (nhằm ngày 22-7 âm lịch Mậu Tý), là Lễ Chung Thất của cố Hòa thượng Thích Huyền Quang, Tăng thống GHPGVNTN. Vì tình hình phức tạp và rối ren nội bộ của giáo hội này (nhiều hơn là từ bên ngoài), có những thay đổi bất thường trong việc tổ chức ngày Lễ Chung Thất mà đúng ra, theo truyền thống Phật giáo, cần đúng ngày.

Nhưng theo các văn kiện phổ biến từ cuối tháng 7-2008, VPII Viện Hóa Đạo tại hải ngoại lại tổ chức Lễ Chung Thất Đức Tăng Thống vào ngày 17-8-2008 (sớm hơn 5 ngày) và trong dịp này sẽ công bố Chúc Thư, Giáo Chỉ của Ngài đồng thời làm Lễ Suy Tôn (một hay nhiều vị nào đó). VPII VHĐ cũng tuyên bố rằng đã được sự “ủy nhiệm” của GHPGVNTN để tổ chức buổi lễ nói trên. Thế nhưng, khi bị một vài Thầy chất vấn vì sao VPII VHĐ lại tổ chức trước VPI, và có phải những văn kiện nào ký tên Hòa thượng Huyền Quang được tuyên bố trước Lễ Chung Thất (chính thức – ngày 22-8-2008) đều là “tài liệu giả” (theo xác định của ông Võ Văn Ái (VVA) trong Tcbc ngày 22-7-2008), thì VPII VHĐ hoảng hốt, tìm cách giải thích, bằng cách ngụy tạo những văn kiện và sự kiện không có thật.

Giáo hội Thống nhất (GHTN) ở trong nước ban đầu cũng dự trù tổ chức đúng ngày, nhưng cuối cùng, do “áp lực” của VPII VHĐ tại hải ngoại mà đành phải làm lễ sớm hơn 5 ngày, tức vào ngày 17-8-2008 tại Việt Nam, lúc đó tại Hoa Kỳ còn trong ngày 16-8-2008. Ngày 17-8-2008 là ngày cuối cùng mà nếu GHTN trong nước không chịu tổ chức Lễ Chung Thất thì VPII VHĐ khó ăn nói với mọi người về lý do tại sao tổ chức sớm hơn trong nước và lại tự cho mình thẩm quyền công bố Chúc Thư và Giáo Chỉ nào đó của cố Hòa thượng Thích Huyền Quang trước cả Hội Đồng Lưỡng Viện trong nước. Thế nên, để hợp thức hóa sự sai trái của VPII VHĐ (mà ông VVA hầu như nắm toàn quyền), GHTN đã kịp thời ra Quyết Định số 31 vào ngày 16-8-2008, “ủy nhiệm” VPII VHĐ tổ chức Lễ Chung Thất tại Chùa Pháp Luân và công bố Chúc Thư, Giáo Chỉ của cố HT. Thích Huyền Quang. Có lẽ Quyết Định này cũng chỉ là quyết định “ma” được ông VVA đẻ ra nhằm ứng phó tình hình bị đổ bể sự gian manh dối trá của mình chứ GHTN trong nước cũng chẳng biết ất giáp gì. Ai cũng thấy sự “ủy nhiệm” này không cần thiết, vì VPII qua Tỳ kheo Giác Đẳng đã công bố là được GHPGVNTN “ủy nhiệm” từ cuối tháng 7-2008 rồi. Nói như thế có nghĩa là cả hai văn phòng VHĐ I và II đều dối trá một cách trắng trợn và quá xem thường sự hiểu biết của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước. Dù Quyết Định 31 là thật hay giả, do VPI hay VPII chế ra, đều cho thấy sự không trung thực (nếu không muốn nói thẳng là nói gian, nói dối) của những người đương nhiệm điều hành. Nếu Quyết Định 31 thực sự do VHĐ trong nước đưa ra, không lẽ suốt một tháng qua VHĐ không biết là VPII đã phổ biến tin tức về Lễ Chung Thất tại Chùa Pháp Luân ngày 17-8-2008 đã được GH ủy nhiệm hay sao! Không biết thì quá vô lý và quá tắc trách! Còn như đã biết mà vẫn ra Quyết Định 31 thì quả là một hành xử vô minh, vô cùng sỉ nhục đối với giác linh cố HT. Thích Huyền Quang cũng như sự hy sinh của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam đối với sự sống còn của GHPGVNTN. Còn nếu VHĐ biết rằng ông VVA đã tiếm danh GHTN để tạo ra Quyết Định 31 mà vẫn im lặng, không chất vấn, không sa thải phát ngôn nhân này thì toàn thể VHĐ không xứng đáng để lãnh đạo GH, không xứng đáng để được gọi là “Thích tử”, là những bậc xuất gia đức hạnh đại diện Đức Phật!

Tôi thấy xấu hổ và đau lòng khi GHTN mà tôi tôn kính từ nhiều năm qua mà nay ra nông nỗi này. Tôi không hiểu sao quý Ngài lãnh đạo GHTN cả trong lẫn ngoài nước lại dễ dãi, vô tâm, phó mặc cho một người thế tục thao túng, nắm hết quyền hành của GH từ mười năm qua! Đây là một pháp nạn lớn của GH, quý Ngài không thấy, không biết hay sao? Bao nhiêu bài viết góp ý, xây dựng, trình bày thực hư, phải trái, vạch rõ những sai lầm của ông VVA và những người đồng lõa như HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý, TT. Thích Giác Đẳng, TT. Thích Thiện Tâm… không lẽ GHTN nhắm mắt bịt tai không đọc, không từng một lần suy nghiệm, không từng một lần tự vấn lương tâm? Vậy thì sao có thể gọi là “lãnh đạo”! Vậy thì làm sao gọi là “cang cường, bất khuất, vô úy”! Vô úy đâu phải chỉ là không sợ bị công an kêu đi “làm việc”, hạch sách, bắt bỏ tù! Mà vô úy còn là sự can đảm chấp nhận sự sai lầm và thiếu trách nhiệm của chính mình đối với GH và đối Phật giáo Việt Nam! Vô úy cũng còn là sự uy dũng đón nhận những tấn công chỉ trích, xuyên tạc, vu khống của kẻ gian ác để công khai bày tỏ sự thật, dù sự thật này sẽ khiến mình không còn địa vị danh tiếng như trước! Nếu quý Ngài không lên tiếng cho lẽ phải, cho sự thật, cho sự quang minh của GHTN thì lịch sử sẽ ghi tội quý Ngài rất rõ ràng, từng vị một. Đừng bao giờ tưởng rằng mọi việc ở đời chỉ liên quan đến ngày hôm nay mà chỉ biết chăm lo danh vọng địa vị hão huyền cho cá nhân. Lịch sử sẽ không tha thứ sự nhu nhược kém hèn và dối trá điêu ngoa của ai vô tâm, vô tình, vô trí trước sự suy tàn của GH và của Phật giáo VN.

Nhiều vị tôn đức và Phật tử đã viết để trình bày sự thật, vạch trần sự gian dối của ông VVA, nhưng GHTN trong nước không chịu lắng nghe. Quí Ngài không nghe nhưng không có nghĩa rằng sự gian dối nơi con người ấy được khỏa lấp, lãng quên đâu! Ở trong nước quí Ngài nghe sự khoa đại về các dân biểu, chính khách, tổ chức quốc tế… từ ông VVA nên tưởng đâu ông này là nhân vật quan trọng, danh tiếng lắm, nhưng kỳ thực, hầu hết thành phần trí thức và quần chúng Phật tử ở ngoài nước có coi ông này ra gì đâu. Nhất là ở ngay tại Pháp quốc là nơi ông VVA lập nghiệp (ác), nơi mà cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế hoạt động, không ai tin tưởng và thậm chí không muốn nghe hay đọc bất cứ điều gì từ “phát ngôn nhân” này cả, đến nỗi ông phải chạy qua Mỹ để làm ăn bằng cách bòn rút máu xương của VPII Viện Hóa Đạo qua những người tham quyền cố vị ù lì.

Dù vậy, nọc độc gian dối và xảo quyệt của ông vẫn tiếp tục phun ra, làm dơ lây cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản với sự tiếp tay của một số người nhẹ dạ hoặc cố ý làm ngơ để phá nát cơ đồ Phật giáo. Thế nên, tôi chỉ xin tóm lược một số vấn đề để đặt thẳng với ông VVA mà cũng đặt ra với VPII VHĐ (mà ông là thành viên chủ yếu biến các thành viên khác thành những người giúp việc dễ sai bảo), xin ông lần lượt giải thích rõ ràng, công khai trước quần chúng, bằng Thông cáo Báo chí của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, để làm sáng tỏ con người của ông cũng như con đường sai lầm của VPII Viện Hóa Đạo đã đẩy GHTN vào vực thẳm như thế nào. Nếu ông VVA không trả lời thỏa đáng những câu hỏi này, GHTN nên nhìn lại, xét lại, may ra còn kịp thời gian quay đầu mà thấy con đường sáng của tiền nhân, của Lịch Đại Tổ Sư và Thánh Tử Đạo.

Các câu hỏi sau đây chỉ là dựa vào các bài viết mà chư tôn đức và các cư sĩ Phật tử đã từng nêu ra trước đây mà không thấy VHĐ trong và ngoài nước trả lời. Việc mới trước, cũ sau.

 

BỊA ĐẶT SỰ ỦY NHIỆM CÔNG BỐ CHÚC THƯ, GIÁO CHỈ

1)      Có phải VPII VHĐ đã tiếm danh GHTN trong nước, tự “ủy nhiệm” tổ chức Lễ Chung Thất và công bố Chúc Thư và Giáo Chỉ Đức Tăng Thống vào ngày 17-8-2008 tại Chùa Pháp Luân, Texas? Nếu thực sự có sự ủy nhiệm vậy văn thư nào chứng minh có sự ủy nhiệm đó trước ngày 23-7-2008 là ngày HT. Thích Hộ Giác ký Thông Tư và Thư Mời tham dự Lễ Chung Thất này?

2)      Khi bị vạch trần âm mưu “tự ủy nhiệm” này, có phải ông VVA và VPII VHĐ đã sáng chế ra Quyết Định số 31, nói là do Hội Đồng Lưỡng Viện trong nước ban hành ngày 16-8-2008 hay không? Nếu thực sự có Quyết Định 31, vậy văn kiện này đâu mà không thấy đăng với ấn ký và bút tích của HT. Viện trưởng? Có phải là đang còn dùng kỹ thuật vi tính để lắp ráp con dấu và chữ ký nên chưa kịp phổ biến?

3)      Nếu Quyết Định số 31 ký ngày 16-8-2008 có thực thì nó có chút giá trị nào đối với Lễ Chung Thất tại Chùa Pháp Luân không? Vì Quyết Định này chỉ mới có vào ngày 16-8-2008 trong khi chương trình và nội dung buổi lễ đã được phổ biến từ ngày 23-7-2008 qua Thông Tư và Thư Mời của HT. Thích Hộ Giác?

4)      Ông VVA trích dẫn Quyết Định 31 ngày 16-8-2008, nói rằng “do những áp lực ngoại tại ngăn cấm không cho Phái đoàn Giáo hội về Tu viện Nguyên Thiều tổ chức lễ Chung Thất Đức cố Đệ tứ Tăng Thống nên HĐLV lấy quyết định tổ chức tại Saigon và cùng thời gian với VPII VHĐ (17-8-2008)”. Vậy có phải VPII là chính yếu, cao hơn và quan trọng hơn VPI hay không? Hay chỉ vì “áp lực” của VPII khiến VPI phải “khâm tuân” tổ chức sớm hơn dự trù để tránh tiếng vô lễ và vô lý của VPII?

 

CHÚC THƯ VÀ CÁC GIÁO CHỈ, THÔNG BẠCH

5)      Nếu không bị “áp lực” nào cả, Hội đồng Lưỡng viện sẽ tổ chức lễ Chung Thất tại Tu viện Nguyên Thiều sau lễ Chung Thất do VPII tổ chức tại Chùa Pháp Luân 5 ngày. Vậy khi VPII công bố Chúc Thư và Giáo Chỉ tại Chùa Pháp Luân thì có phải là đọc “tài liệu giả” tiếm danh Đức cố Đệ tứ Tăng Thống như lời ông VVA khẳng định trong Tcbc ngày 22-7-2008 hay không?

6)      Chúc Thư của Đức Tăng Thống ký ngày 17-01-2005 có thật hay không? Sao không thấy PTTPGQT đăng nguyên vẹn Chúc Thư này mà chỉ thấy bút tích ký tên và con dấu của Đức Tăng Thống? Có phải là VPII chỉ nhận được bút tích ký tên và con dấu của Đức Tăng Thống từ trong nước chụp lại (scan) và gửi ra, còn phần nội dung Chúc Thư thì tùy VPII soạn thảo hoặc dựa vào bản chính mà sửa đổi tùy ý?

7)      Trong Thông cáo Báo chí ngày 20-8-2008, ông VVA cho biết có 3 Chúc Thư “giả” và một bản Chúc Thư do VPII công bố (bản này chưa có thể xác định là bản “thật” vì giữa 4 bản không có gì khác biệt về bút tích ký tên và con dấu của Đức Tăng Thống – bút tích mực xanh và con dấu mực đỏ do ông VVA phổ biến được tách riêng khỏi nội dung Chúc Thư nên không chứng minh được bản Chúc Thư do VPII công bố là Chúc Thư “thật”). Ông tạm đặt tên cho 3 Chúc Thư “giả” là bản A, B và C; tôi tạm đặt tên cho bản của VPII công bố là bản D. Ông VVA nói “Ba bản Chúc Thư giả A, B và C, đều ‘nhất trí’ ở hai điểm…”: một là gạt bỏ HT Thích Quảng Độ ra khỏi chức vụ hiện hành và chức vụ do Đức Tăng Thống ủy thác (nơi bản D); hai là “công cử TT. Thích Tuệ Sỹ lên chức Viện trưởng Viện Hóa Đạo”. Nếu ông dựa vào số lần được “ủy nhiệm” hay “công cử” trong 4 văn bản nói trên mà cho rằng có sự âm mưu đưa TT. Thích Tuệ Sỹ lên thì ông quá hàm hồ, quá sai một cách đầy ác ý, ngậm máu phun người! Bởi vì trong 4 bản Chúc Thư lưu hành, có 3 bản (A, B và C) “công cử” TT. Thích Tuệ Sỹ làm Viện trưởng VHĐ (theo cách ông VVA cố tình phân tích và gợi ý cho người ta hiểu sai về TT. Thích Tuệ Sỹ), trong đó cũng có 2 bản (A và C) “công cử” HT. Thích Thiện Hạnh (làm Tăng Thống và Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống), nhưng lại cũng có đến 3 bản (B, C và D) “nhất trí” đặc biệt lưu tâm “duy trì và phát huy hơn nữa” PTTPGQT do ông VVA làm Giám đốc! Những chức vụ ủy thác hay công cử TT. Thích Tuệ Sỹ sẽ không thể xảy ra, vì theo Hiến Chương, Đức Tăng Thống không có quyền ủy thác hay công cử Viện trưởng VHĐ (mà cho dù Đức Tăng Thống có ân cần dặn dò cái ý đó đi nữa, TT. Thích Tuệ Sỹ cũng sẽ không bao giờ đón nhận một chức vụ đi tắt ngang không hợp Hiến chương giáo hội). Nhưng khen ngợi PTTPGQT “hoạt động hiệu quả từ nhiều năm qua” và huấn thị “nay cố duy trì và phát huy hơn nữa” thì rõ ràng là có âm mưu mượn Chúc Thư của Đức Tăng Thống để củng cố vị thế của PTTPGQT đối với giáo hội, phải vậy không ông VVA? Các Chúc Thư giả vì vậy có phải là trò ma mãnh của ông trước nhất là để “hù” HT. Viện trưởng là có một âm mưu lật đổ Ngài, thứ hai là để “vu oan giá họa” cho TT. Thích Tuệ Sỹ, và quan trọng nhất là đề cao chính ông hay không?

8)      Chẳng qua ông VVA sợ một ngày nào vô thường xảy ra, HT. Viện trưởng về cõi Phật, vị Phó Viện trưởng VHĐ là TT. Thích Tuệ Sỹ lên thay thế (đúng theo Hiến Chương) thì ông VVA sẽ khó làm việc (vì không thể dùng danh lợi để mua chuộc bậc trượng phu cứng cỏi và thanh liêm như TT. Thích Tuệ Sỹ) nên từ năm 2003, sau Đại Hội Bất Thường tại Tu viện Nguyên Thiều, ông VVA đã tìm mọi cách để loại trừ TT. Thích Tuệ Sỹ ra khỏi giáo hội. Đó là lý do có sự xuyên tạc, chụp mũ TT. Thích Tuệ Sỹ một cách tàn bạo và tiểu nhân của ông VVA và các vị đồng lõa trong VPII suốt nhiều năm qua. Mà cho đến giờ phút này, trong Tcbc hàm hồ mượn Chúc Thư giả để tố giác TT. Thích Tuệ Sỹ, ông VVA và VPII vẫn chưa có một chứng cớ hay dữ liệu nào để chứng minh TT. Thích Tuệ Sỹ “đầu hàng CS”, hoặc có tham vọng tranh ngôi vị Viện trưởng. Phải không ông VVA? Nếu không phải, ông hãy đưa bằng chứng về những cái gọi là “âm mưu” của TT. Thích Tuệ Sỹ? Không có bằng chứng thì những gì ông và mấy người đồng lõa của VPII dùng “hết sức bình sinh” tố giác, ầm ĩ tấn công TT. Thích Tuệ Sỹ từ nhiều năm qua đều chỉ là phản ảnh của nỗi hoảng sợ và lo âu thấp hèn của một bầy quạ đối với chúa sơn lâm mà thôi. Giáo chỉ số 2, số 9, số 10, cũng như Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 đều thoát thai từ sự hoảng sợ này mà ra, phải không ông VVA?

9)      Cũng trong Tcbc ngày 20-8-2008, ông VVA nói rằng “’Nhóm Thân Hữu Già Lam’ và nhóm ‘Về Nguồn’ ở Hoa Kỳ, Canada, Âu châu và Úc châu…” vận động từ 5 năm qua để TT. Thích Tuệ Sỹ được lên chức Viện trưởng VHĐ. Lại nói đó là “mục tiêu Bộ Công an vận động ráo riết cho Thượng tọa sớm đoạt chức này”. Bằng chứng đâu, hãy trưng dẫn! Không trưng dẫn được thì chỉ là sự vu khống rẻ tiền chỉ thấy ở những kẻ thấp bé tiểu nhân, suy bụng ta ra bụng người.

10)  Tại sao cái gì thuộc tình báo, phản gián, công an, tài liệu mật của Bộ nội vụ (CSVN)… ông VVA đều nói là mình biết và đưa ra những nhận định có vẻ một trăm phần trăm có thực? Có phải ông là nhị trùng, vừa hoạt động cho Pháp hoặc Mỹ, lại vừa cho CSVN? Nếu không phải đặc tình (tình báo đặc biệt) thì vì lý do nào, ông có được tài liệu “mật” từ trước đến nay (theo những công bố của ông)? Tại sao ông biết các Chúc Thư giả (bản C) là bản được cơ quan phản gián của Bộ Công an dùng để tung ra ngày 17.8”? Nếu không được CSVN cung cấp tài liệu vậy chỉ là suy đoán thôi sao? Suy đoán mà sao lại nói như thật để rồi từ những suy đoán này, tạo ra bao nhiêu khủng hoảng về giáo chỉ, thông bạch phá nát sự hòa hợp của Tăng Ni và cư sĩ thuộc GHPGVNTN trong và ngoài nước?

11)  Chúc Thư C là do cơ quan phản gián Bộ Công An tung ra hay cũng là của chính ông VVA sai thuộc hạ từ Việt Nam đưa ra? Sự thâm độc và nham hiểm này được cáo giác trước bởi chư tôn đức tại Canada và Úc đối với các Chúc Thư giả A và B (nghĩ rằng do từ một nguồn ở QM, Paris), nên cuối cùng, ông VVA đành chịu “khổ nhục kế”, dùng ngay chính Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế của mình để ra TCBC về Lễ Chung Thất tại Chùa Giác Hoa, đồng thời xảo quyệt tạo cớ để kết tội kẻ khác. Trình tự tạo chúc thư giả để thăm dò và tấn công đối phương của ông VVA và các đồng lõa diễn ra như sau: 1) Bản A, cố tình lộ liễu vụng về, hoàn toàn không giống Chúc Thư D (sẽ được công bố như là Chúc Thư Thật), cố ý đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ vào để hại vị này đồng thời hăm dọa HT. Viện trưởng về việc mất chức; 2) Bản B, gần giống Chúc Thư D một chút, cũng cố ý đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ vào và gạt tên HT. Viện trưởng ra; 3) Bản C, gần giống nhất, dùng chính Tcbc của PTTPGQT, cũng đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ vào, gạt bỏ HT. Viện trưởng ra. HT. Viện trưởng mà đọc được 3 Chúc Thư giả A, B và C sẽ hoảng hốt giao khoán cho ông VVA mau mau ra Chúc Thư D tùy ý sửa đổi thế nào cũng được, miễn là bảo vệ Ngài, bảo vệ lưỡng viện là được rồi, phải không ông VVA?

12)  Trong Tcbc ngày 20-8-2008, ông VVA nói là cơ quan phản gián của công an CSVN  đã “tiếm danh” PTTPGQT, tung ra Tcbc 5 giờ trước Tcbc “thật”. Nhưng đọc và đối chiếu hai bản Tcbc này, người ta có cảm giác như cũng chỉ một tác giả. Tcbc gọi là “giả” có vẻ như là một bản thật để chuẩn bị đăng, nhưng vì lý do nào đó, đã dùng nó để một lần nữa, tung thêm một Chúc Thư giả khác trước khi công bố Chúc Thư “thật”. Chỉ nói rằng Tcbc kia là “giả” mà chẳng có lời nào giải thích, làm sao biết giả? Giả và thật khác nhau chỗ nào mà sao giọng văn của hai Tcbc thật khó phân biệt?

13)  Trong Tcbc cùng ngày 20-8-2008, ông VVA nói Tcbc “giả” của công an viết còn “chi tiết hơn thông cáo báo chí thật”, “Dù tin thất thiệt về Chúc thư GIẢ theo bản C, nhưng miêu tả các vụ phong tỏa và đàn áp lại rất chính xác”, rồi ông lại mời “bạn đọc cùng thưởng thức lối dối gạt số dzách của Công an. Khi cần sử dụng ngôn ngữ tố cộng, công an cũng rất “nghiệp vụ” và vượt xa các phong trào Chống Cộng.” Cách nói của ông VVA ở đây, trong vai trò “phát ngôn nhân” VHĐ, phổ biến trên một Tcbc thuộc cơ quan truyền thông của Giáo hội, lại dùng thứ ngôn ngữ “chợ trời ở Chợ Lớn” để nói với quần chúng hay sao! “Số dzách” là gì, có trong từ điển chuyên khoa của Việt Nam hay không? Dùng tiếng “chợ trời” ở đây có phải ông VVA quá xem thường người đọc hay không? Và có phải là quá xem nhẹ vai trò “phát ngôn nhân” VHĐ mà ông đảm nhận hay không? Lại nói “công an cũng rất ‘nghiệp vụ’ và vượt xa các phong trào Chống Cộng” có phải là tự mai mỉa PTTPGQT, châm biếm các phong trào tố cộng và chống Cộng tại hải ngoại hay không? Ở phát biểu này, một là ông chê những người chống Cộng không miêu tả chi tiết, thật và chính xác về chuyện đàn áp như công an, hai là ông tự tố giác rằng tố cộng rất “nghiệp vụ” (giống như chính ông, HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý và TT. Thích Giác Đẳng) chưa chắc là chống Cộng thật, có khi lại chính là cộng sản, phải không ông VVA?

14)  Trong tập “Kỷ Yếu Đức Đệ Tứ Tăng Thống” do PTTPGQT xuất bản nhân Lễ Chung Thất Ngài tổ chức tại Chùa Pháp Luân, trang II và III có đăng Chúc Thư (bản đánh máy) của Đức Tăng Thống. Cuối Chúc Thư có chú thích của PTTPGQT rằng “Chúc Thư của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang viết ngày 17.01.2005 - Bản chính có thủ bút gồm 2 trang chụp lại.” Người đọc tìm hết cuốn Kỷ Yếu vẫn không thấy có trang nào đăng thủ bút của Đức Tăng Thống cả. Bản thủ bút là chính mà không đăng, chỉ đăng bản đánh máy không thôi thì có khác gì những Chúc Thư mà ông VVA gọi là “giả” kia? Phải chăng nội dung Chúc Thư bằng thủ bút của Đức Tăng Thống có những điều không tiện công bố với công luận, hay là PTTPGQT đang còn dành thời gian để học giả nét chữ của Ngài mà sửa đổi Chúc Thư cho phù hợp với bản sao đã phổ biến? Còn nếu nói rằng thủ bút chỉ là những giòng cuối ghi ngày tháng và ký tên thôi, vậy thì phần nội dung ở trên ông VVA và VPII muốn ghi gì lại chẳng được? Có gì bảo đảm là Chúc Thư thật!?

15)  Nếu Chúc Thư của Đức Tăng Thống ký ngày 17-01-2005 là có thật, vậy ở điều 4 có ghi: Văn phòng II Viện Hóa Đạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại các Châu đã hình thành và hoạt động kỷ cương, nền nếp từ 12 năm qua. Xin chư Liệt vị đặc biệt lưu tâm để trong ngoài hòa hiệp gây trợ duyên cho đạo Phật Việt Nam góp mặt cùng thế giới trong công cuộc tịnh hóa nhân gian, xây dựng hòa bình trước bao khuynh hướng bạo động.” Điều 4 này chứng tỏ cho đến đầu năm 2005, Đức Tăng thống vẫn công nhận và tin tưởng Giáo Hội PGVNTN tại Hoa Kỳ và các Châu, cũng như lạc quan về việc “trong ngoài hòa hiệp” tức là sinh hoạt giữa VHĐ trong nước với các giáo hội ngoài nước; thế sao chỉ 10 tháng sau là Ngài đã ký Giáo Chỉ số 2, loại bỏ quá bán thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, rồi 2 năm sau lại ban Giáo Chỉ số 9, giải tán hết giáo hội tại Hoa Kỳ và các Châu? Giáo chỉ số 02 có thật hay không? Giáo chỉ số 2 quan trọng như vậy sao không thấy công bố với bút tích và ấn ký của Đức Tăng Thống?

16)  Có thư mời họp hay biên bản nào ghi nhận một Đại hội Khoáng Đại hay Bất thường của Hội Đồng lưỡng viện xảy ra vào tháng 11-2005, với thành phần tham dự là những ai, ký tên, để tiến đến việc đệ trình Quyết Định thỉnh cầu Đức Tăng thống chuẩn y và ban hành Giáo chỉ số 2 hay không? Hay Giáo chỉ này chỉ là sự tiếm danh, bịa đặt của ông VVA và các đồng lõa?

17)  Cũng chính Giáo chỉ số 2 này, vừa cung thỉnh 10 vị Hòa thượng tại hải ngoại vào Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống (như HT. Thích Tâm Châu, HT. Thích Mãn Giác, HT. Thích Thuyền Ấn, HT. Thích Thắng Hoan, HT. Thích Minh Tâm, HT. Thích Như Huệ, HT. Thích Trí Chơn, HT. Thích Chơn Thành…) thì hai năm sau đã ban hành Giáo chỉ số 9, giải tán, bất tín nhiệm hết những vị này (ngoại trừ HT. Thích Mãn Giác đã viên tịch và 2 vị “chí thành khâm tuân” hiệu lệnh của ông VVA là HT. Thích Hộ Giác và Thích Chánh Lạc). Giáo chỉ số 9 sai lầm, bất minh, vô tình như thế không thể nào được Đức Tăng Thống chuẩn y. Vậy ai là người ráp con dấu và chữ ký của Ngài vào văn kiện ấy? Sự ráp nối ấn ký của Ngài được tìm thấy rõ  ràng (như hướng dẫn của Diệu Trang Nghiêm) nếu dùng Photoshop để mở Giáo chỉ số 9 (PDF) đăng tải trên Quê Mẹ (PTTPGQT). Ông VVA không làm việc ráp nối ấn ký của Đức Tăng Thống để tạo ra Giáo chỉ số 2 và số 9 phá nát GHPGVNTN thì là ai?

18)  Giáo chỉ số 01/VTT/GC/TT, do Đức Tăng Thống ký ngày 20-02-2008, suy cử HT. Thích Hộ Giác lên ngôi vị Phó Tăng Thống có thực hay không, sao không thấy PTTPGQT đăng tải mà chỉ thấy trích đoạn? Tại sao không công bố rõ ràng với ấn ký của Đức Tăng Thống? Nếu vì đây là giáo chỉ “thật” của nội bộ giáo hội nên không cần phổ biến ấn ký của Tăng Thống vậy sao Giáo chỉ số 9 và 10, cũng như các Quyết Định của VHĐ trước đây đều đăng nguyên vẹn nội dung và chữ ký, con dấu? Có phải vì giả nên cần phải chứng minh không?

19)  Giáo chỉ số 01 đã ký từ lâu sao lại đợi đến khi Đức Tăng Thống viên tịch mới đem ra công bố, phải chăng có điều gì khúc mắc?

20)  Giáo chỉ số 01 có bị mất hiệu lực vì quá xa thời gian chuẩn y và ban hành, lại không theo đúng chỉ thị của Đức Tăng Thống là tiến hành lễ suy tôn vào dịp Phật Đản 2008 hay không?

21)  Nếu Giáo chỉ số 01 mà có giá trị vô thời hạn, lúc nào đem ra đọc và ban hành cũng được, không cần phải tuân theo thời gian qui định, vậy trong trường hợp sau khi Đức Tăng Thống chuẩn y vài tháng, người được chuẩn y thay đổi đường hướng lập trường, phá hòa hiệp tăng, phá giới hoặc phạm luật hình sự đối với luật pháp thế gian, bỏ đạo hoặc hoàn tục, không lẽ VHĐ cũng đem ra ban hành?

22)  Nếu Giáo chỉ đã chuẩn y mà không ban hành phải chăng có sự đổi ý của Đức Tăng Thống đối với đương sự? Hay là Ngài đã chuẩn y và ban hành nhưng lại có sự kềm giữ, bất khâm tuân của những người trong Hội đồng Lưỡng viện trong nước, hay của VPII VHĐ?

23)  Tại sao Giáo chỉ số 2 ban hành ngày 29-11-2005, Giáo chỉ số 9 ban hành ngày 08-9-2007, Giáo chỉ số 10 ban hành ngày 02-12-2007, mà Giáo chỉ số 01 lại ban hành ngày 20-02-2008? Nếu Giáo chỉ số 01 thực sự do Đức Tăng Thống chuẩn y và ban hành, có phải Ngài ngầm nói cho mọi người biết rằng Ngài chưa từng chuẩn y và ban hành bất cứ một giáo chỉ nào khác trước đó? Vậy, giáo chỉ số 2, số 9 và 10 đều tiếm danh Đức Tăng Thống, phải không ông VVA?

24)  Các giáo chỉ lưu nhiệm xuất hiện vào giờ chót trong 3 Đại hội Khoáng Đại của GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ (1996, 2000, 2004) có thật không hay chỉ là văn kiện “cứu nguy” của ông VVA nhằm giữ lại địa vị của những người tham quyền cố vị như HT. Thích Chánh Lạc (Phó chủ tịch muôn năm), TT. Thích Viên Lý (Tổng thư ký muôn năm – đã trải qua 16 năm, nay tiếp tục trên lộ trình “vô thời hạn” theo Giáo chỉ số 9)? Nếu các giáo chỉ này có thật, chúng mang số mấy, có ấn ký của Viện Hóa Đạo hay Viện Tăng Thống hay không?

25)  Trong Tcbc ngày 10-11-2004, ông VVA hết lời ca ngợi “Lễ hội GĐPT Việt Nam Trên Thế Giới” được tổ chức tại Bồ đề Đạo tràng, Ấn Độ vào các ngày 07, 08 và 09 tháng 11, 2004 thành công viên mãn. Ngoài sự tài trợ rất nhiệt tình của chư tôn đức lãnh đạo GHPGVNTN Hải ngoại còn có sự trực tiếp tham dự chứng minh của Thượng tọa Thích Viên Lý, Phó Tổng Thư ký Viện Hóa Ðạo kiêm Tổng Thư Ký Hội Ðiều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ - Văn phòng II Viện Hóa Ðạo, Thượng tọa Thích Như Ðiển, Tổng Thư Ký Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu và cũng là Phương trượng chùa Viên Giác tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, Ấn Ðộ, và Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn Hóa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ - Văn phòng II Viện Hóa Ðạo. Kết thúc Ðại hội ở Bồ Ðề Ðạo tràng hôm thứ ba 9.11.2004, Gia đình Phật tử Việt Nam Trên Thế giới đã ra hai bản Quyết Nghị...” (trích Tcbc nói trên). Thế nhưng, đến Tcbc ngày 04-04-2007, ông VVA lại mượn ấn ký của HT. Viện trưởng, ra Thông bạch số 04/VHĐ/TB/VT, không công nhận tổ chức GĐPTVN Trên Thế Giới, và làm bộ không hay biết gì về sự ra đời của tổ chức này cả, với lời lẽ “ngây thơ” như sau: Tuy nhiên gần đây bỗng xuất hiện một danh xưng mới có tên là ‘Gia Đình Phật tử Việt Nam Trên Thế giới’ gây thắc mắc dư luận. Để tránh mọi ngộ nhận có thể xẩy ra, tôi xin thông bạch để Chư tôn giáo phẩm các cấp Giáo hội trong và ngoài nuớc liễu tri, rằng Giáo hội không có tổ chức nào mang danh xưng nói trên. Do đó, Giáo hội không chịu trách nhiệm bất cứ hành vi hay sinh hoạt nào của tổ chức này khi có sự lợi dụng liên quan đến Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tổ chức Gia Đình Phật tử Việt Nam”. Khi thì ca tụng hết lời, khi thì tảng lờ không hay biết, đó là thái độ của hạng người nào trong xã hội? Nếu trước đây ủng hộ nhưng nay hết ủng hộ thì cứ nói thẳng lý do, sao lại ra Thông Bạch với lời lẽ như không hề hay biết một sự kiện lịch sử quan trọng trong sự chuyển mình của tổ chức GĐPTVN-một đứa con trung kiên của giáo hội--vào tháng 11-2004 nói trên!

 

ÔNG VÕ VĂN ÁI VÔ LỄ VỚI TĂNG NI

26)  Trong Đại hội Thường niên kỳ I, nhiệm kỳ IV của GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ tại Chùa Phật Pháp, Florida vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 10 năm 2005, ông VVA đã vận động chư tôn đức và cư sĩ tham dự đóng góp khoảng $20,000 mỹ kim (hai mươi nghìn đô la Mỹ) để thực hiện tập tài liệu “30 năm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đấu tranh cho Tự do Tôn giáo và Nhân quyền”. Tiền đã đóng dư ngoài mong đợi, nhưng từ ngày nhận tiền bỏ túi riêng cho đến nay, chưa thấy ông VVA cho xuất bản tập tài liệu ấy. Đây có phải là hành vi lường gạt, gian dối và bất kính đối với Tăng Ni một cách trắng trợn không? Số tiền đóng góp đó nay ở đâu sao không thấy hoàn trả, cũng không thấy thông báo gì về tập tài liệu? Hành vi lường gạt, “ăn cướp” giữa ban ngày như vậy một mình ông VVA chịu trách nhiệm hay là cả VPII VHĐ cùng liên đới? Nếu VPII vô can trong việc này sao lại im lặng để cho vị “phát ngôn nhân cao quý hữu công” của VHĐ lường gạt Tăng Ni và các thành viên cư sĩ khác của giáo hội!

27)  Trong email của ông VVA gửi cho một số thành viên GHTN, tựa đề: “Ngao ngán cho những người viết bài này”, gửi ngày thứ Bảy, 26-01-2008, lúc 11:27 am, ông gọi chư Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại tổ chức Ngày Về Nguồn là “Nhóm Về Nguồn Mác-Lê-Hồ,” lại chửi hai Thầy Thích Nguyên Tạng và Thích Giác Tín là “ăn cơm mới nói chuyện cũ rất thâm độc và xỏ lá”! Ông VVA trả lời có hay không?

28)  Trong bài viết (có thâu âm và phát thanh) tựa đề “Phật Giáo Thời Cộng Sản và Những Liên Hệ Gây Động Loạn và Mâu Thuẫn”, đăng trên Quê Mẹ ngày 14-01-2008, ông VVA đã gọi chư tôn đức Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Hội Thân Hữu Già Lam và chư tôn đức không tán đồng Giáo Chỉ số 9 bằng những tiếng rất vô lễ, phàm tục, như “Các nhà sư và cư sĩ rối nước”, “hành tích đi đêm ăn vụng”, “gian hàng biến thành chùa viện”, “bọn này”, “bầy lâu la”, “đểu cáng”, v.v… Bài này vẫn còn đăng trên trang lưới Quê Mẹ, phổ biến một vài websites cùng lập trường phá hoại Phật giáo khác. Ông VVA có dám công khai phủ nhận là ông không nói hay không?

29)  Ông VVA có nói và bút tích còn sờ sờ nơi bài viết đó, vậy tại sao trong cuộc hội thảo của VPII Viện Hóa Đạo hôm thứ Bảy 23-02-2008 tại nhà hàng Regent West, Santa Ana, Nam California, khi ông Nguyễn Thanh Huy chất vấn ông về việc ông VVA vô lễ với chư Tăng thì ông lại trả lời: “Nếu anh tìm ra được một lời nào, câu nào, chỗ nào mà tôi xúc phạm đến chư Tăng thì tôi xin lạy anh hai lạy”. Ông Nguyễn Thanh Huy liền xin phép cho mở cuốn CD có thâu âm bài nói chuyện trên thì những cò mồi của ông VVA nhao nhao phản đối, và TT. Thích Viên Lý nói là hết giờ cho ông Nguyễn Thanh Huy (chưa được 3 phút theo qui định cho mỗi người, trong khi bà ĐBK, chuyên gia biểu tình phá rối các chùa Phật giáo thì lại được nói huyên thuyên 15 phút!). TT. Thích Viên Lý thiên vị và sợ hãi sự thực một cách trắng trợn trước quần chúng. Còn ông VVA, nếu là người có ăn học thì dám nói dám chịu, sao lại chối bai bải, không dám nhìn nhận những gì mình nói và làm? Đây có phải là hành xử của người trí thức, có văn hóa hay không?

30)  Trong Tcbc ngày 26-9-2007, ông VVA kết án một số tôn đức là “thỏa hiệp với cộng sản”, nói rằng “Họ gọi kêu tu học, văn hoá, giáo dục... thuần túy, nhưng kỳ thực là đang trá hàng và trá hình bằng thứ tư tưởng cà lăm của những kẻ xin làm tôi đòi cho chế độ phi dân tộc, phi đạo lý, là chế độ Cộng sản.” Yêu cầu ông VVA trưng dẫn bất cứ một câu nói hay câu viết nào nói lên cái ý “kêu gọi tu học, văn hóa, giáo dục… thuần túy”“đang trá hàng và trá hình” cũng như “xin làm tôi đòi cho chế độ” của Tăng Ni! Không có bằng chứng nào cả mà chỉ suy luận theo thành kiến của mình rồi cho rằng Tăng Ni thế này thế kia, thì có phải là ông cố tình xuyên tạc, vu khống, miệt thị Tăng bảo hay không!

31)  Cũng trong Tcbc ngày 26-9-2007, ông VVA viết “Tại hải ngoại, người ta chứng kiến một số Tăng Ni, Phật tử huyên truyền cho việc hợp tác với nhà cầm quyền Cộng sản theo chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước. Luận điểm của họ là : "Tranh đấu 30 năm qua được gì ? Chỉ như húc đầu vào tường mà thôi ! Nay phải thỏa hiệp với Nhà nước để có thể xây dựng chùa chiền "như bên Công giáo xây dựng Nhà thờ", để có thể "đào tạo nhân sự, Tăng Ni"". Yêu cầu ông VVA hãy đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho thấy có sự hình thành một tổ chức “trong nước” tên là “Nhóm Thân Hữu Già Lam”? Những câu nói, câu viết nào của “một số Tăng Ni” tại hải ngoại cho thấy là làm “theo chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước”? Những chứng liệu nào đưa ông đến kết luận rằng “Luận điểm của họ là…” thế này thế kia?

32)  Tcbc cùng ngày 26-9-2007, ông VVA trách cứ TT. Thích Tuệ Sỹ và Gs. Lê Mạnh Thát là im lặng để cho học trò đánh phá GHPGVNTN. Lời lẽ lên án đầy sân si, mang tính cách “thô lỗ, thiếu văn hóa” của ông (qua nhiều bài viết và phát ngôn có chứng minh rõ ràng) để gán cho chư Tăng. Ông viết Đáng buồn và khó hiểu, vì sao hai ngài có thể điềm nhiên tọa thị để cho nhóm đệ tử của hai ngài, còn mặc áo tu hay đã ra đời, mở chiến dịch đánh phá GHPGVNTN, đánh phá chư huynh đệ pháp lữ hay người đồng đạo một cách sỗ sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa ? Nhất là tỏ lời bất kính và hỗn láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước?” Bằng chứng nào cho thấy các vị Tăng và cư sĩ học trò của hai vị này “mở chiến dịch đánh phá GHPGVNTN” và đâu là tính cách “sỗ sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa”? Đâu là những lời “bất kính và hỗn láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước”, ông VVA hãy trưng ra? Không có bằng chứng nhưng ông vẫn cố tình nói càng như vậy để hủy báng Tăng bảo thì có xứng là người con Phật hay không? Có xứng là người có văn hóa hay không?

33)  Trong Tcbc mới nhất, ngày 25-8-2008, tựa đề Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch không công nhận các tổ chức Phật giáo tiếm danh GHPGVNTN tại Canada, Úc châu và Âu châu”, ông VVA lên án chư tôn đức Tăng Ni thuộc GHPGVNTN tại châu Âu, châu Úc, Canada và Hoa Kỳ là “bắt cá hai tay hay lập lờ đánh lận con đen”. Ông VVA hãy trả lời có hay không?

Nếu “phát ngôn nhân” Viện Hóa Đạo là ông VVA đã từng vô lễ với những người xuất gia (một trong ba ngôi báu – Tam Bảo), với tập thể Tăng-già (bao gồm những vị thánh tăng và bồ-tát hóa thân mà mắt thường không biết được), mà Viện Hóa Đạo vẫn không lên tiếng khuyên can, cũng chưa một lần ngỏ lời xin lỗi, sám hối, thì chính Viện Hóa Đạo, trực tiếp là VPII, cũng đồng thuận với ông VVA, khinh thường thập phương Tăng; từ chỗ khinh thường, đã tạo ra những tội lỗi to lớn, trầm trọng trong việc phá sự hòa hợp của Tăng. Trọng tội này không có công đức nào có thể chuộc hết. Đơn cử vài điểm còn ghi trên các Tcbc, CD và băng phát thanh chứ phải nêu hết những lời ông VVA thóa mạ, chửi bới chư Tăng thì vô số, không sao làm được.

Trên đây là 33 câu hỏi, tóm lược hàng ngàn vấn nạn của nhiều Tăng Ni và Phật tử khác ở khắp nơi kể từ khi Giáo chỉ số 2, số 9 và Thông bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 ban hành. Nếu ông VVA và VPII VHĐ không trả lời thỏa đáng những câu hỏi này, xin quý vị Tăng Ni và Phật tử đừng tin, đừng nghe, đừng đọc bất cứ điều gì từ họ.

Sự thực trước sau gì cũng hiển lộ, bởi vì lớp sơn ngụy trá, dối gian, sẽ không thể tồn tại lâu dài trên cuộc sống này, nhất là trong sinh hoạt của Phật giáo, vốn là một tập thể lấy giáo lý NHƯ THỰC của Đức Thế Tôn làm kim chỉ nam, làm ngọn đuốc soi sáng cho lộ trình hướng về giải thoát và giác ngộ.
 

26-8-2008
Thích Viên Giáo

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.