Chất
vấn ông Võ Văn Ái
-
PSN - 27.08.2008 - Thích Viên Giáo
Đúng ngày
22-8-2008
(nhằm ngày 22-7 âm lịch Mậu Tý), là Lễ Chung Thất của cố Hòa
thượng Thích Huyền Quang, Tăng thống GHPGVNTN. Vì tình hình phức
tạp và rối ren nội bộ của giáo hội này (nhiều hơn là từ bên
ngoài), có những thay đổi bất thường trong việc tổ chức ngày Lễ
Chung Thất mà đúng ra, theo truyền thống Phật giáo, cần đúng
ngày.
Nhưng theo các văn kiện phổ biến từ cuối tháng 7-2008, VPII Viện
Hóa Đạo tại hải ngoại lại tổ chức Lễ Chung Thất Đức Tăng Thống
vào ngày 17-8-2008 (sớm hơn 5 ngày) và trong dịp này sẽ công bố
Chúc Thư, Giáo Chỉ của Ngài đồng thời làm Lễ Suy Tôn (một hay
nhiều vị nào đó). VPII VHĐ cũng tuyên bố rằng đã được sự “ủy
nhiệm” của GHPGVNTN để tổ chức buổi lễ nói trên. Thế nhưng, khi
bị một vài Thầy chất vấn vì sao VPII VHĐ lại tổ chức trước VPI,
và có phải những văn kiện nào ký tên Hòa thượng Huyền Quang được
tuyên bố trước Lễ Chung Thất (chính thức – ngày 22-8-2008) đều
là “tài liệu giả” (theo xác định của ông Võ Văn Ái (VVA) trong
Tcbc ngày 22-7-2008), thì VPII VHĐ hoảng hốt, tìm cách giải
thích, bằng cách ngụy tạo những văn kiện và sự kiện không có
thật.
Giáo hội Thống nhất (GHTN) ở trong nước ban đầu cũng dự trù tổ
chức đúng ngày, nhưng cuối cùng, do “áp lực” của VPII VHĐ tại
hải ngoại mà đành phải làm lễ sớm hơn 5 ngày, tức vào ngày
17-8-2008 tại Việt Nam, lúc đó tại Hoa Kỳ còn trong ngày
16-8-2008. Ngày 17-8-2008 là ngày cuối cùng mà nếu GHTN trong
nước không chịu tổ chức Lễ Chung Thất thì VPII VHĐ khó ăn nói
với mọi người về lý do tại sao tổ chức sớm hơn trong nước và lại
tự cho mình thẩm quyền công bố Chúc Thư và Giáo Chỉ nào đó của
cố Hòa thượng Thích Huyền Quang trước cả Hội Đồng Lưỡng Viện
trong nước. Thế nên, để hợp thức hóa sự sai trái của VPII VHĐ
(mà ông VVA hầu như nắm toàn quyền), GHTN đã kịp thời ra Quyết
Định số 31 vào ngày 16-8-2008, “ủy nhiệm” VPII VHĐ tổ chức Lễ
Chung Thất tại Chùa Pháp Luân và công bố Chúc Thư, Giáo Chỉ của
cố HT. Thích Huyền Quang. Có lẽ Quyết Định này cũng chỉ là quyết
định “ma” được ông VVA đẻ ra nhằm ứng phó tình hình bị đổ bể sự
gian manh dối trá của mình chứ GHTN trong nước cũng chẳng biết
ất giáp gì. Ai cũng thấy sự “ủy nhiệm” này không cần thiết, vì
VPII qua Tỳ kheo Giác Đẳng đã công bố là được GHPGVNTN “ủy
nhiệm” từ cuối tháng 7-2008 rồi. Nói như thế có nghĩa là cả hai
văn phòng VHĐ I và II đều dối trá một cách trắng trợn và quá xem
thường sự hiểu biết của Tăng Ni và Phật tử Việt
Nam
trong và ngoài nước. Dù Quyết Định 31 là thật hay giả, do VPI
hay VPII chế ra, đều cho thấy sự không trung thực (nếu không
muốn nói thẳng là nói gian, nói dối) của những người đương nhiệm
điều hành. Nếu Quyết Định 31 thực sự do VHĐ trong nước đưa ra,
không lẽ suốt một tháng qua VHĐ không biết là VPII đã phổ biến
tin tức về Lễ Chung Thất tại Chùa Pháp Luân ngày
17-8-2008
đã được GH ủy nhiệm hay sao! Không biết thì quá vô lý và quá tắc
trách! Còn như đã biết mà vẫn ra Quyết Định 31 thì quả là một
hành xử vô minh, vô cùng sỉ nhục đối với giác linh cố HT. Thích
Huyền Quang cũng như sự hy sinh của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam
đối với sự sống còn của GHPGVNTN. Còn nếu VHĐ biết rằng ông VVA
đã tiếm danh GHTN để tạo ra Quyết Định 31 mà vẫn im lặng, không
chất vấn, không sa thải phát ngôn nhân này thì toàn thể VHĐ
không xứng đáng để lãnh đạo GH, không xứng đáng để được gọi là
“Thích tử”, là những bậc xuất gia đức hạnh đại diện Đức Phật!
Tôi thấy xấu hổ và đau lòng khi GHTN mà tôi tôn kính từ nhiều
năm qua mà nay ra nông nỗi này. Tôi không hiểu sao quý Ngài lãnh
đạo GHTN cả trong lẫn ngoài nước lại dễ dãi, vô tâm, phó mặc cho
một người thế tục thao túng, nắm hết quyền hành của GH từ mười
năm qua! Đây là một pháp nạn lớn của GH, quý Ngài không thấy,
không biết hay sao? Bao nhiêu bài viết góp ý, xây dựng, trình
bày thực hư, phải trái, vạch rõ những sai lầm của ông VVA và
những người đồng lõa như HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý,
TT. Thích Giác Đẳng, TT. Thích Thiện Tâm… không lẽ GHTN nhắm mắt
bịt tai không đọc, không từng một lần suy nghiệm, không từng một
lần tự vấn lương tâm? Vậy thì sao có thể gọi là “lãnh đạo”! Vậy
thì làm sao gọi là “cang cường, bất khuất, vô úy”! Vô úy đâu
phải chỉ là không sợ bị công an kêu đi “làm việc”, hạch sách,
bắt bỏ tù! Mà vô úy còn là sự can đảm chấp nhận sự sai lầm và
thiếu trách nhiệm của chính mình đối với GH và đối Phật giáo
Việt
Nam!
Vô úy cũng còn là sự uy dũng đón nhận những tấn công chỉ trích,
xuyên tạc, vu khống của kẻ gian ác để công khai bày tỏ sự thật,
dù sự thật này sẽ khiến mình không còn địa vị danh tiếng như
trước! Nếu quý Ngài không lên tiếng cho lẽ phải, cho sự thật,
cho sự quang minh của GHTN thì lịch sử sẽ ghi tội quý Ngài rất
rõ ràng, từng vị một. Đừng bao giờ tưởng rằng mọi việc ở đời chỉ
liên quan đến ngày hôm nay mà chỉ biết chăm lo danh vọng địa vị
hão huyền cho cá nhân. Lịch sử sẽ không tha thứ sự nhu nhược kém
hèn và dối trá điêu ngoa của ai vô tâm, vô tình, vô trí trước sự
suy tàn của GH và của Phật giáo VN.
Nhiều vị tôn đức và Phật tử đã viết để trình bày sự thật, vạch
trần sự gian dối của ông VVA, nhưng GHTN trong nước không chịu
lắng nghe. Quí Ngài không nghe nhưng không có nghĩa rằng sự gian
dối nơi con người ấy được khỏa lấp, lãng quên đâu! Ở trong nước
quí Ngài nghe sự khoa đại về các dân biểu, chính khách, tổ chức
quốc tế… từ ông VVA nên tưởng đâu ông này là nhân vật quan
trọng, danh tiếng lắm, nhưng kỳ thực, hầu hết thành phần trí
thức và quần chúng Phật tử ở ngoài nước có coi ông này ra gì
đâu. Nhất là ở ngay tại Pháp quốc là nơi ông VVA lập nghiệp
(ác), nơi mà cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
hoạt động, không ai tin tưởng và thậm chí không muốn nghe hay
đọc bất cứ điều gì từ “phát ngôn nhân” này cả, đến nỗi ông phải
chạy qua Mỹ để làm ăn bằng cách bòn rút máu xương của VPII Viện
Hóa Đạo qua những người tham quyền cố vị ù lì.
Dù vậy, nọc độc gian dối và xảo quyệt của ông vẫn tiếp tục phun
ra, làm dơ lây cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản với sự tiếp
tay của một số người nhẹ dạ hoặc cố ý làm ngơ để phá nát cơ đồ
Phật giáo. Thế nên, tôi chỉ xin tóm lược một số vấn đề để đặt
thẳng với ông VVA mà cũng đặt ra với VPII VHĐ (mà ông là thành
viên chủ yếu biến các thành viên khác thành những người giúp
việc dễ sai bảo), xin ông lần lượt giải thích rõ ràng, công khai
trước quần chúng, bằng Thông cáo Báo chí của Phòng Thông Tin
Phật Giáo Quốc Tế, để làm sáng tỏ con người của ông cũng như con
đường sai lầm của VPII Viện Hóa Đạo đã đẩy GHTN vào vực thẳm như
thế nào. Nếu ông VVA không trả lời thỏa đáng những câu hỏi này,
GHTN nên nhìn lại, xét lại, may ra còn kịp thời gian quay đầu mà
thấy con đường sáng của tiền nhân, của Lịch Đại Tổ Sư và Thánh
Tử Đạo.
Các câu hỏi sau đây chỉ là dựa vào các bài viết mà chư tôn đức
và các cư sĩ Phật tử đã từng nêu ra trước đây mà không thấy VHĐ
trong và ngoài nước trả lời. Việc mới trước, cũ sau.
BỊA ĐẶT SỰ ỦY NHIỆM CÔNG BỐ CHÚC THƯ, GIÁO CHỈ
1)
Có phải VPII VHĐ đã tiếm danh GHTN trong nước, tự “ủy nhiệm” tổ
chức Lễ Chung Thất và công bố Chúc Thư và Giáo Chỉ Đức Tăng
Thống vào ngày 17-8-2008 tại Chùa Pháp Luân, Texas? Nếu thực sự
có sự ủy nhiệm vậy văn thư nào chứng minh có sự ủy nhiệm đó
trước ngày
23-7-2008
là ngày HT. Thích Hộ Giác ký Thông Tư và Thư Mời tham dự Lễ
Chung Thất này?
2)
Khi bị vạch trần âm mưu “tự ủy nhiệm” này, có phải ông VVA và
VPII VHĐ đã sáng chế ra Quyết Định số 31, nói là do Hội Đồng
Lưỡng Viện trong nước ban hành ngày 16-8-2008 hay không? Nếu
thực sự có Quyết Định 31, vậy văn kiện này đâu mà không thấy
đăng với ấn ký và bút tích của HT. Viện trưởng? Có phải là đang
còn dùng kỹ thuật vi tính để lắp ráp con dấu và chữ ký nên chưa
kịp phổ biến?
3)
Nếu Quyết Định số 31 ký ngày
16-8-2008
có thực thì nó có chút giá trị nào đối với Lễ Chung Thất tại
Chùa Pháp Luân không? Vì Quyết Định này chỉ mới có vào ngày
16-8-2008 trong khi chương trình và nội dung buổi lễ đã được phổ
biến từ ngày 23-7-2008 qua Thông Tư và Thư Mời của HT. Thích Hộ
Giác?
4)
Ông VVA trích dẫn Quyết Định 31 ngày 16-8-2008, nói rằng “do
những áp lực ngoại tại ngăn cấm không cho Phái đoàn Giáo hội về
Tu viện Nguyên Thiều tổ chức lễ Chung Thất Đức cố Đệ tứ Tăng
Thống nên HĐLV lấy quyết định tổ chức tại Saigon và cùng
thời gian với VPII VHĐ (17-8-2008)”. Vậy có phải VPII là
chính yếu, cao hơn và quan trọng hơn VPI hay không? Hay chỉ vì
“áp lực” của VPII khiến VPI phải “khâm tuân” tổ chức sớm hơn dự
trù để tránh tiếng vô lễ và vô lý của VPII?
CHÚC THƯ VÀ CÁC GIÁO CHỈ, THÔNG BẠCH
5)
Nếu không bị “áp lực” nào cả, Hội đồng Lưỡng viện sẽ tổ chức lễ
Chung Thất tại Tu viện Nguyên Thiều sau lễ Chung Thất do VPII tổ
chức tại Chùa Pháp Luân 5 ngày. Vậy khi VPII công bố Chúc Thư và
Giáo Chỉ tại Chùa Pháp Luân thì có phải là đọc “tài liệu giả”
tiếm danh Đức cố Đệ tứ Tăng Thống như lời ông VVA khẳng định
trong Tcbc ngày 22-7-2008 hay không?
6)
Chúc Thư của Đức Tăng Thống ký ngày
17-01-2005
có thật hay không? Sao không thấy PTTPGQT đăng nguyên vẹn Chúc
Thư này mà chỉ thấy bút tích ký tên và con dấu của Đức Tăng
Thống? Có phải là VPII chỉ nhận được bút tích ký tên và con dấu
của Đức Tăng Thống từ trong nước chụp lại (scan) và gửi ra, còn
phần nội dung Chúc Thư thì tùy VPII soạn thảo hoặc dựa vào bản
chính mà sửa đổi tùy ý?
7)
Trong Thông cáo Báo chí ngày 20-8-2008, ông VVA cho biết có 3
Chúc Thư “giả” và một bản Chúc Thư do VPII công bố (bản này chưa
có thể xác định là bản “thật” vì giữa 4 bản không có gì khác
biệt về bút tích ký tên và con dấu của Đức Tăng Thống – bút tích
mực xanh và con dấu mực đỏ do ông VVA phổ biến được tách riêng
khỏi nội dung Chúc Thư nên không chứng minh được bản Chúc Thư do
VPII công bố là Chúc Thư “thật”). Ông tạm đặt tên cho 3 Chúc Thư
“giả” là bản A, B và C; tôi tạm đặt tên cho bản của VPII công bố
là bản D. Ông VVA nói “Ba bản Chúc Thư giả A, B và C, đều
‘nhất trí’ ở hai điểm…”: một là gạt bỏ HT Thích Quảng Độ ra
khỏi chức vụ hiện hành và chức vụ do Đức Tăng Thống ủy thác (nơi
bản D); hai là “công cử TT. Thích Tuệ Sỹ lên chức Viện trưởng
Viện Hóa Đạo”. Nếu ông dựa vào số lần được “ủy nhiệm” hay “công
cử” trong 4 văn bản nói trên mà cho rằng có sự âm mưu đưa TT.
Thích Tuệ Sỹ lên thì ông quá hàm hồ, quá sai một cách đầy ác ý,
ngậm máu phun người! Bởi vì trong 4 bản Chúc Thư lưu hành, có 3
bản (A, B và C) “công cử” TT. Thích Tuệ Sỹ làm Viện trưởng VHĐ
(theo cách ông VVA cố tình phân tích và gợi ý cho người ta hiểu
sai về TT. Thích Tuệ Sỹ), trong đó cũng có 2 bản (A và C) “công
cử” HT. Thích Thiện Hạnh (làm Tăng Thống và Xử lý thường vụ Viện
Tăng Thống), nhưng lại cũng có đến 3 bản (B, C và D) “nhất trí”
đặc biệt lưu tâm “duy trì và phát huy hơn nữa” PTTPGQT do
ông VVA làm Giám đốc! Những chức vụ ủy thác hay công cử TT.
Thích Tuệ Sỹ sẽ không thể xảy ra, vì theo Hiến Chương, Đức Tăng
Thống không có quyền ủy thác hay công cử Viện trưởng VHĐ (mà cho
dù Đức Tăng Thống có ân cần dặn dò cái ý đó đi nữa, TT. Thích
Tuệ Sỹ cũng sẽ không bao giờ đón nhận một chức vụ đi tắt ngang
không hợp Hiến chương giáo hội). Nhưng khen ngợi PTTPGQT
“hoạt động hiệu quả từ nhiều năm qua” và huấn thị “nay cố
duy trì và phát huy hơn nữa” thì rõ ràng là có âm mưu mượn
Chúc Thư của Đức Tăng Thống để củng cố vị thế của PTTPGQT đối
với giáo hội, phải vậy không ông VVA? Các Chúc Thư giả vì vậy có
phải là trò ma mãnh của ông trước nhất là để “hù” HT. Viện
trưởng là có một âm mưu lật đổ Ngài, thứ hai là để “vu oan giá
họa” cho TT. Thích Tuệ Sỹ, và quan trọng nhất là đề cao chính
ông hay không?
8)
Chẳng qua ông VVA sợ một ngày nào vô thường xảy ra, HT. Viện
trưởng về cõi Phật, vị Phó Viện trưởng VHĐ là TT. Thích Tuệ Sỹ
lên thay thế (đúng theo Hiến Chương) thì ông VVA sẽ khó làm việc
(vì không thể dùng danh lợi để mua chuộc bậc trượng phu cứng cỏi
và thanh liêm như TT. Thích Tuệ Sỹ) nên từ năm 2003, sau Đại Hội
Bất Thường tại Tu viện Nguyên Thiều, ông VVA đã tìm mọi cách để
loại trừ TT. Thích Tuệ Sỹ ra khỏi giáo hội. Đó là lý do có sự
xuyên tạc, chụp mũ TT. Thích Tuệ Sỹ một cách tàn bạo và tiểu
nhân của ông VVA và các vị đồng lõa trong VPII suốt nhiều năm
qua. Mà cho đến giờ phút này, trong Tcbc hàm hồ mượn Chúc Thư
giả để tố giác TT. Thích Tuệ Sỹ, ông VVA và VPII vẫn chưa có một
chứng cớ hay dữ liệu nào để chứng minh TT. Thích Tuệ Sỹ “đầu
hàng CS”, hoặc có tham vọng tranh ngôi vị Viện trưởng. Phải
không ông VVA? Nếu không phải, ông hãy đưa bằng chứng về những
cái gọi là “âm mưu” của TT. Thích Tuệ Sỹ? Không có bằng chứng
thì những gì ông và mấy người đồng lõa của VPII dùng “hết sức
bình sinh” tố giác, ầm ĩ tấn công TT. Thích Tuệ Sỹ từ nhiều năm
qua đều chỉ là phản ảnh của nỗi hoảng sợ và lo âu thấp hèn của
một bầy quạ đối với chúa sơn lâm mà thôi. Giáo chỉ số 2, số 9,
số 10, cũng như Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 đều
thoát thai từ sự hoảng sợ này mà ra, phải không ông VVA?
9)
Cũng trong Tcbc ngày
20-8-2008,
ông VVA nói rằng “’Nhóm Thân Hữu Già Lam’ và nhóm ‘Về Nguồn’
ở
Hoa Kỳ,
Canada,
Âu châu và Úc châu…”
vận động từ 5 năm qua để TT. Thích Tuệ Sỹ được lên chức Viện
trưởng VHĐ. Lại nói đó là “mục tiêu Bộ Công an vận động ráo
riết cho Thượng tọa sớm đoạt chức này”. Bằng chứng đâu, hãy
trưng dẫn! Không trưng dẫn được thì chỉ là sự vu khống rẻ tiền
chỉ thấy ở những kẻ thấp bé tiểu nhân, suy bụng ta ra bụng
người.
10)
Tại sao cái gì thuộc tình báo, phản gián, công an, tài liệu mật
của Bộ nội vụ (CSVN)… ông VVA đều nói là mình biết và đưa ra
những nhận định có vẻ một trăm phần trăm có thực? Có phải ông là
nhị trùng, vừa hoạt động cho Pháp hoặc Mỹ, lại vừa cho CSVN? Nếu
không phải đặc tình (tình báo đặc biệt) thì vì lý do nào, ông có
được tài liệu “mật” từ trước đến nay (theo những công bố của
ông)? Tại sao ông biết các Chúc Thư giả (bản C) là “bản
được cơ quan phản gián của Bộ Công an dùng để tung ra ngày 17.8”?
Nếu không được CSVN cung cấp tài liệu vậy chỉ là suy đoán thôi
sao? Suy đoán mà sao lại nói như thật để rồi từ những suy đoán
này, tạo ra bao nhiêu khủng hoảng về giáo chỉ, thông bạch phá
nát sự hòa hợp của Tăng Ni và cư sĩ thuộc GHPGVNTN trong và
ngoài nước?
11)
Chúc Thư C là do cơ quan phản gián Bộ Công An tung ra hay cũng
là của chính ông VVA sai thuộc hạ từ Việt
Nam
đưa ra? Sự thâm độc và nham hiểm này được cáo giác trước bởi chư
tôn đức tại Canada và Úc đối với các Chúc Thư giả A và B (nghĩ
rằng do từ một nguồn ở QM, Paris), nên cuối cùng, ông VVA đành
chịu “khổ nhục kế”, dùng ngay chính Phòng Thông Tin Phật Giáo
Quốc Tế của mình để ra TCBC về Lễ Chung Thất tại Chùa Giác Hoa,
đồng thời xảo quyệt tạo cớ để kết tội kẻ khác. Trình tự tạo chúc
thư giả để thăm dò và tấn công đối phương của ông VVA và các
đồng lõa diễn ra như sau: 1) Bản A, cố tình lộ liễu vụng về,
hoàn toàn không giống Chúc Thư D (sẽ được công bố như là Chúc
Thư Thật), cố ý đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ vào để hại vị này đồng
thời hăm dọa HT. Viện trưởng về việc mất chức; 2) Bản B, gần
giống Chúc Thư D một chút, cũng cố ý đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ
vào và gạt tên HT. Viện trưởng ra; 3) Bản C, gần giống nhất,
dùng chính Tcbc của PTTPGQT, cũng đưa tên TT. Thích Tuệ Sỹ vào,
gạt bỏ HT. Viện trưởng ra. HT. Viện trưởng mà đọc được 3 Chúc
Thư giả A, B và C sẽ hoảng hốt giao khoán cho ông VVA mau mau ra
Chúc Thư D tùy ý sửa đổi thế nào cũng được, miễn là bảo vệ Ngài,
bảo vệ lưỡng viện là được rồi, phải không ông VVA?
12)
Trong Tcbc ngày
20-8-2008,
ông VVA nói là cơ quan phản gián của công an CSVN đã “tiếm
danh” PTTPGQT, tung ra Tcbc 5 giờ trước Tcbc “thật”. Nhưng đọc
và đối chiếu hai bản Tcbc này, người ta có cảm giác như cũng chỉ
một tác giả. Tcbc gọi là “giả” có vẻ như là một bản thật để
chuẩn bị đăng, nhưng vì lý do nào đó, đã dùng nó để một lần nữa,
tung thêm một Chúc Thư giả khác trước khi công bố Chúc Thư
“thật”. Chỉ nói rằng Tcbc kia là “giả” mà chẳng có lời nào giải
thích, làm sao biết giả? Giả và thật khác nhau chỗ nào mà sao
giọng văn của hai Tcbc thật khó phân biệt?
13)
Trong Tcbc cùng ngày 20-8-2008, ông VVA nói Tcbc “giả” của công
an viết còn “chi tiết hơn thông cáo báo chí thật”, “Dù tin
thất thiệt về Chúc thư GIẢ theo bản C, nhưng miêu tả các vụ
phong tỏa và đàn áp lại rất chính xác”, rồi ông lại mời
“bạn đọc cùng thưởng thức lối dối gạt số dzách của Công an. Khi
cần sử dụng ngôn ngữ tố cộng, công an cũng rất “nghiệp vụ” và
vượt xa các phong trào Chống Cộng.” Cách nói của ông VVA ở
đây, trong vai trò “phát ngôn nhân” VHĐ, phổ biến trên một Tcbc
thuộc cơ quan truyền thông của Giáo hội, lại dùng thứ ngôn ngữ
“chợ trời ở Chợ Lớn” để nói với quần chúng hay sao! “Số dzách”
là gì, có trong từ điển chuyên khoa của Việt
Nam
hay không? Dùng tiếng “chợ trời” ở đây có phải ông VVA quá xem
thường người đọc hay không? Và có phải là quá xem nhẹ vai trò
“phát ngôn nhân” VHĐ mà ông đảm nhận hay không? Lại nói “công
an cũng rất ‘nghiệp vụ’ và vượt xa các phong trào Chống Cộng”
có phải là tự mai mỉa PTTPGQT, châm biếm các phong trào tố cộng
và chống Cộng tại hải ngoại hay không? Ở phát biểu này, một là
ông chê những người chống Cộng không miêu tả chi tiết, thật và
chính xác về chuyện đàn áp như công an, hai là ông tự tố giác
rằng tố cộng rất “nghiệp vụ” (giống như chính ông, HT. Thích
Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý và TT. Thích Giác Đẳng) chưa chắc
là chống Cộng thật, có khi lại chính là cộng sản, phải không ông
VVA?
14)
Trong tập “Kỷ Yếu Đức Đệ Tứ Tăng Thống” do PTTPGQT xuất
bản nhân Lễ Chung Thất Ngài tổ chức tại Chùa Pháp Luân, trang II
và III có đăng Chúc Thư (bản đánh máy) của Đức Tăng Thống. Cuối
Chúc Thư có chú thích của PTTPGQT rằng “Chúc Thư của Đức Đệ
Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang viết ngày 17.01.2005 - Bản chính
có thủ bút gồm 2 trang chụp lại.” Người đọc tìm hết cuốn Kỷ
Yếu vẫn không thấy có trang nào đăng thủ bút của Đức Tăng Thống
cả. Bản thủ bút là chính mà không đăng, chỉ đăng bản đánh máy
không thôi thì có khác gì những Chúc Thư mà ông VVA gọi là “giả”
kia? Phải chăng nội dung Chúc Thư bằng thủ bút của Đức Tăng
Thống có những điều không tiện công bố với công luận, hay là
PTTPGQT đang còn dành thời gian để học giả nét chữ của Ngài mà
sửa đổi Chúc Thư cho phù hợp với bản sao đã phổ biến? Còn nếu
nói rằng thủ bút chỉ là những giòng cuối ghi ngày tháng và ký
tên thôi, vậy thì phần nội dung ở trên ông VVA và VPII muốn ghi
gì lại chẳng được? Có gì bảo đảm là Chúc Thư thật!?
15)
Nếu Chúc Thư của Đức Tăng Thống ký ngày 17-01-2005 là có thật,
vậy ở điều 4 có ghi: “Văn
phòng II Viện Hóa Đạo - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Hải ngoại tại Hoa Kỳ cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Hải ngoại tại các Châu đã hình thành và hoạt động kỷ cương, nền
nếp từ 12 năm qua. Xin chư Liệt vị đặc biệt lưu tâm để trong
ngoài hòa hiệp gây trợ duyên cho đạo Phật Việt Nam góp mặt cùng
thế giới trong công cuộc tịnh hóa nhân gian, xây dựng hòa bình
trước bao khuynh hướng bạo động.”
Điều 4 này chứng tỏ cho đến đầu năm 2005, Đức Tăng thống vẫn
công nhận và tin tưởng Giáo Hội PGVNTN tại Hoa Kỳ và các Châu,
cũng như lạc quan về việc “trong ngoài hòa hiệp” tức là sinh
hoạt giữa VHĐ trong nước với các giáo hội ngoài nước; thế sao
chỉ 10 tháng sau là Ngài đã ký Giáo Chỉ số 2, loại bỏ quá bán
thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, rồi 2 năm sau
lại ban Giáo Chỉ số 9, giải tán hết giáo hội tại Hoa Kỳ và các
Châu? Giáo chỉ số 02 có thật hay không? Giáo chỉ số 2 quan trọng
như vậy sao không thấy công bố với bút tích và ấn ký của Đức
Tăng Thống?
16)
Có thư mời họp hay biên bản nào ghi nhận một Đại hội Khoáng Đại
hay Bất thường của Hội Đồng lưỡng viện xảy ra vào tháng 11-2005,
với thành phần tham dự là những ai, ký tên, để tiến đến việc đệ
trình Quyết Định thỉnh cầu Đức Tăng thống chuẩn y và ban hành
Giáo chỉ số 2 hay không? Hay Giáo chỉ này chỉ là sự tiếm danh,
bịa đặt của ông VVA và các đồng lõa?
17)
Cũng chính Giáo chỉ số 2 này, vừa cung thỉnh 10 vị Hòa thượng
tại hải ngoại vào Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống (như HT.
Thích Tâm Châu, HT. Thích Mãn Giác, HT. Thích Thuyền Ấn, HT.
Thích Thắng Hoan, HT. Thích Minh Tâm, HT. Thích Như Huệ, HT.
Thích Trí Chơn, HT. Thích Chơn Thành…) thì hai năm sau đã ban
hành Giáo chỉ số 9, giải tán, bất tín nhiệm hết những vị này
(ngoại trừ HT. Thích Mãn Giác đã viên tịch và 2 vị “chí thành
khâm tuân” hiệu lệnh của ông VVA là HT. Thích Hộ Giác và Thích
Chánh Lạc). Giáo chỉ số 9 sai lầm, bất minh, vô tình như thế
không thể nào được Đức Tăng Thống chuẩn y. Vậy ai là người ráp
con dấu và chữ ký của Ngài vào văn kiện ấy? Sự ráp nối ấn ký của
Ngài được tìm thấy rõ ràng (như hướng dẫn của Diệu Trang
Nghiêm) nếu dùng Photoshop để mở Giáo chỉ số 9 (PDF) đăng tải
trên Quê Mẹ (PTTPGQT). Ông VVA không làm việc ráp nối ấn ký của
Đức Tăng Thống để tạo ra Giáo chỉ số 2 và số 9 phá nát GHPGVNTN
thì là ai?
18)
Giáo chỉ số 01/VTT/GC/TT, do Đức Tăng Thống ký ngày 20-02-2008,
suy cử HT. Thích Hộ Giác lên ngôi vị Phó Tăng Thống có thực hay
không, sao không thấy PTTPGQT đăng tải mà chỉ thấy trích đoạn?
Tại sao không công bố rõ ràng với ấn ký của Đức Tăng Thống? Nếu
vì đây là giáo chỉ “thật” của nội bộ giáo hội nên không cần phổ
biến ấn ký của Tăng Thống vậy sao Giáo chỉ số 9 và 10, cũng như
các Quyết Định của VHĐ trước đây đều đăng nguyên vẹn nội dung và
chữ ký, con dấu? Có phải vì giả nên cần phải chứng minh không?
19)
Giáo chỉ số 01 đã ký từ lâu sao lại đợi đến khi Đức Tăng Thống
viên tịch mới đem ra công bố, phải chăng có điều gì khúc mắc?
20)
Giáo chỉ số 01 có bị mất hiệu lực vì quá xa thời gian chuẩn y và
ban hành, lại không theo đúng chỉ thị của Đức Tăng Thống là tiến
hành lễ suy tôn vào dịp Phật Đản 2008 hay không?
21)
Nếu Giáo chỉ số 01 mà có giá trị vô thời hạn, lúc nào đem ra đọc
và ban hành cũng được, không cần phải tuân theo thời gian qui
định, vậy trong trường hợp sau khi Đức Tăng Thống chuẩn y vài
tháng, người được chuẩn y thay đổi đường hướng lập trường, phá
hòa hiệp tăng, phá giới hoặc phạm luật hình sự đối với luật pháp
thế gian, bỏ đạo hoặc hoàn tục, không lẽ VHĐ cũng đem ra ban
hành?
22)
Nếu Giáo chỉ đã chuẩn y mà không ban hành phải chăng có sự đổi ý
của Đức Tăng Thống đối với đương sự? Hay là Ngài đã chuẩn y và
ban hành nhưng lại có sự kềm giữ, bất khâm tuân của những người
trong Hội đồng Lưỡng viện trong nước, hay của VPII VHĐ?
23)
Tại sao Giáo chỉ số 2 ban hành ngày 29-11-2005, Giáo chỉ số 9
ban hành ngày 08-9-2007, Giáo chỉ số 10 ban hành ngày
02-12-2007, mà Giáo chỉ số 01 lại ban hành ngày 20-02-2008? Nếu
Giáo chỉ số 01 thực sự do Đức Tăng Thống chuẩn y và ban hành, có
phải Ngài ngầm nói cho mọi người biết rằng Ngài chưa từng chuẩn
y và ban hành bất cứ một giáo chỉ nào khác trước đó? Vậy, giáo
chỉ số 2, số 9 và 10 đều tiếm danh Đức Tăng Thống, phải không
ông VVA?
24)
Các giáo chỉ lưu nhiệm xuất hiện vào giờ chót trong 3 Đại hội
Khoáng Đại của GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ (1996, 2000, 2004) có thật
không hay chỉ là văn kiện “cứu nguy” của ông VVA nhằm giữ lại
địa vị của những người tham quyền cố vị như HT. Thích Chánh Lạc
(Phó chủ tịch muôn năm), TT. Thích Viên Lý (Tổng thư ký muôn năm
– đã trải qua 16 năm, nay tiếp tục trên lộ trình “vô thời hạn”
theo Giáo chỉ số 9)? Nếu các giáo chỉ này có thật, chúng mang số
mấy, có ấn ký của Viện Hóa Đạo hay Viện Tăng Thống hay không?
25)
Trong Tcbc ngày 10-11-2004, ông VVA hết lời ca ngợi “Lễ hội GĐPT
Việt Nam Trên Thế Giới” được tổ chức tại Bồ đề Đạo tràng, Ấn Độ
vào các ngày 07, 08 và 09 tháng 11, 2004 thành công viên mãn.
Ngoài sự tài trợ rất nhiệt tình của chư tôn đức lãnh đạo
GHPGVNTN Hải ngoại còn có sự trực tiếp tham dự chứng minh của
“Thượng
tọa Thích Viên Lý, Phó Tổng Thư ký Viện Hóa Ðạo kiêm Tổng Thư Ký
Hội Ðiều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại
tại Hoa Kỳ - Văn phòng II Viện Hóa Ðạo, Thượng tọa Thích Như
Ðiển, Tổng Thư Ký Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu
và cũng là Phương trượng chùa Viên Giác tại Bồ Ðề Ðạo Tràng, Ấn
Ðộ, và Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Văn
Hóa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ
- Văn phòng II Viện Hóa Ðạo. Kết thúc Ðại hội ở Bồ Ðề Ðạo tràng
hôm thứ ba 9.11.2004, Gia đình Phật tử Việt
Nam Trên Thế giới đã ra hai bản Quyết Nghị...”
(trích Tcbc nói trên). Thế nhưng, đến Tcbc ngày 04-04-2007, ông
VVA lại mượn ấn ký của HT. Viện trưởng, ra Thông bạch số
04/VHĐ/TB/VT, không công nhận tổ chức GĐPTVN Trên Thế Giới, và
làm bộ không hay biết gì về sự ra đời của tổ chức này cả, với
lời lẽ “ngây thơ” như sau: “Tuy
nhiên gần đây bỗng xuất hiện một danh xưng mới có tên
là ‘Gia Đình Phật tử Việt Nam Trên Thế giới’ gây thắc mắc dư
luận. Để tránh mọi ngộ nhận có thể xẩy ra, tôi xin thông
bạch để Chư tôn giáo phẩm các cấp Giáo hội trong và ngoài nuớc
liễu tri, rằng Giáo hội không có tổ chức nào mang danh xưng nói
trên. Do đó, Giáo hội không chịu trách nhiệm bất cứ hành vi hay
sinh hoạt nào của tổ chức này khi có sự lợi dụng liên quan đến
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tổ chức Gia Đình Phật
tử Việt Nam”.
Khi thì ca tụng hết lời, khi thì tảng lờ không hay biết, đó là
thái độ của hạng người nào trong xã hội? Nếu trước đây ủng hộ
nhưng nay hết ủng hộ thì cứ nói thẳng lý do, sao lại ra Thông
Bạch với lời lẽ như không hề hay biết một sự kiện lịch sử quan
trọng trong sự chuyển mình của tổ chức GĐPTVN-một đứa con trung
kiên của giáo hội--vào tháng 11-2004 nói trên!
ÔNG VÕ VĂN ÁI VÔ LỄ VỚI TĂNG NI
26)
Trong Đại hội Thường niên kỳ I, nhiệm kỳ IV của GHPGVNTNHN-Hoa
Kỳ tại Chùa Phật Pháp, Florida vào các ngày 7, 8 và 9 tháng 10
năm 2005, ông VVA đã vận động chư tôn đức và cư sĩ tham dự đóng
góp khoảng $20,000 mỹ kim (hai mươi nghìn đô la Mỹ) để thực hiện
tập tài liệu “30 năm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất đấu tranh cho Tự do Tôn giáo và Nhân quyền”. Tiền
đã đóng dư ngoài mong đợi, nhưng từ ngày nhận tiền bỏ túi riêng
cho đến nay, chưa thấy ông VVA cho xuất bản tập tài liệu ấy. Đây
có phải là hành vi lường gạt, gian dối và bất kính đối với Tăng
Ni một cách trắng trợn không? Số tiền đóng góp đó nay ở đâu sao
không thấy hoàn trả, cũng không thấy thông báo gì về tập tài
liệu? Hành vi lường gạt, “ăn cướp” giữa ban ngày như vậy một
mình ông VVA chịu trách nhiệm hay là cả VPII VHĐ cùng liên đới?
Nếu VPII vô can trong việc này sao lại im lặng để cho vị “phát
ngôn nhân cao quý hữu công” của VHĐ lường gạt Tăng Ni và các
thành viên cư sĩ khác của giáo hội!
27)
Trong email của ông VVA gửi cho một số thành viên GHTN, tựa đề:
“Ngao ngán cho những người viết bài này”, gửi ngày thứ Bảy,
26-01-2008, lúc 11:27 am, ông gọi chư Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại
tổ chức Ngày Về Nguồn là “Nhóm Về Nguồn Mác-Lê-Hồ,” lại
chửi hai Thầy Thích Nguyên Tạng và Thích Giác Tín là “ăn cơm
mới nói chuyện cũ rất thâm độc và xỏ lá”! Ông VVA trả lời có
hay không?
28)
Trong bài viết (có thâu âm và phát thanh) tựa đề “Phật Giáo
Thời Cộng Sản và Những Liên Hệ Gây Động Loạn và Mâu Thuẫn”,
đăng trên Quê Mẹ ngày 14-01-2008, ông VVA đã gọi chư tôn đức
Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Hội Thân Hữu Già Lam và chư tôn đức
không tán đồng Giáo Chỉ số 9 bằng những tiếng rất vô lễ, phàm
tục, như “Các nhà sư và cư sĩ rối nước”, “hành tích đi đêm ăn
vụng”, “gian hàng biến thành chùa viện”, “bọn này”, “bầy lâu
la”, “đểu cáng”, v.v… Bài này vẫn còn đăng trên trang lưới
Quê Mẹ, phổ biến một vài websites cùng lập trường phá hoại Phật
giáo khác. Ông VVA có dám công khai phủ nhận là ông không nói
hay không?
29)
Ông VVA có nói và bút tích còn sờ sờ nơi bài viết đó, vậy tại
sao trong cuộc hội thảo của VPII Viện Hóa Đạo
hôm thứ Bảy 23-02-2008 tại nhà hàng Regent West, Santa Ana, Nam
California, khi ông Nguyễn Thanh Huy chất vấn ông
về việc ông VVA vô lễ với chư Tăng thì ông lại trả lời: “Nếu
anh tìm ra được một lời nào, câu nào, chỗ nào mà tôi xúc phạm
đến chư Tăng thì tôi xin lạy anh hai lạy”. Ông Nguyễn Thanh
Huy liền xin phép cho mở cuốn CD có thâu âm bài nói chuyện trên
thì những cò mồi của ông VVA nhao nhao phản đối, và TT. Thích
Viên Lý nói là hết giờ cho ông Nguyễn Thanh Huy (chưa được 3
phút theo qui định cho mỗi người, trong khi bà ĐBK, chuyên gia
biểu tình phá rối các chùa Phật giáo thì lại được nói huyên
thuyên 15 phút!). TT. Thích Viên Lý thiên vị và sợ hãi sự thực
một cách trắng trợn trước quần chúng. Còn ông VVA, nếu là người
có ăn học thì dám nói dám chịu, sao lại chối bai bải, không dám
nhìn nhận những gì mình nói và làm? Đây có phải là hành xử của
người trí thức, có văn hóa hay không?
30)
Trong Tcbc ngày 26-9-2007, ông VVA kết án một số tôn đức là
“thỏa hiệp với cộng sản”, nói rằng “Họ gọi kêu tu học, văn
hoá, giáo dục... thuần túy, nhưng kỳ thực là đang trá hàng và
trá hình bằng thứ tư tưởng cà lăm của những kẻ xin làm tôi đòi
cho chế độ phi dân tộc, phi đạo lý, là chế độ Cộng sản.” Yêu
cầu ông VVA trưng dẫn bất cứ một câu nói hay câu viết nào nói
lên cái ý “kêu gọi tu học, văn hóa, giáo dục… thuần túy”
và “đang trá hàng và trá hình” cũng như “xin làm tôi
đòi cho chế độ” của Tăng Ni! Không có bằng chứng nào cả mà
chỉ suy luận theo thành kiến của mình rồi cho rằng Tăng Ni thế
này thế kia, thì có phải là ông cố tình xuyên tạc, vu khống,
miệt thị Tăng bảo hay không!
31)
Cũng trong Tcbc ngày
26-9-2007,
ông VVA viết “Tại hải ngoại, người ta chứng kiến một số Tăng
Ni, Phật tử huyên truyền cho việc hợp tác với nhà cầm quyền Cộng
sản theo chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước. Luận điểm
của họ là : "Tranh đấu 30 năm qua được gì ? Chỉ như húc đầu vào
tường mà thôi ! Nay phải thỏa hiệp với Nhà nước để có thể xây
dựng chùa chiền "như bên Công giáo xây dựng Nhà thờ", để có thể
"đào tạo nhân sự, Tăng Ni"". Yêu cầu ông VVA hãy đưa ra bất
cứ bằng chứng nào cho thấy có sự hình thành một tổ chức “trong
nước” tên là “Nhóm Thân Hữu Già Lam”? Những câu nói, câu viết
nào của “một số Tăng Ni” tại hải ngoại cho thấy là làm “theo
chỉ thị của Nhóm Thân hữu Già Lam trong nước”? Những chứng
liệu nào đưa ông đến kết luận rằng “Luận điểm của họ là…”
thế này thế kia?
32)
Tcbc cùng ngày
26-9-2007,
ông VVA trách cứ TT. Thích Tuệ Sỹ và Gs. Lê Mạnh Thát là im lặng
để cho học trò đánh phá GHPGVNTN. Lời lẽ lên án đầy sân si, mang
tính cách “thô lỗ, thiếu văn hóa” của ông (qua nhiều bài viết và
phát ngôn có chứng minh rõ ràng) để gán cho chư Tăng. Ông viết
“Đáng
buồn và khó hiểu, vì sao hai ngài có thể điềm nhiên tọa thị để
cho nhóm đệ tử của hai ngài, còn mặc áo tu hay đã ra đời, mở
chiến dịch đánh phá GHPGVNTN, đánh phá chư huynh đệ pháp lữ hay
người đồng đạo một cách sỗ sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa ? Nhất là
tỏ lời bất kính và hỗn láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong
nước?”
Bằng chứng nào cho thấy các vị Tăng và cư sĩ học trò của hai vị
này “mở chiến dịch đánh phá GHPGVNTN” và đâu là tính cách “sỗ
sàng, thô lỗ, thiếu văn hóa”? Đâu là những lời “bất kính và hỗn
láo với hàng giáo phẩm lãnh đạo trong nước”, ông VVA hãy trưng
ra? Không có bằng chứng nhưng ông vẫn cố tình nói càng như vậy
để hủy báng Tăng bảo thì có xứng là người con Phật hay không? Có
xứng là người có văn hóa hay không?
33)
Trong Tcbc mới nhất, ngày 25-8-2008, tựa đề “Đại
lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch không công nhận các
tổ chức Phật giáo tiếm danh GHPGVNTN tại Canada, Úc châu và Âu
châu”, ông VVA lên án chư tôn đức Tăng Ni thuộc
GHPGVNTN tại châu Âu, châu Úc, Canada và Hoa Kỳ là “bắt cá
hai tay hay lập lờ đánh lận con đen”. Ông VVA hãy trả lời có
hay không?
Nếu “phát ngôn nhân” Viện Hóa Đạo là ông VVA đã từng vô lễ với
những người xuất gia (một trong ba ngôi báu – Tam Bảo), với tập
thể Tăng-già (bao gồm những vị thánh tăng và bồ-tát hóa thân mà
mắt thường không biết được), mà Viện Hóa Đạo vẫn không lên tiếng
khuyên can, cũng chưa một lần ngỏ lời xin lỗi, sám hối, thì
chính Viện Hóa Đạo, trực tiếp là VPII, cũng đồng thuận với ông
VVA, khinh thường thập phương Tăng; từ chỗ khinh thường, đã tạo
ra những tội lỗi to lớn, trầm trọng trong việc phá sự hòa hợp
của Tăng. Trọng tội này không có công đức nào có thể chuộc hết.
Đơn cử vài điểm còn ghi trên các Tcbc, CD và băng phát thanh chứ
phải nêu hết những lời ông VVA thóa mạ, chửi bới chư Tăng thì vô
số, không sao làm được.
Trên đây là 33 câu hỏi, tóm lược hàng ngàn vấn nạn của nhiều
Tăng Ni và Phật tử khác ở khắp nơi kể từ khi Giáo chỉ số 2, số 9
và Thông bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 ban hành. Nếu ông
VVA và VPII VHĐ không trả lời thỏa đáng những câu hỏi này, xin
quý vị Tăng Ni và Phật tử đừng tin, đừng nghe, đừng đọc bất cứ
điều gì từ họ.
Sự thực trước sau gì cũng hiển lộ, bởi vì lớp sơn ngụy trá, dối
gian, sẽ không thể tồn tại lâu dài trên cuộc sống này, nhất là
trong sinh hoạt của Phật giáo, vốn là một tập thể lấy giáo lý
NHƯ THỰC của Đức Thế Tôn làm kim chỉ nam, làm ngọn đuốc soi sáng
cho lộ trình hướng về giải thoát và giác ngộ.
26-8-2008
Thích Viên Giáo |