VẤN ĐỀ GIÁO HỘI
THỐNG NHỨT 10/2007 |
Có
phải
câm, điếc, ngọng, mù !!!
-
PSN - 9.09.2008 - Mặc Giang
Có
phải :
Câm, Điếc, Ngọng, Mù !!!
Anh có phải là người câm !
Chị có phải là người điếc !
Em có phải là người ngọng !
Tôi có phải là người mù !
Mà sao khép cửa âm u
Đường hầm thăm thẳm mịt mù chẳng hay
Mà sao chẳng biết đêm ngày
Vùi đầu bóng tối đọa đày hồn đau
Nếu không ngọng, tại sao miệng ú ớ ?
Nếu không điếc, tại sao tai không nghe ?
Nếu không câm, tại sao miệng nín khe ?
Nếu không mù, tại sao không có thấy ?
Hay sư tử đã chết, nên núi cao nghiêng ngả
Hay hùm thiêng đã chết, nên núi cả điêu tàn
Để sói chồn, tha hồ múa gậy rừng hoang
Người nhân thế cũng ê càng, khúm núm
Phải chi câm, để chặn lời tắt ngúm
Phải chi điếc, để chẳng lọt vào tai
Phải chi ngọng, há miệng chẳng mắc quai
Phải chi mù, dẫu ai lòa thiên hạ
Câm, thì làm sao để nói !
Ngọng, thì làm sao nên lời !
Điếc, thì cứ vểnh tai chơi !
Mù, thì cứ trơ mắt ếch !
Ôi thế giới mù lòa
Chỉ một bè lũ đấm xoa
Chỉ một nhúm nhỏ ba hoa
Mà thời thế uốn cong khép gió
Nếu không phải, tại sao đánh đổ
Nếu không phải, tại sao chôn vùi
Lịch sử huy hoàng, un khói đen thui
Son sắt tâm đan, bụi tro thiêu đốt
Em chưa hẳn là người ngọng !
Tôi chưa hẳn là người mù !
Anh chưa hẳn là người câm !
Chị chưa hẳn là người điếc !
Thế, chúng ta có biết :
Đã, đang và sẽ sống ra sao ?
Đã, đang và sẽ làm thế nào ?
Cái gì là quá khứ, hiện tại, mai sau ?
Cái gì là tấm lòng, tim thắt, ruột đau ?
Tang thương dù có lên màu
Biển dâu dù có làm nau mấy lần
Phong trần đày đọa phong trần
Không dày gió bụi cơ cần ai hay
« Có, thì có tự mảy may
Không, thì cả thế gian này cũng không”
Sá gì bão tố cuồng phong
Nếu không, quảy gánh tang bồng mà chi
Sá gì dục vọng mê si
Nếu không, quảy gánh tư nghì là sao
Ô hay, biển đục ba đào
Bên hiên gió thoảng, cây đào trổ bông.
Mặc Giang
Tháng 9 – 2008
|
|
|
|
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT |
Ngày 31 tháng
XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội
đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã
khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.
Đại biểu đại
hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT
VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT
GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống
và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.
Đại hội suy
tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa
thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích
Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.
Ngày
12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các
tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã
Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của
giáo hội đã qui định.
Dưới đây bản
HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517.
HIẾN
CHƯƠNG
GIÁO
HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
LỜI
MỞ ĐẦU
Công
bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc
tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự
đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường
thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá
biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.
Quan
niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều
hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như
của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ
lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc
biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam.
|