.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007

Bài học từ Pháp nạn
Duyệt lại các GIÁO CHỈ, QUYẾT ĐỊNH, THÔNG BẠCH
của VPI và VPII Viện Hóa Đạo GHPGVNTN

  • PSN - 9.10.2008 | Thích Siêu Phương - Canada


Ht. Quảng Độ

Ht. Hộ Giác

Ht. Thiện Hạnh

Ô. Võ Văn Ái

Ht. Chánh Lạc

Pháp nạn do ngoại nhân cùng những yếu tố ngoại tại nhắm vào Phật giáo để triệt tiêu, phá hoại, sẽ càng làm cho Phật giáo đồ đoàn kết, thương yêu nhau hơn, và khiến cho tổ chức Phật giáo trở nên bền chắc vững mạnh hơn. Trái lại, do tự thân Phật giáo, với một vài người nhân danh chức vị và quyền thế lãnh đạo, đục phá, xoi mòn rồi đánh sụp cả cơ cấu tổ chức, gây chia rẽ Tăng-đoàn và làm tổn hại tín tâm của phật-tử, tạo cơ hội cho ngoại đạo và ác đảng thực hiện những âm mưu hủy diệt Phật giáo, thì pháp nạn này mới cực kỳ nguy hiểm.

Cuối thập niên 1950 qua đầu thập niên 1960, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) lâm vào pháp nạn lần thứ nhất; giữa thập niên 1970 cho đến nay, giáo hội lâm vào pháp nạn lần thứ hai. Hai pháp nạn này đều được khách quan nhìn nhận như là những pháp nạn ngoại tại, bị tác động trực tiếp bởi chủ trương và chính sách khắt khe của các chính quyền. Cho đến đầu thập niên 1990, trong khi pháp nạn lần thứ hai còn đang tiếp diễn, và kể từ khi giáo hội này được thành lập tại hải ngoại với danh vị và chức vụ lãnh đạo được ủy thác cho những người thiếu đức, GHPGVNTN đã phải gánh nhận pháp nạn lần thứ ba. Đây chính là pháp nạn nội tại mà những người ngoại cuộc không trực tiếp sinh hoạt trong giáo hội ngoài nước, sẽ không sao thấu hiểu nguồn cơn. Do vì bộc phát từ các nguyên nhân nội tại của tổ chức, sự tri nhận khách quan của những người bàng quan chắc chắn bị giới hạn, vì vậy, rất dễ dẫn đến những ngộ nhận đáng tiếc; chưa kể là những cố tình xuyên tạc và phá hoại của ngoại nhân khiến cho sự việc càng thêm phiền rối, khó tháo gỡ.

Pháp nạn nội tại phải do chính những người trong nội bộ GHPGVNTN giải trừ, không thể kêu cứu, cầu viện sự yểm trợ, giúp đỡ nào khác từ bên ngoài, nhất là từ những tổ chức và thế lực chính trị hay ngoại đạo. Sự vận động ngoại nhân để giải quyết chuyện nội bộ Phật giáo là một điều điếm nhục, làm hoen ố cả dòng lịch sử hoằng pháp dài lâu của Phật giáo mà GHPGVNTN là đại diện kế thừa.

Lược trình nguyên nhân và các diễn tiến quan trọng gây nên pháp nạn lần thứ ba là để học và chiêm nghiệm bài học lịch sử đau thương của GHPGVNTN trong và ngoài nước.

 

Trình tự phá hoại
Phật giáo khởi phát từ bên trong

Quyết Định số 27, ngày 10.12.1992 của Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo (bấy giờ là HT. Thích Huyền Quang), công nhận “Văn phòng GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ cấp liên bang được coi như Văn Phòng II Viện Hóa Đạo GHPGVNTN quốc nội” (Điều 5). Lợi dụng Quyết Định 27 này, thiểu số nhân sự của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (VPII VHĐ) là HT. Thích Hộ Giác, HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý, TT. Thích Giác Đẳng, Pháp sư Giác Đức và ông Võ Văn Ái, đã cố bám giữ các chức vụ lãnh đạo then chốt của Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hải Ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTNHN-HK), vì giáo hội tại Hoa Kỳ chính là VPII VHĐ, đại diện chính thức của giáo hội trong nước.

Theo các giáo hội ngoài Hoa Kỳ cho biết, từ lúc thành lập năm 1992 đến năm 2007 khi có Giáo chỉ số 9, VPII VHĐ chưa hề liên lạc với giáo hội các quốc gia và châu lục, dù bằng điện thoại, điện thư, hay trực tiếp thăm viếng để trao đổi và phối hợp phật-sự. Chỉ có một lần vào năm 2004, trong Đại hội Khoáng Đại Kỳ III của GHPGVNTNHN-HK, các nhân vật lãnh đạo VPII VHĐ mới miễn cưỡng thỉnh mời đại diện giáo hội các quốc gia và châu lục vào Hội đồng Thường vụ VPII VHĐ. Sự mở cửa này được đưa vào bản Quyết Nghị của Đại hội, ngày 10.10.2004, Điều 4, như sau: Công cử thành phần nhân sự vào cơ cấu mới của Văn phòng II Viện Hóa Ðạo có tên là Hội đồng Thường vụ Văn phòng II Viện Hóa Ðạo với sự tham gia của chư Tôn đức lãnh đạo các châu lục để mở rộng và hữu hiệu hóa công cuộc vận động giải trừ pháp nạn trên trường quốc tế (xin xem danh sách dưới đây).” Nhưng “danh sách dưới đây” của Quyết Nghị vẫn chỉ là danh sách Hội đồng Thường vụ có sẵn, bổ sung lấy lệ vài thành viên thuộc GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ, không có đại diện Canada, Úc châu và Âu châu; trong khi quyết định của Đại hội về thành phần nhân sự thuộc các giáo hội ngoài Hoa Kỳ được thỉnh cử vào VPII VHĐ như sau: châu Âu 3 đại biểu, châu Úc 3 đại biểu và Canada 4 đại biểu (vì VPII VHĐ cố tình giữ lại TT. Thích Thiện Tâm, thuộc vây cánh của họ). Danh sách đại biểu giáo hội các châu lục, ngay sau Đại hội đã được gửi đến VPII VHĐ mà mãi đến năm 2007, vẫn chưa thấy công bố.

Điều này chứng tỏ VPII VHĐ không hề có thiện chí “mở rộng và hữu hiệu hóa” trách nhiệm và quyền hạn. Các nhân vật chủ chốt của VPII VHĐ chỉ một mực bám giữ chức vụ của họ từ ban đầu, dần dần tiến đến thao túng và khuynh loát hầu như mọi quyết định quan trọng của giáo hội trong và ngoài nước.

Đó là đối với hải ngoại, còn đối với giáo hội trong nước thì, với danh nghĩa của VPII VHĐ, các vị này đã cố tình duy trì tình trạng bưng bít thiếu thông tin của nhị vị hòa thượng lãnh đạo (HT. Thích Huyền Quang và HT. Thích Quảng Độ) để dễ bề kiểm soát và đưa dẫn giáo hội theo hướng thuận lợi với tham vọng quyền lợi của họ; đặc biệt là thời gian từ năm 2005 đến nay, đã dùng nhiều thông tin sai sự thật và vu khoát như “âm mưu thành lập giáo hội không Huyền Quang - Quảng Độ”, “chiến dịch nước lũ”, “âm mưu ly khai” “âm mưu dùng Phật giáo để tiêu diệt Phật giáo”, “âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN trên địa bàn quốc tế”, vân vân, để nhân danh bảo vệ nhị vị hòa thượng và giáo hội, loại trừ hầu hết chư tôn đức và cư sĩ thuộc GHPGVNTN trong và ngoài nước.

Đây quả thực là pháp nạn của Phật giáo chứ không riêng của GHPGVNTN. Pháp nạn này không thể nói là do bên ngoài tác động, mà khởi xuất từ bên trong, do VPII VHĐ thực hiện qua các bước tiến như sau:

- Giáo chỉ lưu nhiệm, củng cố địa vị của thành phần thiểu số VPII VHĐ: Để được giữ mãi những chức vụ lãnh đạo giáo hội tại hải ngoại, VPII VHĐ đã mượn danh nhị vị hòa thượng lãnh đạo trong nước, ban hành các giáo chỉ lưu nhiệm toàn bộ nhân sự của Hội đồng Điều hành GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, tuyên đọc trong các Đại hội Khoáng Đại lần I (1996), lần II (2000) và lần III (2004). Các giáo chỉ lưu nhiệm ấy bổ túc thêm một vài nhân sự mới thứ yếu cho VPII VHĐ và GHPGVNTNHN-HK, nhưng bảo đảm địa vị “bất khả xâm phạm và hoán chuyển” của Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành (HT. Thích Hộ Giác), Phó Chủ tịch (HT. Thích Chánh Lạc và Pháp sư Giác Đức), Tổng Thư Ký (TT. Thích Viên Lý), Tổng vụ trưởng Tổng vụ Ngoại vụ, kiêm Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo (ông Võ Văn Ái).

- Giáo chỉ số 2, loại trừ nhân sự nòng cốt của Viện Hóa Đạo (trong nước): Sau ba lần “lưu nhiệm” chận đứng tiến trình bầu cử dân chủ trong sinh hoạt giáo hội, cao điểm là lần lưu nhiệm cuối cùng của Đại hội Khoáng Đại Kỳ III vào năm 2004, âm mưu “cố vị” của thiểu số này đã lộ rõ, không thể che mắt đa số các thành viên khác được nữa. Từ chỗ này, VPII VHĐ và GHPGVNTNHN-HK chỉ còn là cái tên với một nhóm thiểu số làm việc hành chánh, bị cô lập khỏi sinh hoạt chung của đại khối Tăng Ni và phật-tử thuộc GHPGVNTN hải ngoại, và hoàn toàn không tạo được mối giây liên lạc nào với các giáo hội khác.

Trước tình trạng như thế, VPII VHĐ phải cố gắng tìm phương kế khác thay vì “giáo chỉ lưu nhiệm” để củng cố địa vị của họ kịp trước Đại hội Khoáng Đại Kỳ IV năm 2008. Dịp may cho ý đồ của họ là vào dịp lễ kỵ cố HT. Thích Trí Thủ vào tháng 4.2005 tại Tu viện Quảng Hương Già Lam, có đủ mặt Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo, tổ chức họp trong phòng riêng của TT. Thích Tuệ Sỹ. Bấy giờ, TT. Thích Tuệ Sỹ, Phó Viện trưởng VHĐ, đã cảnh giác cùng Hội đồng Lưỡng viện về âm mưu chia rẽ của chính quyền cộng sản, cụ thể là đã có người đến gợi ý Thượng tọa đứng ra đảm nhận lãnh đạo GHPGVNTN thay thế HT. Thích Quảng Độ.

Trước sự công khai trải phơi tấm lòng của Thượng tọa, HT. Thích Quảng Độ đã ghi nhận và kêu gọi các thành viên lưu tâm. Được tin này, HT. Thích Hộ Giác và Pháp sư Giác Đức cũng ca ngợi lòng trung kiên và sự thẳng thắn của TT. Thích Tuệ Sỹ (việc này được Pháp sư Giác Đức thuật lại trong Đại hội Bất Thường của GHPGVNTNHN-HK/VPII VHĐ tại chùa Diệu Pháp, ngày 16.3.2006).

Nhưng đối với thiểu số lạm quyền của VPII VHĐ thì đây là cơ hội tốt để loại trừ những ai ngăn cản bước tiến lên thang danh vọng của họ; đặc biệt là TT. Thích Tuệ Sỹ, với chức vụ Phó viện trưởng, là cái gai mà VPII VHĐ cần phải nhổ đi, vì nếu không may vô thường xảy đến cho vị Viện trưởng VHĐ, chính TT. Thích Tuệ Sỹ sẽ là người lên kế vị chức vụ này đúng theo Hiến Chương.

Do vậy, VPII VHĐ đã quyết đẩy TT. Thích Tuệ Sỹ ra khỏi giáo hội bằng cách bóp méo sự thực, tố giác TT. Thích Tuệ Sỹ có  âm mưu lật đổ HT. Thích Quảng Độ để nắm chức vụ Viện trưởng VHĐ. Kết quả là Giáo chỉ số 2/GC/VTT được ban hành ngày 29.11.2005, loại trừ TT. Thích Tuệ Sỹ (Phó viện trưởng), TT. Thích Đức Thắng (Tổng Thư Ký), cùng 5 vị Tổng vụ trưởng khác ra khỏi Ban chỉ đạo VHĐ;

- Giáo chỉ số 9 và Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9, giải tán toàn bộ GHPGVNTN tại hải ngoại: Giáo chỉ số 2 vi hiến, trái giáo luật, gây hoang mang trong dư luận Tăng Ni phật-tử trong và ngoài nước, nhưng VPII VHĐ không quan tâm điều đó, vì trước mắt, họ đã thành công trong việc thay thế những thành viên tài đức và cứng cỏi của giáo hội bằng những người “hữu dõng vô mưu” dễ điều khiển như TT. Thích Viên Định, TT. Thích Không Tánh, TT. Thích Chơn Tâm, TT. Thích Như Tấn, vân vân. Ngoài nước thì có TT. Thích Viên Lý giữ chức Tổng Thư Ký VPII VHĐ và Phó Tổng Thư Ký VHĐ “muôn năm”, bên trong lại có sư huynh của TT. Thích Viên Lý là TT. Thích Viên Định giữ chức Phó viện trưởng kiêm Tổng Thư Ký VHĐ thì xem như đã ổn định về mặt nhân sự trong nước.

VPII VHĐ bắt đầu nhắm đến các thành viên “không thể kiểm soát” tại hải ngoại, đặc biệt là những người mà họ cho là có liên hệ mật thiết với TT. Thích Tuệ Sỹ. Để bắt đầu vọng tưởng toàn trị từ trong nước ra đến hải ngoại, VPII VHĐ bắt đầu mở một chiến dịch vu khống, mạ lỵ, vô cùng tàn nhẫn — mà những kẻ chủ xướng là HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý và ông Võ Văn Ái, với nhiều bút danh khác nhau (Minh Huệ, Hạnh Siêu, Nguyễn Phượng Hoàng, Tôn nữ Ngự Bình... có khi lấy họ Thích, như Thích Tỉnh Thức, Thích Hạnh Hải, Thích Chánh Hạnh...) — đã trút lên đầu TT. Thích Tuệ Sỹ, lôi kéo một số tổ chức chính trị và tôn giáo khác hùa theo để hạ bệ “biểu tượng đấu tranh nhân quyền” mà không lâu trước đây cộng đồng người Việt tị nạn rầm rộ tán dương. VPII VHĐ cũng thuê mướn, khích lệ những bồi bút cuồng nhiệt, thiếu lương tâm và trí phán đoán, cùng đạo hay khác đạo, như TNHH, PHV, NKAT, TVH, BQK, NBL, CT, CTT, vân vân, liên tục viết bài chụp mũ, phỉ báng, nhục mạ TT. Thích Tuệ Sỹ một cách vô cớ và thiếu văn hóa.

Điều lố bịch và thiếu trung thực là ở chỗ, một mặt họ luôn dùng những lời lẽ khiếm nhã, thô tục, vô học... trong bài viết, nhưng một mặt cứ tố giác là Tăng Ni hải ngoại dùng những ngôn ngữ “chợ đời” ấy để mạ lỵ họ! Những ai không có cơ hội đọc bài trên internet và báo chí, sẽ tưởng rằng có các bài viết từ Tăng Ni phật-tử mang tính cách tiêu cực như vậy; nhưng trên thực tế, VPII VHĐ và những bồi bút của họ không bao giờ tìm ra được một bài, một câu, một chữ thô lậu từ những bài viết của Tăng Ni phật-tử để chứng minh với quần chúng, ngược lại những bài viết vô lễ, tục tằn, kém văn hóa của họ nhắm vào chư tôn đức Tăng Ni thì đầy dẫy trên các diễn đàn chính trị, tôn giáo.

Chính phát ngôn nhân VHĐ là ông Võ Văn Ái cũng không giấu giếm được những lời lẽ hỗn xược của ông đối với Tăng Ni trong những buổi hội thảo và bài viết, thông cáo báo chí, vẫn còn đăng sờ sờ trên trang queme.net. Không những vậy, VPII VHĐ còn dựng nên cả một tuồng tích rằng có một âm mưu “động trời” và “tinh vi” của TT. Thích Tuệ Sỹ cùng với Thân Hữu Già Lam nhằm “tiêu diệt GHPGVNTN theo chỉ thị của cộng sản”, rồi lại nối kết Thân Hữu Già Lam với Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại để có cớ triệt hạ uy tín của HT. Thích Minh Tâm và cộng đồng Tăng Ni các nước. Đó là thời gian Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đang chuẩn bị vân tập tại Chùa Pháp Vân, Canada, tham dự Ngày Về Nguồn lần thứ I, hiệp kỵ chư Tổ (từ 21 – 23.9.2007).

Do vì Ngày Về Nguồn được sự tán thán ủng hộ của đa số Tăng Ni trong và ngoài giáo hội, dù tham dự hay không, khiến VPII một mặt vì tự ái (mang danh nghĩa đại diện GHPGVNTN mà chỉ sinh hoạt co cụm với một nhóm thiểu số, không qui tụ được quần chúng), một mặt vì quyết tâm bảo vệ địa vị quyền lợi của mình, đã hoảng sợ trước sức mạnh đoàn kết của Tăng-đoàn, nên cố ý gán tội là có ý đồ “ly khai” và “thỏa hiệp với cộng sản”. Giáo chỉ số 9/VTT/GC/TT được ban hành từ đó, vào ngày 08.9.2007, tiếp theo sau là Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 của Viện Hóa Đạo ngày 25.9.2007, ra lệnh “giải tán các Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và tại các châu” (điều 3).

- Giáo chỉ số 9, hủy bỏ Quyết Định số 27: Trong Giáo chỉ số 9, Điều 7, nói rõ: “Quyết Định này thay thế và hủy bỏ Quyết Định số 27/VPLV/VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày 10.12.1992”.  

Tại sao VPII VHĐ cần hủy bỏ Quyết Định số 27? – Vì Quyết Định số 27 là Quyết Định rất dân chủ và rộng mở của giáo hội, có thể làm nền tảng cho sự thiết lập và phát triển bình đẳng các giáo hội tại hải ngoại. Quyết Định này đã nâng cấp các “chi bộ GHPGVNTN Hải ngoại trực thuộc Viện Hóa Đạo” (Hiến chương, chương thứ IX, điều thứ 36) lên thành “Giáo Hội” của mỗi quốc gia độc lập.

Trong 10 điều qui chiếu dẫn đến Quyết Định 27, Điều thứ 7 đã nêu trước ý này: “Chiếu tình hình Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại sau 1975, hoàn toàn khác với tình hình trước 1975: nhân sự lãnh đạo và quần chúng Tăng Ni Phật tử, cần được tổ chức lại cho qui mô rộng rãi hơn”. Và Điều thứ 6, áp dụng nguyên tắc dân chủ và yết-ma, xem GHPGVNTNHN-HK / VPII VHĐ bình đẳng với GHPGVNTN trong nước: “Mọi Phật sự quan trọng của Giáo hội đều được thống nhất ý chí của 2 Hội Đồng Giáo Hội quốc nội và 4 Hội Đồng Giáo Hội Hải Ngoại trước khi thi hành.”

Quyết Định 27 về mặt hành chánh, là văn kiện trực tiếp công nhận GHPGVNTNHN-HK như là VPII VHĐ, nhưng yếu chỉ của nó là phổ quát, có thể áp dụng đối với các giáo hội tại quốc gia và châu lục khác trong liên hệ phật-sự song phương. Có nghĩa rằng, giáo hội các quốc gia và châu lục ngoài Hoa Kỳ cũng được công nhận như là những “giáo hội” chứ không phải chỉ là các “chi bộ GHPGVNTN Hải ngoại trực thuộc Viện Hóa Đạo” theo Hiến chương. Yếu chỉ này được ghi rõ nơi phần “Bản sao kính gửi” của Quyết Định số 27: “GHPGVNTN tại Âu Châu, Úc Châu, Canada v.v... ‘để kính tường’” (xem Phật Giáo Việt Nam, Biến Cố và Tư Liệu, trang 184).

Với tính cách bình đẳng và dân chủ như thế, Quyết Định số 27 mở rộng con đường hoằng pháp và phát triển cho GHPGVNTN tại hải ngoại nếu giáo hội quốc nội bị tiêu diệt hoặc một giáo hội tại quốc gia hay châu lục bị giải tán, các giáo hội còn lại vẫn tiếp tục sinh hoạt; sinh mệnh của giáo hội vì vậy sẽ trường tồn.

VPII VHĐ không muốn dân chủ, không muốn áp dụng lục hòa hay yết-ma vào sinh hoạt giáo hội, vì vậy họ đã muốn hủy bỏ Quyết Định này từ lâu. Bỏ Quyết Định số 27, quyền hành sẽ tập trung vào Viện Hóa Đạo, mà quyền của Viện Hóa Đạo thì đã trao hết cho VPII rồi.

Không có Quyết Định số 27, VPII quyết định điều gì thì cứ việc ban hành Giáo chỉ, Thông bạch, Thông tư... như là những sắc lệnh thiết quân luật của quốc gia thời chiến, không cần phải “thống nhất ý chí” với các Hội đồng quốc nội và hải ngoại trước khi thi hành; và những giáo hội tại các quốc gia và châu lục sẽ quay trở lại với tư cách chi bộ trực thuộc Viện Hóa Đạo, cũng có nghĩa là trực thuộc VPII VHĐ.

- Biến Giáo chỉ số 9 thành hiệu triệu tố cộng, chống cộng: Giáo chỉ số 9 và Thông bạch Hướng dẫn như một đại họa khủng khiếp giáng xuống những ai không tin và nghe theo sự điều hành của VPII VHĐ. Tăng Ni Phật tử khắp nơi cùng phản ứng phủ nhận Giáo chỉ số 9 từ hình thức (giả mạo, lắp ráp con dấu và chữ ký của Đức Tăng Thống), đến thời gian tính (không hợp lý về ngày tháng hội họp và lập phúc trình dẫn đến quyết định ban hành giáo chỉ), cho đến nội dung, đều không chuyên chở được tinh thần Phật Pháp cũng như tính cách dân chủ theo Hiến chương và nguyên tắc yết-ma trong sinh hoạt Tăng-đoàn.

Trước phản ứng mạnh mẽ của số đông Tăng Ni và phật-tử chân chính, VPII VHĐ càng thêm hốt hoảng, biểu lộ nhiều động thái ngông cuồng và quá khích hơn để chứng minh Giáo chỉ số 9 thực là của Đức Tăng Thống, kết án tất cả những ai không chịu khâm tuân là “thỏa hiệp” hoặc “đầu hàng” cộng sản.

Nhờ sự vu khống, chụp mũ cộng sản này, họ lôi kéo được một số tổ chức chính trị và ngoại đạo vào cuộc chỉ trích và tấn công, bôi nhọ tập thể Tăng Ni phật-tử “không khâm tuân giáo chỉ”. Họ còn tổ chức nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi để giải thích (giải độc) những sai lầm của họ. Thậm chí các khóa tu học, lễ cầu nguyện, lễ tưởng niệm Đức Tăng Thống do họ tổ chức cũng chỉ nhằm vào mục đích vừa ngụy biện bào chữa, vừa tấn công những ai không cúi đầu nghe theo Giáo chỉ số 9 và Thông bạch Hướng dẫn.

Mặt khác, họ còn nỗ lực viết và thuê viết những loạt bài khich động sự hận thù và tẩy chay đối với Tăng Ni nào đã tham dự Ngày Về Nguồn lần I tại Canada (2007) và chuẩn bị tham dự lần II tại Hoa Kỳ (2008). Các bài viết này đều cùng một nội dung vu khống, chụp mũ, và cùng một giọng điệu đầy sân si phiền não, chửi bới, mạ lỵ các vị trưởng lão tỳ kheo và Tăng-đoàn một cách vô lễ, vô đạo.

Rồi suốt một năm qua, trong khi Tăng Ni và phật-tử chân chính vạch rõ sự sai lầm, phi pháp của Giáo chỉ số 9 và Thông bạch Hướng dẫn thì VPII VHĐ cố gắng chứng minh hai văn kiện ấy là thực, không phải giả.

Nhưng họ đã quên một điều, vấn đề không phải là thực hay giả, mà chính ở chỗ: dù văn kiện phát xuất từ đâu, nếu không đúng Chánh Pháp, thiếu tinh thần lục hòa, phạm vào luật giới và nguyên tắc yết-ma, đều bị Tăng Ni và phật-tử xem là vô giá trị, không thể khâm tuân chiếu hành.

- Quyết Định số 2008002/VPTT/HĐĐH/QĐ/CT, giải nhiệm toàn ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Đình Phật Tử tại Hoa Kỳ: Trước sự tàn phá khủng khiếp của Giáo chỉ số 9, hầu hết các đơn vị Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, dưới sự điều hành của Ban Hướng Dẫn Trung Ương, đã cố gắng giữ một vị thế trung dung, tế nhị để chờ đợi sự ổn định từ phía GHPGVNTN trong và ngoài nước. Trong nhất thời, tổ chức GĐPTVN tại Hoa Kỳ (trực thuộc hệ thống giáo hội) với 46 đơn vị, trên 600 huynh trưởng và gần 2500 đoàn sinh nhiều thế hệ, sinh hoạt ở những tiểu bang khác nhau trên toàn quốc, không thể có quyết định nhanh chóng và dứt khoát đối với Giáo chỉ số 9 (vì trên thực tế, có rất nhiều đơn vị sinh hoạt trong các tự viện “không khâm tuân Giáo chỉ số 9” hoặc không trực thuộc hệ thống GHPGVNTNHN-HK/VPII VHĐ).

Nhưng VPII VHĐ không kiên nhẫn chờ đợi ý kiến chung của GĐPT, đã nhân danh Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK là HT. Thích Hộ Giác, ký Quyết Định số 2008002/VPTT/HĐĐH/QĐ/CT, ngày 10.02.2008, với Điều 1 như sau: Giải nhiệm toàn Ban Hướng dẫn Trung ương GĐPTVN tại Hoa Kỳ vì không khâm tuân và không thi hành các Giáo chỉ, Thông tư, Thông bạch của Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN trong thời gian qua...”

Vậy là cả tổ chức thanh thiếu niên, tương lai của giáo hội và Phật giáo Việt Nam, cũng bị vạ lây, bị đẩy ra khỏi hệ thống GHPGVNTNHN-HK / VPII VHĐ. Kết quả là trong 7 Miền thuộc hệ thống tổ chức giáo hội, chỉ có một Miền (Khuông Việt) viết Trình Thư “xin khâm tuân Quyết Định của Giáo hội”, còn 6 Miền kia (Liễu Quán, Thiện Hoa, Quảng Đức, Tố Liên, Khánh Hòa và Phước Huệ) cũng gửi trình thư, nhưng đều chống lại Quyết Định số 2008002 phi lý và tàn nhẫn của VPII VHĐ. Ngay trong Miền Khuông Việt, đã có một nửa các đơn vị không đồng thuận quyết định của Ban Hướng Dẫn Miền (qua Trình Thư), nên trong giới huynh trưởng GĐPT thường nói với nhau: “Chúng ta còn lại 6 Miền rưỡi”.

Tạm xét theo các đơn vị GĐPT ở đây, có thể nhìn thấy sự vô dụng của VPII VHĐ như thế nào đối với cộng đồng Phật giáo Việt Nam nói chung tại hải ngoại. Chưa kể một số đơn vị GĐPT không nằm trong hệ thống GHPGVNTN, có 7 Miền mà VPII chỉ giữ được có nửa (1/2) Miền thôi thì đủ biết uy tín và khả năng thế nào rồi.

- Thông bạch số 31, ngày 24.8.2008 của Viện Hóa Đạo trong nước, không thừa nhận các giáo hội không khâm tuân Giáo chỉ số 9, cáo buộc giáo hội Canada, Úc châu và Âu châu là tiếm danh: Tuy đã mượn danh nghĩa của Hội đồng Lưỡng viện trong nước để ban hành Giáo chỉ số 9 và Thông bạch Hướng dẫn, rồi lại vận động sự ủng hộ của các tổ chức chính trị và ngoại đạo đối với hai văn kiện này,  VPII VHĐ vẫn không sao “giải tán” được các giáo hội PGVNTN tại hải ngoại. Ngược lại, những sai lầm và ngụy trá của VPII VHĐ càng lúc càng bị phơi bày rõ ràng hơn trước công luận, khiến tiếng nói của họ không còn được giới Tăng Ni và phật-tử khắp nơi tin tưởng, và vô hình trung, qua hành xử và phát ngôn của VPII VHĐ, Tăng Ni và quần chúng phật-tử nhìn GHPGVNTN đương thời như là một tổ chức chính trị. Hậu quả trớ trêu mà ai cũng thấy rõ là một văn kiện mang tính cách nội bộ của một tổ chức Phật giáo lại không được Tăng Ni và quần chúng phật-tử nhìn nhận để phải vận động chữ ký ủng hộ của vài tổ chức chính trị thế tục! Nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn, các tuyên cáo chung của các đoàn thể chính trị ủng hộ Giáo chỉ số 9 đã bị thức giả chê cười và xem là vô giá trị đối với tự thân Phật giáo.

VPII VHĐ lúng túng trong sự cô lập và hình ảnh méo mó dị dạng do chính họ tạo nên, chỉ biết tập trung thời giờ để biện bạch, giải thích, bào chữa những sai trái của họ và công kích cộng đồng Tăng Ni hải ngoại qua bất cứ diễn đàn nào do họ tổ chức hoặc gợi ý kẻ khác tổ chức. Trong khi đó, GHPGVNTN tại Canada, Âu châu và Úc châu vẫn sinh hoạt bình thường, công khai hoặc mặc nhiên cho thấy là không thể khâm tuân Giáo chỉ số 9.

Cuối cùng, Giáo chỉ số 9 vẫn chỉ ảnh hưởng đến riêng GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ mà thôi: Ngày 10.11.2007, VPII VHĐ tổ chức Đại hội bất thường tại Chùa Bửu Môn, Texas, thành lập giáo hội mới (vẫn với danh xưng cũ: GHPGVNTNHN-HK) theo Giáo chỉ số 9, giữ nguyên các chức vụ lãnh đạo then chốt của giáo hội Hoa Kỳ cho HT. Thích Hộ Giác, HT. Thích Chánh Lạc, TT. Thích Viên Lý, TT. Thích Giác Đẳng, Pháp sư Giác Đức và ông Võ Văn Ái như 3 nhiệm kỳ trước, bổ sung 6 huynh đệ và bào đệ của TT. Thích Viên Lý mới từ Việt Nam sang vào các Tổng vụ và Miền. Giáo hội mới gồm 21 Tăng Ni và phật-tử mà 7 người thuộc “gia đình” của TT. Thích Viên Lý (gồm pháp huynh, bào huynh, pháp đệ, và bào đệ là Thích Thiện Hữu, Thích Viên Thành, Thích Viên Thông, Thích Viên Quang, Thích Viên Huy, Thích Viên Dung) và 5 người thuộc “tông môn” của HT. Thích Hộ Giác (gồm các đệ tử là Thích Chơn Trí, Thích Huyền Việt, Thích Giác Đẳng, Thích Trí Tịnh).

Sau khi GHPGVNTNHN-HK (mới) được nhanh chóng thành lập theo kế hoạch của thiểu số lãnh đạo tại VPII VHĐ, 2/3 thành viên của GHPGVNTNHN-HK (cũ) không muốn tranh tụng pháp lý với họ về tổ chức giáo hội tại quốc gia này, đã nhẫn nhục, nhượng bộ và tiếp tục hành đạo trong thầm lặng. Nhưng trước sự liên tục công kích, mạ lỵ, chụp mũ cộng sản của VPII VHĐ đối với những ai không khâm tuân Giáo chỉ số 9 và không là thành viên của giáo hội mới, thành phần đa số thành viên của giáo hội cũ tại Hoa Kỳ đã thỉnh cầu vị Chánh Văn Phòng Hội Đồng Giáo Phẩm là HT. Thích Thắng Hoan, chiếu Qui Chế GHPGVNTNHN-HK, chương thứ Tám, mục Đại hội Bất thường, điều thứ 35, triệu tập một đại hội bất thường. Từ Đại hội Bất thường ngày 11 & 12.01.2008 tại Chùa Phổ Đà và Bảo Quang, thành phố Santa Ana, California, Hoa Kỳ, thành phần đa số quyết định thành lập một tổ chức khác, tạm thời lấy tên ‘Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ”.

Vẫn không buông tha, VPII VHĐ sách động những bồi bút, hợp sức với ngoại đạo kết án tổ chức của thành phần đa số là “ly khai, chống lại GHPGVNTN”. Còn đối với các giáo hội tại Canada, Âu châu và Úc châu, nhất thời VPII VHĐ chưa tìm được kế sách triệt tiêu, nên phải đợi đến khi Đức Tăng Thống viên tịch (05.7.2008), để lại chúc thư ủy thác HT. Thích Quảng Độ, kiêm nhiệm Xử lý Thường Vụ Viện Tăng Thống, mới loé ra quyết định mới.

Thế rồi, chỉ hai ngày sau Lễ Chung Thất Đức Tăng Thống, HT. Thích Quảng Độ, nhân danh Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN ra Thông bạch số 31, ngày 24.8.2008, “không thừa nhận và không chịu trách nhiệm đối với bất cứ tổ chức nào sử dụng danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất khi tổ chức này không tuân thủ Hiến chương GHPGVNTN bản Đại hội GHPGVNTN khóa V tu chính ngày 12.12.1973, cũng như không khâm tuân Giáo chỉ số 9 cùng các Thông điệp, Thông bạch, Thông tư của Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN. Mọi sử dựng danh xưng GHPGVNTN trong trường hợp này chỉ là sự tiếm danh” (Điều 1). Thông bạch này dĩ nhiên không nhắm vào GHPGVNTNHN-HK (mới) và Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, mà nêu đích danh 3 giáo hội ngoài Hoa Kỳ: “Hội đồng Lưỡng Viện không thừa nhận là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất các tổ chức tiếm danh sau đây: - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Canada của Thượng tọa Thích Bổn Đạt ; - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan của các vị Hòa thượng Thích Như Huệ, Hòa thượng Thích Bảo Lạc, Thượng tọa Thích Quảng Ba, v.v..., và - Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Âu châu của Hòa thượng Thích Minh Tâm” (Điều 2).

Có lẽ HT. Thích Quảng Độ đã nghe VPII VHĐ báo cáo không trung thực về hiện tình các giáo hội tại hải ngoại nên tưởng rằng các giáo hội tại Canada, Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan và Âu châu đã bị cá nhân TT. Thích Bổn Đạt, HT. Thích Như Huệ, HT. Thích Bảo Lạc, TT. Thích Quảng Ba, và HT. Thích Minh Tâm “tiếm danh”. Không ngờ rằng trên thực tế, các giáo hội nói trên sở dĩ còn tồn tại vững mạnh là do tuyệt đại đa số thành viên Tăng Ni và cư sĩ của các giáo hội ấy đã sinh hoạt trong tinh thần lục hòa và ý thức dân chủ, tương kính và đoàn kết với nhau suốt những năm rời nước hành đạo.

Thông Bạch số 31 là lưỡi dao bạc tình vô tâm, đâm xoáy vào tâm nguyện và ý hướng vì Đạo vì Đời của tập thể Tăng già và phật-tử Việt Nam tại hải ngoại. Nỗi đau thống thiết của Tăng Ni và cư sĩ dồn nén từ lâu trong nhẫn nhục chịu đựng, cuối cùng phải bật thành tiếng nói uy dũng và trí tuệ qua Tuyên Bố Chung ngày 09.9.2008, gồm 7 điểm, với 104 chữ ký của lãnh đạo, giáo phẩm và thành viên của 4 giáo hội Canada, Úc châu, Âu châu và Hoa Kỳ (cũ).

Tuyên Bố Chung khẳng định tư cách pháp lý và pháp nhân của các thành viên thuộc các giáo hội hải ngoại, phủ nhận sự cáo buộc vô lý của Thông Bạch số 31 về sự tiếm danh, đồng thời phủ nhận tất cả những văn kiện nào có tính cách áp chế, độc đoán, thiếu dân chủ, dù văn kiện ấy phát xuất từ đâu. Một đoạn trong 7 điểm của Tuyên Bố Chung phản ảnh thực tế đau lòng của pháp nạn hiện nay: Chúng tôi tha thiết kêu gọi tất cả những ai, trong hay ngoài Phật giáo, đang chủ trương hoặc tiếp tay trong những chiến dịch mạ lỵ, phỉ báng, vu khống, chụp mũ nhắm vào Tăng Ni Phật tử, đặc biệt là hàng giáo phẩm lãnh đạo các Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, hãy ngưng ngay những chiến dịch này để tránh tình trạng phân hóa, thù nghịch giữa các cộng đồng tôn giáo của người Việt tại hải ngoại. Chúng tôi cũng tha thiết kêu gọi Tăng Ni Phật tử Việt Nam hãy sáng suốt,  bình tĩnh, cảnh giác trước cơn khủng hoảng trầm trọng hiện nay, nỗ lực bảo vệ phẩm cách và những giá trị trong sáng, chân chính của tổ chức Giáo Hội và tập thể Tăng Ni Phật tử, đặc biệt là phát huy bản thể thanh tịnh, hòa hợp của Tăng Già và tinh tấn trong đời sống tu học hàng ngày của người Phật tử. Chính đó sẽ nuôi lớn nội lực để hóa giải mọi chướng duyên từ bên trong cũng như bên ngoài.[1]

- Thông bạch về bản “Tuyên Bố Chung” cùng sự tiếm danh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất của một số Tăng Ni hải ngoại: Thông bạch này được HT. Thích Hộ Giác, Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, “thừa ủy nhiệm Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN” ký ngày 26.9.2008, với 3 “nhận định” về “Tuyên Bố Chung” (Điều sai nguyên tắc hành chánh một cách buồn cười là Thông bạch này phủ nhận giáo hội các quốc gia và châu lục, nhưng bản sao kính gửi thì lại gửi “GHPGVNTN-HN tại Canada, Châu Âu, Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan ‘để tường tri và thấu đạt’”. Giáo hội cũ thì vẫn còn đó, không thể giải tán, giáo hội mới thì chưa lập, vậy các giáo hội được gửi Thông bạch này là giáo hội nào?).

Nội dung Thông bạch đưa ra 5 câu giải thích, dùng những luận điệu quen thuộc của ông Võ Văn Ái và các bồi bút của VPII VHĐ trong việc chụp mũ, vu khống Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Ngày Về Nguồn và Thân Hữu Già Lam, nối kết các tổ chức này với 104 người ký tên trong Tuyên Bố Chung, với hàm ý rằng tất cả đều thỏa hiệp với cộng sản hoặc “vô hình trung” làm lợi cho cộng sản.

Sau đó là 3 “nhận định”, dùng lời tố giác mạnh mẽ nhưng hàm hồ, vô bằng chứng. Nhận định 1, phủ nhận tư cách thành viên của 104 Tăng Ni và cư sĩ ký tên trong Tuyên Bố Chung, cho rằng những vị này là tiếm danh GHPGVNTN, và “âm mưu phản chống bước tiến thủ của GHPGVNTN”. Nhận định 2, cho rằng những vị này đang thực hiện điều mà nhà cầm quyền Cộng sản mơ ước, qua các hành động công phá GHPGVNTN, tạo tiếng xấu, gây hoang mang dư luận, nhằm đốt giai đoạn để thực hiện chủ trương tiêu diệt GHPGVNTN”. Nhận định 3, cho rằng những vị này “đang thực hiện điều mà nhà cầm quyền Cộng sản mơ ước, qua các hành động công phá uy tín lãnh đạo của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, mà văn từ, ngôn ngữ bất kính, thô lỗ, hung hãn được tận dụng trong các văn thư của tám vị Hoà thượng tại Hoa Kỳ, của hàng chục bài viết nặc danh của nhóm Thân hữu Già Lam, và nay trong văn bản cuối cùng có tên ‘Tuyên Bố Chung’ ngày 9.9.2008”.

Lưu ý rằng đây chỉ là một Thông bạch, giống như Thông bạch 31 ở trước, nhưng lại khác ở chỗ: Thông bạch 31 đưa ra 3 quyết định dứt khoát, còn ở đây, chỉ đưa ra 3 “nhận định” (nguyên văn: “Đúc kết các sự lý nêu trên, qua Thông bạch hôm nay, Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, xin long trọng tuyên cáo ba nhận định sau đây...”).

Qua đó, cố tình đánh lừa người đọc không quen với hành chánh của giáo hội nghĩ rằng đây là những cáo buộc đúng đắn, có thực do Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN đưa ra. Nhưng người tinh tế sẽ thấy rằng nhận định thì có đúng, có sai, mà đa phần là chủ quan, đâu cần gì phải “long trọng tuyên cáo”.

Nhưng tại sao VPII VHĐ không dám quả quyết trong Thông bạch này? – Vì mấy lý do sau đây: 1) Chiêu bài vu khống, chụp mũ cộng sản của VPII VHĐ không còn tác dụng nữa, bằng chứng là đại đa số các thành viên lãnh đạo của 4 giáo hội hải ngoại đã cùng ký tên vào Tuyên Bố Chung, không lẽ đều là cộng sản hết? Cho nên, chỉ dám nói là “nhận định”; 2) Giáo chỉ và Thông bạch của Hội đồng Lưỡng viện còn bị “Tuyên Bố Chung” xem là vô giá trị nếu mang tính độc tài, áp chế, phi dân chủ, phá hòa hợp tăng, huống gì Thông bạch xuất phát từ VPII VHĐ, một văn phòng ồn ào phát ngôn mà rỗng tuếch phẩm hạnh tại hải ngoại! Do đó, chỉ dám “nhận định”, không dám quyết định. 3) VPII VHĐ biết rằng chỉ có thể “nhận định” về tư cách thành viên của 104 Tăng Ni và cư sĩ ký tên trong “Tuyên Bố Chung”, chứ không thể phủ nhận tư cách của họ về mặt pháp lý, vì các giáo hội này được chính thức thành lập từ quốc gia họ hành đạo, chỉ liên hệ tinh thần với GHPGVNTN mà thôi.

 

Thế lực nào Âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN?

Hẳn nhiên ai cũng có câu trả lời nhanh chóng là từ sau năm 1975, chính quyền cộng sản Việt Nam đã có chính sách kiểm soát, mà nếu không được, sẽ tiêu diệt GHPGVNTN. Nhưng, như đã trình bày ở trước, thế lực chính trị đàn áp Phật giáo chỉ là pháp nạn ngoại tại. Còn pháp nạn nội tại thì từ khởi phát từ bên trong.

Các văn kiện của giáo hội từ những năm gần đây, bất kể là từ trong nước hay hải ngoại, thường đưa ra các cáo giác về âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN của cộng sản và của những người “thỏa hiệp”, hoặc “trá hàng” cộng sản, và gần đây, khi sự chụp mũ không còn tác dụng nữa thì đổi giọng thành “vô hình trung” làm lợi cho cộng sản.

Nay thử đi vào các văn kiện được xem là ban hành từ Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, cũng như từ VPII VHĐ, để tìm xem “âm mưu phá hoại” ở đâu và những yếu tố nào dẫn đến sự suy yếu và hầu như tiêu vong của GHPGVNTN hiện nay.

 

1. Giáo chỉ số 9:

Đưa ra 7 nhận định trước khi dẫn đến 8 quyết định của Viện Tăng Thống. Ba nhận định đầu lược nêu đường lối, chủ trương và hiện trạng của GHPGVNTN, không gì mới lạ, và cũng không phải là những nhận định cần thiết dẫn đến các quyết định của giáo chỉ. Bốn nhận định sau mới là chỗ y cứ để qui chiếu, nhưng chỗ y cứ này vừa sai lầm, tiêu cực, lại vừa hồ đồ, vu vơ, khơi mào cho một chiến dịch vu khống, chụp mũ cộng sản để “thanh lọc hàng ngũ Giáo hội” (chữ dùng của Giáo chỉ).

Ở đây không dài dòng phân tích về những sai lầm, chỉ xin trích hai nhận định có tính cách vu khống nhắm vào chư tôn đức Tăng Ni và phật-tử không đồng quan điểm với nhóm thiểu số của VPII VHĐ: “Vì nhiều lý do nội tại hay khách quan, vô tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao rộng của Chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng Bát chánh đạo và làm nghiêng ngửa Giáo hội” (nhận định 4) và “Đồng thời với cuộc đàn áp trong nước nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương, đường hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm muu dập tắt tiếng nói cua Giáo hội trên địa bàn quốc tế” (nhận định 7).

Điều chính yếu của Giáo chỉ số 9 là thành lập VPII VHĐ (mới) “trực thuộc sự chỉ đạo và điều hành của Viện trưởng VHĐ”; các thành viên VPII VHĐ “do Viện trưởng Viện Hóa Đạo thỉnh tuyển và chỉ định” (điều 3) “hoạt động vô thời hạn” (điều 5). Hai điều 3 và 5 này có nghĩa là các giáo hội tại hải ngoại thu nhỏ lại trong tầm kiểm soát của VPII VHĐ và đặt vào trong tay của cá nhân Viện trưởng VHĐ trong nước (không phải của Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN), kéo lui các giáo hội mang tầm cỡ quốc gia và châu lục trở về với thời kỳ “chi bộ GHPGVNTN Hải ngoại” trước năm 1975 (theo Hiến chương, chương IX, điều 36) qua việc “thay thế và hủy bỏ Quyết Định số 27-VPLV/VHĐ do Quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo ban hành ngày 10.12.1992” (điều 7),

Điều đáng lưu ý khác nữa là các cụm từ “một số chư Tăng, Phật tử” “một số phần tử cơ hội” bị Giáo chỉ vu khống, lại thuộc thành phần đa số, bởi khi “thanh lọc” thành phần này xong, GHPGVNTN tại hải ngoại (gồm châu Âu, châu Úc, Hoa Kỳ và Canada), chỉ còn vỏn vẹn 14 người thuộc VPII VHĐ, mà 2 trong số 14 người này lại công khai hoặc mặc nhiên bất hợp tác (HT. Thích Như Huệ - Úc châu, và HT. Thích Trí Minh – Âu châu). Về hình thức, Giáo chỉ số 9 vấp phải nhiều sai lầm và mâu thuẫn không thể tha thứ [2] ; mà về nội dung, chỉ là một văn kiện phá hoại, hoàn toàn không mang tính xây dựng hay bảo vệ giáo hội như VPII VHĐ ngoa ngụy nêu ra.

 

2.  Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9:

Thông bạch này dẫn chứng các nhận định sai lầm và mơ hồ của Giáo chỉ số 9, y cứ Bản Phúc Trình hồ đồ và dối trá của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, để đưa ra 12 điều hướng dẫn thi hành đầy tính độc tài, áp chế, trái Hiến chương và dẫm lên các Qui chế sinh hoạt của các giáo hội tại hải ngoại.

Theo 12 điều “hướng dẫn” này, VPII VHĐ (mới) là “đại diện duy nhất của Viện Hóa Đạo” (điều 1); đặt trụ sở tại Hoa Kỳ như 16 năm trước (điều 2); giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại do Tăng Ni và phật-tử tại mỗi quốc gia và châu lục thành lập trước đây, hủy bỏ Quyết Định số 27 ngày 10.12.1992 do Quyền Viện trưởng VHĐ ban hành (điều 3); các thành viên được chỉ định sẵn của VPII VHĐ (mới) nhanh chóng thành lập giáo hội mới tại Hoa Kỳ (điều 4); các thành viên được chỉ định sẵn tại VPII VHĐ (mới) “kết hợp với các Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada triệu tập đại hội trong thời gian sớm nhất để thành lập Hội đồng Giáo phẩm và Hội đồng Điều hành” của các giáo hội mới tại các quốc gia và châu lục này (điềụ 5); danh sách thành phần nhân sự Hội đồng Điều hành và Hội đồng Giáo phẩm của các giáo hội mới tại hải ngoại phải được trình lên VHĐ “để duyệt xét và chuẩn nhận trước khi có hiệu lực hoạt động” (điều 6); “Chủ tịch Văn Phòng II VHĐ đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Hoa Kỳ” (có nghĩa là VHĐ đã chỉ định sẵn, đại hội không cần bầu cử theo thể thức dân chủ - điều 7); “Tổng ủy viên Đặc trách liên lạc Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada thuộc Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Điều hành GHPGVNTN-HN tại Úc châu & Tân Tây Lan, Châu Âu và Canada” (tức là chỉ định sẵn như giáo hội Hoa Kỳ, không cần bầu cử theo thể thức dân chủ - điều 8); các vị Chủ tịch HĐĐH các giáo hội tại hải ngoại “có nhiệm vụ thỉnh cử, bổ sung hay hoán chuyển nhân sự”“trình về Viện Hóa Đạo duyệt xét và chuẩn nhận” (điều 9); “nếu pháp nạn còn kéo dài, thì cứ 2 năm một lần cần xem xét lại toàn bộ nhân sự để bổ sung, hoán chuyển hoặc thay đổi theo đúng điều 3 Giáo chỉ qui định”, có nghĩa là bổ sung, hoán chuyển và thay đổi những nhân sự đã được Viện Hóa Đạo chỉ định sẵn (theo điều 3 của Giáo chỉ) chứ không cần bầu cử theo thể thức dân chủ (điều 9); “Chủ tịch và các thành viên được thỉnh cử vào Hội đồng Giáo phẩm và Hội Đồng Điều Hành các GHPGVNTN-HN không được tham gia hay giữ chức vụ gì trong các tổ chức, hội đoàn, đảng phái ngoài Phật giáo” (điều 10); “Giáo chỉ số 9 có hiệu lực cho đến khi hết Pháp nạn” (điều 11); Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9 “có hiệu lực kể từ ngày Viện trưởng VHĐ ấn ký và cho phổ biến thông qua cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế có trụ sở đặt tại Paris, Pháp quốc” (điều 12).

Với 12 điều hướng dẫn trái giới luật, phi dân chủ, nhằm tập trung quyền hạn tuyệt đối cho Viện Hóa Đạo và củng cố địa vị “vô thời hạn” cho VPII VHĐ, Thông bạch Hướng dẫn này là một văn kiện phá hoại Phật giáo, cực kỳ sai trái, được xuất phát từ những tâm thức bệnh hoạn, loạn tưởng, tham vọng quyền hành.

 

3.  Bản Phúc Trình của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống:

Toa rập với VPII VHĐ, HT. Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN đã cấp tốc viết Bản Phúc Trình này nhằm bổ túc cho một trong 8 điều qui chiếu của Giáo chỉ số 9 (“chiếu phúc trình tình hình sinh hoạt GHPGVNTN Quốc nội và Hải ngoại trong hai năm 2006-2007” – Giáo chỉ số 9). Tiếc thay, Bản Phúc Trình lại ký cùng ngày 08.9.2007 với Giáo chỉ số 9, có nghĩa là quá trễ để có tác dụng nào đó đối với việc ban hành Giáo chỉ. Tuy đã trễ cho việc bổ túc Giáo chỉ, Bản Phúc Trình này lại được trích dẫn hầu như toàn văn trong Thông bạch Hướng dẫn để giúp Viện Hóa Đạo có chỗ y cứ, triển khai việc “thi hành” Giáo chỉ. Thế là cả 3 văn kiện đều tự tố cáo sự dối trá, lừa gạt đối với quần chúng. [3]

Theo Giáo chỉ số 9, người ta thấy tiến trình hội họp, báo cáo, phúc trình diễn ra một cách vô lý như sau: ngày 22.8.2007, “Hội đồng Lưỡng viện đã triệu tập cuộc họp khẩn để nghe báo cáo Phật sự Giáo hội trong và ngoài nước và tìm biện pháp khai thông”; cũng tại cuộc họp này, Hội đồng Lưỡng viện đã được nghe tường trình “các cuộc cứu trợ thuần túy xã hội của Giáo hội đã được thực hiện công khai ngày 23.8.2007 tại Hà nội” (chưa xảy ra), và có thể là nghe đọc “Bản Phúc trình Phật sự viết từ Huế ngày 8.9.2007” (chưa viết). Nếu Bản Phúc Trình của HT. Thích Thiện Hạnh không được đọc trong “cuộc họp khẩn” thì nó không phải là điều qui chiếu trong Giáo chỉ số 9, và cũng không tác dụng hay liên hệ gì đến quyết định ban hành Giáo chỉ số 9 (vì nó được viết cùng ngày Giáo chỉ số 9 được ban hành).

Vậy thì điều qui chiếu trong Giáo chỉ về “phúc trình tình hình sinh hoạt GHPGVNTN Quốc nội và Hải ngoại trong hai năm 2006-2007” chỉ là phúc trình miệng, không có văn bản, và HT. Thích Thiện Hạnh, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, đã cung cấp Bản Phúc Trình phật-sự này cho Viện Hóa Đạo như một “cáo trạng” kể tội chư tôn đức Tăng Ni và cư sĩ thành viên của Giáo hội trong và ngoài nước sau khi Giáo chỉ số 9 được ban hành.

Bản Phúc Trình của một trưởng lão tỳ kheo, Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, mà lại đặt điều vu khống cả một tập thể Tăng-già lẫn cư sĩ trong và ngoài nước qua “Nhóm Thân Hữu Già Lam” khi tổ chức này trên thực tế không hề có tại quốc nội (chỉ có Hội Thân Hữu Già Lam chính thức thành lập từ năm 2004 tại Hoa Kỳ).

Nhưng cứ xem việc vu khống, xuyên tạc ở đây là chuyện nhỏ, thường tình trong chiến dịch phá hoại GHPGVNTN của VPII VHĐ, và hãy xét về 5 đề nghị của Bản Phúc Trình được Thông bạch Hướng dẫn trích đủ: 1) “Chấn chỉnh các Hội đồng Điều hành GHPGVNT Hải ngoại tại các châu lục”, tức là tán đồng Viện trưởng VHĐ có thẩm quyền thỉnh cử và chỉ định nhân sự của VPII VHĐ để từ đó giải tán các giáo hội cũ và thành lập các giáo hội mới; 2) “Những thành viên trung kiên với Giáo hội lâu nay, hãy bảo vệ các vị với bất cứ giá nào trước những mưu mô, xuyên tạc hạ uy tín, mà Cộng sản Việt Nam đang cài người vào nội bộ chúng ta để quấy phá. Tạo điều kiện tốt cho các vị tiếp tục phục vụ Giáo hội và Dân tộc”, hàm ý bảo vệ các nhân sự thiểu số của VPII VHĐ trong đó có vị đã bị tòa án Hoa Kỳ tại tiểu bang Colorado phán quyết có tội. Phúc Trình muốn mọi người nên hiểu rằng, một là tòa án Hoa Kỳ đã đồng lõa với cộng sản Việt Nam để phá hoại Giáo hội, hai là tòa án Hoa Kỳ đã phán quyết sai, chứ không phải vị lãnh đạo giáo hội tại Hoa Kỳ có phạm tội hình sự (dù tội nhân được tại ngoại và dùng tiền của đàn-na để nộp phạt mỗi tháng cho đến khi nộp đủ 4 triệu 8 trăm nghìn mỹ kim); 3) “Những cá nhân, hoặc nhân danh tập thể, không còn giữ được lòng trung kiên với Giáo hội, thì tạo điều kiện để các vị được rút lui, không nên cầm giữ làm gì”, tức là khuyến khích Viện Hóa Đạo “thanh lọc hàng ngũ” Giáo hội, dù rằng “lòng trung kiên” của mỗi người (huống gì cả bốn tập thể giáo hội tại hải ngoại) chẳng làm sao mà đo lường được; 4) “Đối với các vị Hòa thượng có tuổi cao, sức yếu, có ý định nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, thì xin cung thỉnh chư vị lưu lại cùng Giáo hội, trong lúc Giáo hội đang lâm nguy bởi nội ma, ngoại chướng”, tức là gợi ý cho “về vườn” một số vị mà VPII VHĐ không tin tưởng, nhưng không dám “thanh lọc” mà chỉ cất chức và giữ họ lại để làm “phông” cho Giáo hội; 5) “Ở trường hợp bất khả kháng, không thể hội họp, không được đi lại, gặp nhau, bàn bạc, thảo luận như Hiến chương qui định, thì phải tính tới dùng Giáo chỉ, Quyết định, Thông tư... để điều hành Phật sự lúc nguy biến”, tức là khuyến khích và đồng lõa với Viện Hóa Đạo trong âm mưu tập trung quyền bính, khuynh loát GHPGVNTN, “chà đạp lên Hiến chương, dẫm nát Nội qui của GHPGVNTN do xương máu của chư Tăng Ni và Thánh tử đạo gầy dựng và bảo vệ suốt trên 40 năm qua, từ trong nước đến ngoài nước.” [4]

Bản Phúc Trình này tuy hàm hồ, không bằng chứng để luận tội đồng đạo, lại được VPII VHĐ nhắc tới nhiều lần để công kích và chụp mũ cộng sản cho thành phần đa số Tăng Ni và cư sĩ trong và ngoài nước. Văn kiện này phụ họa với Giáo chỉ số 9, được xem như là văn kiện nền tảng để Viện Hóa Đạo “thanh lọc hàng ngũ Giáo hội”. Nó thực sự là một văn kiện phá hoại, mở đường cho sự thao túng, tập quyền, ngụy trá trong chiêu bài bảo vệ Giáo hội.

 

4. Thông bạch về bản “Tuyên Bố Chung” của Chủ tịch VPII VHĐ:

Thông bạch này, như đã nói ở trước, được HT. Thích Hộ Giác, thừa ủy nhiệm Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN ký ngày 26.9.2008, được phổ biến với lời mào đầu hết sức vô lễ và điêu trá, bằng lý luận cùn mằn cạn cợt của ông Võ Văn Ái theo Thông cáo Báo chí cùng ngày của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế.

- Vô lễ vì ông Võ Văn Ái gọi chư tôn đức Tăng Ni ký tên trong Tuyên Bố Chung là “nhóm gây rối thuộc Tung đội thứ Năm”, gọi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hoa Kỳ là “tiếm danh nham nhở’.

- Điêu trá vì : a) ông Võ Văn Ái cho đến hôm nay, gần 100 ngày Đức Tăng Thống viên tịch, vẫn chưa chứng minh được Chúc Thư do ông phổ biến là thực, lại ngậm máu phun người cho rằng “nhóm gây rối” đã tung ra Giáo chỉ và Chúc thư giả trong khi nhiều người nghĩ rằng các chúc thư và giáo chỉ “giả” đều do ông đưa ra; b) ông còn nói “chống đối Giáo chỉ số 9 đồng nghĩa với việc thủ tiêu cuộc đấu tranh chống sự đàn áp tôn giáo nói chung của đảng Cộng sản Việt Nam, và âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN nói riêng”, là cố ý nhập nhằng việc chống đối cái sai lầm của giáo chỉ với cuộc đấu tranh cho tự do tôn giáo và âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN bởi vì Giáo chỉ số 9, thực chất chẳng phải là “phương thuốc thần diệu” gì để ngăn chận sự đàn áp tôn giáo hay thủ tiêu giáo hội của cộng sản cả; trái lại là đàng khác, vì Giáo chỉ số 9 phá nát sự đoàn kết hòa hợp của Tăng Ni và cư sĩ thuộc các giáo hội PGVNTN tại hải ngoại, trong khi các thế lực khác, đặc biệt là cộng sản Việt Nam, không thể làm được trong nhiều năm qua; c) ông Võ Văn Ái cho rằng “trừ một số nhỏ là cựu thành viên GHPGVNTN Hải ngoại, đa số là những Tăng Ni không có tên trong danh sách Giáo hội” là cách nói gian xảo, lật lọng, cố tình sai sự thực để phủ nhận thực tế rằng đa số thành viên Tăng Ni và cư sĩ của Giáo hội khắp nơi đã đồng tâm cất lời tuyên bố chung, như tát một gáo nước lạnh vào mặt thành phần thiểu số tiếm danh, lạm quyền! Trong danh sách ký tên, đa phần đều nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, điều hành các giáo hội, lẽ nào ông Võ Văn Ái và VPII VHĐ không biết! Hay vì 16 năm qua, VPII VHĐ không hề liên lạc với bốn các giáo hội hải ngoại nên không nhận ra ai là người của giáo hội? d) Ông lại càng xảo trá, điêu ngoa hơn khi nói: “Con số 124 người ký tưởng như “lớn”. Nhưng đâu lớn bằng con số “40.000 Tăng Ni” trong giáo hội Phật giáo Nhà nước mà Hà Nội không ngừng rêu rao để “giành Phật giáo” về cho Đảng.” Ngôn ngữ này chỉ có thể tìm thấy từ những tâm thức hèn mạt tiểu nhân, lươn lẹo dùng xảo ngôn để dẫn dắt người đọc đi chệch qua hướng khác, quên nhìn rõ cái thực tế thảm thương của VPII VHĐ!

Thực tế đó lần đầu tiên bị lột trần trước công luận thế giới: VPII VHĐ chỉ là một thiểu số đại ngôn, dối trá, co cụm trong một cái vỏ của danh tướng, vị kỷ; VPII VHĐ chỉ là một nhóm người nhỏ không còn liêm sỉ, đang cố gắng vận động sự ủng hộ của các thế lực chính trị ngoài Phật giáo, thậm chí cầu viện sự yểm trợ của ngoại đạo để được tồn tại, hoàn toàn không chiếm được hậu thuẫn của Tăng Ni và phật-tử Việt Nam, trong cũng như ngoài nước! Và đây, khi 4 giáo hội Canada, Úc châu, Âu châu và Hoa Kỳ, gồm 104 người lên tiếng trong Tuyên Bố Chung, thì ông Võ Văn Ái với sự hoảng hốt kinh sợ, đã đếm lộn thành 124, rồi lắp bắp mỉa mai so sánh: “Con số 124 người ký tưởng như “lớn”. Nhưng đâu lớn bằng con số “40.000 Tăng Ni” trong giáo hội Phật giáo Nhà nước mà Hà Nội không ngừng rêu rao để “giành Phật giáo” về cho Đảng”! Con số 104 thành viên của bốn giáo hội tuy rằng nhỏ so với 40,000 Tăng Ni của giáo hội Nhà Nước, nhưng khá lớn đối với con số 12 người của VPII VHĐ, hoặc ngay cả với 21 người của GHPGVNTNHN-Hoa Kỳ, phải không ông Võ Văn Ái? Sao không thử so sánh giữa nội bộ Giáo hội PGVNTN mà lại so với Tăng Ni trong nước nghĩa là sao?

Nay hãy đi vào Thông bạch ký tên HT. Thích Hộ Giác. Vì Thông bạch này được đăng chung với Thông cáo Báo chí của ông Võ Văn Ái nên người đọc dễ nhận ra hai văn bản là của một tác giả. Nói rõ ra, hai văn bản đều do ông Võ Văn Ái viết, mà Thông bạch thì ký tên HT. Thích Hộ Giác. Nhưng điều này không quan trọng. Ai viết cũng sai, cũng ngụy biện, hàm hồ và xảo trá. Không ai muốn tin Thông bạch này của HT. Thích Hộ Giác ký, nhưng không tin cũng không được, vì đã hai tuần trôi qua rồi, không thấy Hòa thượng lên tiếng cải chính, phủ nhận. Vậy thì đành theo văn bản hiện phổ biến, gồm 5 câu trả lời và 3 nhận định về bản “Tuyên bố chung”, nhưng ở phần trước đã điểm qua ý chính của 3 nhận định, nên nay chỉ nói về những điểm sai lầm, mang tính phá hoại trong 5 câu giải thích dẫn đến 3 nhận định kia:

1)   “Nói về số lượng chữ ký dưới bản “Tuyên Bố Chung” ký ngày 9.9.2008 được phổ biến, thì tổng cộng gồm có 124 chữ ký Tăng, Ni, Cư sĩ tại Canada, Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, Âu châu và Hoa Kỳ. Ngoại trừ một số ít là cựu thành viên của GHPGVNTN, còn đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Do đó, Văn phòng II Viện Hoá Đạo, là cơ quan tối cao và đại diện duy nhất ở hải ngoại của Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, dưới sự lãnh đạo nghiêm minh của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên dưới Tuyên Bố Chung ngày 9.9.2008. Nhất là ở vào hiện tình có hàng trăm Tăng, Ni thuộc Giáo hội Phật giáo Nhà nước được gửi ra nước ngoài đến Hoa Kỳ, Canada, Úc châu và Âu châu hoạt động” (trích nguyên văn).

Nói 124 chữ ký là sai; chỉ có 104 thôi. Nếu có thêm 20 người nào khác thì do VPII VHĐ gán ghép đưa vào, chứ không có trong danh sách nguyên thủy được phổ biến toàn cầu. Thành viên bốn giáo hội ký tên tất nhiên không chịu trách nhiệm về văn bản ký tên 124 người do VPII VHĐ đề cập đến. Còn nói rằng “đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo” thì quá hồ đồ, vì kể từ khi thành lập, GHPGVNTN và VPII VHĐ đã lập danh sách Tăng Ni và cư sĩ thuộc giáo hội các quốc gia và các châu lục chưa? Cả VHĐ và VPII VHĐ đã có lần nào thực sự tiếp xúc với toàn thể thành viên của giáo hội các quốc gia và châu lục chưa? Trong tay VHĐ và VPII VHĐ có được danh sách bao nhiêu Tăng Ni của bốn giáo hội hải ngoại và giáo hội trong nước? Còn nói rằng VPII VHĐ “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên dưới Tuyên Bố Chung ngày 9.9.2008. Nhất là ở vào hiện tình có hàng trăm Tăng, Ni thuộc Giáo hội Phật giáo Nhà nước được gửi ra nước ngoài đến Hoa Kỳ, Canada, Úc châu và Âu châu hoạt động” phải chăng HT. Thích Hộ Giác muốn châm biếm TT. Thích Viên Lý đã bảo lãnh 7 vị huynh đệ và anh em ruột thịt từ Việt Nam sang Hoa Kỳ mấy năm gần đây, đưa vào ngay tại trụ sở trung ương của VPII VHĐ, nắm các chức vụ then chốt của Giáo hội tại Hoa Kỳ? Thưa HT. Thích Hộ Giác, chỉ nội 7 huynh đệ của TT. Thích Viên Lý không thôi, VPII VHĐ cũng “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học” của họ chứ đừng nói là những Tăng Ni mà Hòa thượng chưa hề tiếp xúc.

Ở đây cũng cần mở ngoặc nói thêm về tính cách “trung kiên” hoặc “thỏa hiệp” với chính quyền cộng sản mà VPII VHĐ thường lấy làm mục tiêu công kích, chụp mũ kẻ khác. Xin lấy chuyện HT. Thích Hộ Giác, tác giả của Thông bạch này làm điển hình:

Tháng 10 năm 1981, Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN họp lần cuối tại trụ sở trung ương Chùa Ấn Quang để đúc kết danh sách đại biểu tham dự Hội nghị Thống nhất Phật giáo toàn quốc tại Hà Nội. Hội nghị này sẽ chính thức thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) vào ngày 07.11.1981, do Nhà Nước chỉ đạo (Giáo hội này thường được gọi là Giáo hội Nhà nước, hoặc Giáo hội Mặt trận; và được những người chống Cộng, tổ chức chống Cộng, trong đó có VPII VHĐ và dĩ nhiên có cả HT. Thích Hộ Giác, gọi mỉa mai là “Giáo hội Quốc doanh”). Danh sách 25 đại biểu trong đó có tên TT. Thích Hộ Giác, được trình tại cuộc họp. Bấy giờ, chỉ có 3 vị công khai chống lại việc thống nhất Phật giáo theo chỉ đạo của Nhà nước là TT. Thích Huyền Quang (Phó viện trưởng VHĐ), TT. Thích Pháp Tri (Nam tông, Phó viện trưởng VHĐ) và TT. Thích Quảng Độ (Tổng Thư Ký VHĐ). Cuối buổi họp, TT. Thích Quảng Độ yêu cầu chư tôn đức nán lại để Tổng Thư Ký điều chỉnh lại biên bản thì TT. Thích Hộ Giác gay gắt phát biểu: “Biên bản đã ký thông qua, bây giờ còn điều chỉnh gì nữa. Làm việc như vậy thì lòng vòng quá!” rồi TT. Thích Hộ Giác rời phòng họp. Chuyện này nhiều Tăng Ni chứng kiến, mà người khó có thể quên được chính là HT. Thích Quảng Độ.

Suốt thời gian chuẩn bị lên đường tham dự Hội Nghị tại Hà Nội, nhiều cuộc họp của phái đoàn GHPGVNTN liên tục diễn ra, và lúc nào cũng có mặt TT. Thích Hộ Giác với những đóng góp ý kiến hăng say, nhiệt tình. Sự tích cực của TT. Thích Hộ Giác được biểu hiện cho đến đêm cuối cùng, 04.11.1981, làm cho ai nấy đều tin tưởng, không ngờ được là sáng hôm sau tại phi trường Tân Sơn Nhất, khi phái đoàn kiểm điểm lại danh sách thì thấy vắng mặt Thượng tọa. Hóa ra TT. Thích Hộ Giác đã lên đường vượt biên bằng đường bộ qua ngả Cam-bốt, rồi qua Thái-lan ngay vào tối hôm trước. Theo dự kiến của TT. Thích Hộ Giác, nếu đi được thì sống đời lưu vong, hành đạo ở xứ người, còn như thất bại thì sáng hôm sau, theo phái đoàn lên đường dự Hội nghị Thống nhất Phật giáo tại Hà Nội. Nếu trường hợp vượt biên thất bại xảy ra, không chừng ngày nay HT. Thích Hộ Giác đã là một trong những vị lãnh đạo cao cấp của Giáo hội Nhà Nước rồi.

Kể lại chuyện này, trước là để khen tài đóng kịch quá khéo của TT. Thích Hộ Giác có thể đánh lừa cả Ban Vận Động Thống nhất Phật giáo, qua mặt bao nhiêu công an chìm nổi, và đánh lừa cả TT. Thích Huyền Quang, TT. Thích Pháp Tri và TT. Thích Quảng Độ thời đó; sau là để nhắc HT. Thích Hộ Giác mấy điều: a) Tăng sĩ Phật giáo trong chế độ cộng sản không phải hoàn toàn là cộng sản cả đâu, cũng như các thành viên VPII VHĐ, điển hình là HT. Thích Hộ Giác, không hẳn là hoàn toàn chống Cộng hoặc trung kiên với GHPGVNTN cả đâu. Đôi khi vận mệnh có thể đẩy người này vào giáo hội Thống nhất, đẩy người kia vào giáo hội Nhà Nước, chỉ trong khoảnh khắc rủi-may, thuận-nghịch của nghiệp lực, hoặc nguyện lực mà thôi. Nếu không vượt biên được, không biết HT. Thích Hộ Giác có hoan hỷ chấp nhận để người khác gọi mình là “sư quốc doanh” hay không? Và có nghĩ rằng mình là cộng sản hay không? b) Lòng trung kiên của mỗi người đối với GHPGVNTN qua bài học “khổ nhục kế” để thoát thân của TT. Thích Hộ Giác năm 1981, chắc hẳn là không thể đo lường được qua những lời ồn ào chống Cộng, hay nhất dạ khâm tuân Giáo chỉ. c) Với một lý lịch quá khứ khó lường, xin hỏi HT. Thích Hộ Giác có đủ tư cách để “xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số Tăng, Ni và Cư sĩ ký tên dưới Tuyên Bố Chung ngày 9.9.2008” hay không?

2)  “Mục đích bản ‘Tuyên Bố Chung’ của một số Tăng Ni hải ngoại ký ngày 9.9.2008 nhằm phản chống Giáo chỉ số 9 do Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007, Thông bạch Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống do Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ban hành ngày 25.9.2007, và Thông bạch Tiếm danh GHPGVNTN của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ban hành ngày 24.8.2008. Do đó, “Tuyên Bố Chung” không liên quan gì đến Phật sự của GHPGVNTN, nên vô giá trị đối với chư Tăng, Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN trong và ngoài nước đang nỗ lực vận động phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội trước âm mưu biến tướng và tiêu diệt GHPGVNTN của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam” (trích nguyên văn từ Thông bạch).

Nói rằng mục đích bản Tuyên bố chung “nhằm phản chống” Giáo chỉ số 9, Thông bạch Hướng dẫn, Thông bạch Tiếm danh, là cố ý nói sai lệch ý nghĩa, hoặc nhận thức về Tuyên Bố Chung một cách nông cạn! Tuyên Bố Chung không phải chỉ “nhằm phản chống” Giáo chỉ, Thông bạch từ Viện Tăng Thống hay Viện Hóa Đạo, mà chính là phủ nhận tất cả những giáo điều, giáo quyền, áp lực, hay bất cứ văn kiện nào trái với giới luật, ngược với tinh thần Hiến chương, phá hòa hiệp tăng, phản dân chủ! Điều này hàm ngụ rằng chính những người ký tên vào Tuyên Bố Chung đã bảo vệ Phật giáo và bảo vệ GHPGVNTN bằng ý thức dân chủ, tự do, không chấp nhận các giáo điều hoặc phán quyết độc tài, áp chế.

Hãy thử đặt trường hợp vị lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN là do một thế lực chính trị hay tôn giáo nào đó cài vào để phá hoại Phật giáo, hoặc dùng áp lực thúc đẩy vị lãnh đạo này ban hành một giáo chỉ buộc các thành viên hoặc phải từ bỏ giáo hội, hoặc phải tự tử hết, thì tình trạng sẽ như thế nào? Phải chăng toàn thể thành viên GHPGVNTN trong nước và hải ngoại sẽ cúi đầu khâm tuân, chịu chết, chịu bỏ giáo hội? Những người “một lòng trung kiên” với giáo hội như Thích Chánh Lạc, Thích Không Tánh, Thích Viên Lý, Thích Giác Đẳng, Thích Thiện Tâm, Thích Chơn Tâm, Thích Như Tấn, Võ Văn Ái, vân vân, có sẵn sàng chết cho giáo chỉ phi lý đó hay không?

Còn nói rằng “Tuyên Bố Chung không liên quan gì đến Phật sự của GHPGVNTN nên vô giá trị đối với chư Tăng, Ni, Phật tử thuộc GHPGVNTN” thì thật là điều thừa thãi, có cần phải nói ra bằng một thông bạch chăng?! Đã không liên quan thì thôi, có gì mà phải hoảng sợ, viết lăng nhăng bừa bãi không ra đâu để giải thích và thanh minh, biện hộ! Mà sao không liên quan được? Rõ ràng là Tuyên Bố Chung của 4 giáo hội PGVNTN hải ngoại đã làm lộ rõ tầm mức sinh hoạt Phật sự rộng lớn và hòa hợp của các giáo hội ấy, đồng thời cũng cho thấy giới hạn nhỏ bé, hạn hẹp của 12 thành viên VPII VHĐ như thế nào. Vậy thì đâu là giá trị, đâu là vô giá trị?

3)  “Nói về tính pháp quy của bản “Tuyên Bố Chung” thì rõ ràng người viết văn bản không biết gì về luật pháp cũng như quy chế sinh hoạt hội đoàn tại các quốc gia văn minh, dân chủ, mà ở đây là tôn giáo. “Tuyên Bố Chung” không thể vừa đề cao “GHPGVNTN được hình thành và sinh hoạt trên căn bản đồng thuận của tập thể ấy, được quy định một cách cụ thể trong Hiến Chương, Quy Chế hay Nội Quy của tổ chức” ở điều 1, rồi phản bác ngay nơi điều 2 trong cùng bản “Tuyên bố Chung”, khi xác định phi pháp rằng : “Các GHPGVNTN Hải ngoại tại Canada, Úc Đại lợi-Tân Tây Lan, Âu châu và Hoa Kỳ là các tổ chức do chư Tôn đức Tăng Ni và Phật tử các nơi đó cùng nhau kết hợp để xây dựng nên. Mỗi Giáo hội đều có Hiến Chương, Quy Chế hay Nội Quy riêng (chúng tôi nhấn mạnh)”, có pháp lý và tư cách pháp nhân theo luật pháp các quốc gia sở tại và sinh hoạt độc lập (chúng tôi nhấn mạnh)” (trích nguyên văn từ Thông bạch).

Phát biểu của người giải thích và phê bình “Tuyên Bố Chung” ở đây thật là ấu trĩ, cạn cợt, đúng ra là đã cố ý trích dẫn không đầy đủ để xuyên tạc ý nghĩa của Tuyên Bố Chung. Điều 1 của “Tuyên Bố Chung” không nói riêng GHPGVNTN do HT. Thích Quảng Độ lãnh đạo, mà nói chung cho tất cả các “tổ chức Phật giáo chân chính” khác, nguyên văn như sau: Giáo Hội PGVNTN cũng như bất cứ một tổ chức Phật Giáo chân chính nào đều là sự kết tinh tâm nguyện và hoài bão của tập thể Tăng Ni, Phật tử chung lòng chung sức xây dựng nên. Nó được hình thành và sinh hoạt trên căn bản đồng thuận của tập thể ấy, được quy định một cách cụ thể trong Hiến Chương, Quy Chế hay Nội Quy của tổ chức.” Chính vì nói chung cho các tổ chức Phật giáo trong đó có GHPGVNTN trong nước và hải ngoại, Điều 1 và Điều 2 bổ túc nhau, chẳng có gì mâu thuẫn như tác giả kém thông minh của Thông bạch phê phán.

Hai điều dẫn đầu của “Tuyên Bố Chung” đã khẳng định một điều rất hùng hồn và đầy tuệ giác của đạo Phật mà các thế lực vô minh cũng như các tổ chức chính trị và tôn giáo tập quyền không thể nào tưởng tượng được: “Nó (bất cứ tổ chức Phật giáo chân chính nào) không thể và không bao giờ là của riêng một cá nhân hay của một nhóm người thiểu số; và vì vậy, cũng không ai hay một nhóm người thiểu số nào có quyền giải tán hay loại bỏ nó. Ðây là nguyên tắc sơ đẳng của sinh hoạt dân chủ trong thế giới ngày nay; và là tinh thần nền tảng của sự hòa hợp trong sinh hoạt Phật Giáo từ ngàn xưa để lại. Chính với nguyên tắc và tinh thần này mà chúng tôi xem là vô giá trị mọi văn bản, quyết định mang tính áp chế, độc đoán dù chúng xuất phát bất cứ từ đâu” (Điều 1 – Tuyên Bố Chung).

Đầu óc hẹp hòi và cuồng tưởng của tác giả Thông bạch làm sao có thể thẩm thấu tinh thần vô ngã, cốt lõi của Hiến Chương GHPGVNTN mà bàn luận về pháp quy hay luật pháp ở đây! Hãy dành thời gian mà chiêm nghiệm Lời Mở Đầu của Hiến Chương trước khi đảm nhận trọng trách của giáo hội: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của Nhân loại và Dân tộc”. Điều 1 và Điều 2 của Tuyên Bố Chung triển khai nguyên lý vô ngã từ Lời Mở Đầu Hiến Chương này. Như vậy, trong trường hợp tổ chức GHPGVNTN hoặc các vị lãnh đạo giáo hội đều bị bức tử năm 1975, hoặc 1981, thì giáo hội ấy vẫn có thể được tái lập tại hải ngoại bởi “tâm nguyện và hoài bão của tập thể Tăng Ni, Phật tử chung lòng chung sức xây dựng nên”, không cần xin phép lãnh đạo nào để được danh xưng GHPGVNTN, cũng không cần ai phải công nhận hay chịu trách nhiệm cho.

4) “Nói về sự tiếm danh GHPGVNTN và tiếm danh chức vụ của tổ chức GHPGVNTN, thì tuy đã tự ý ly khai, phản chống lập trường của GHPGVNTN, một số Tăng Ni hải ngoại vẫn tiếp tục sử dụng danh xưng Giáo hội mà họ chối bỏ khi ký tên dưới bản “Tuyên Bố Chung” ngày 9.9.2008. Xác định sự tự ý ly khai của nhóm người này là y cứ vào sự kiện các người nói trên đã từ khước tham dự Đại hội Bất thường của GHPGVNTN Hải ngoại tổ chức tại Chùa Bửu Môn, Port Arthur, Hoa Kỳ, ngày 10.11.2007 để thâm nhập Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, và tìm phương đối phó chiến dịch nước lũ đàn áp GHPGVNTN trong nước do nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phát động. Chẳng những không tham dự cứu nguy Giáo hội trước sự tiến công của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam nhằm tiêu diệt GHPGVNTN, các Tăng Ni, Cư sĩ tiếm danh GHPGVNTN, tiếm danh chức vụ đã bị xoá bỏ trong GHPGVNTN hải ngoại, lại còn ra văn thư chính thức tẩy chay Đại hội Bất thường ngày 10.11.2007 của Giáo hội” (trích nguyên văn từ Thông bạch).

Theo Qui Chế của GHPGVNTNHN-HK, Chương Tám, mục Đại Hội Bất Thường, Điều 35, “Đại Hội Bất Thường của GHPGVNTNHN-HK/VPII VHĐ có thể được triệu tập do Chánh Văn Phòng của Hội Đồng Giáo Phẩm, Chủ Tịch của Hội Đồng Điều Hành, nếu được trên 2/3 thành viên của mỗi Hội Đồng liên hệ yêu cầu.” Vậy, Đại Hội Bất Thường của GHPGVNTNHN-HK do HT. Thích Hộ Giác, Chủ Tịch của HĐĐH tổ chức tại Chùa Bửu Môn, Port Arthur, Texas, Hoa Kỳ, ngày 10.11.2007, có được sự yêu cầu của trên 2/3 thành viên Hội Đồng Điều Hành không? Nếu có, xin cho biết là gồm những ai, chức vụ gì trong Hội Đồng Điều Hành? Chính Đại Hội Bất Thường tại Chùa Bửu Môn là đại hội của thiểu số “tiếm danh GHPGVNTN và tiếm danh chức vụ của tổ chức GHPGVNTN” thì có tư cách nào để đặt vấn đề tiếm danh với 25 thành viên Hội Đồng Giáo Phẩm và Hội Đồng Điều Hành của GHPGVNTNHN-HK ký tên trong “Tuyên Bố Chung”?

Vả lại, HT. Thích Hộ Giác tự ý khâm tuân Giáo chỉ để giải tán GHPGVNTNHN-HK/VPII VHĐ (cũ), rồi ký Thông tư triệu tập Đại hội Bất thường ngày 10.11.2007 với danh nghĩa Chủ tịch VPII VHĐ (mới), vậy thì các thành viên không thuộc danh sách 14 người được chỉ định hoạt động vô thời hạn lấy tư cách gì để tham dự Đại Hội Bất Thường của VPII VHĐ (mới)? Huống gì Đại hội Bất Thường này được VPII VHĐ gọi là để “thâm nhập Giáo chỉ số 9”, tức là ép đại biểu tham dự Đại hội phải một dạ khâm tuân. GHPGVNTNHN-HK bị giải tán rồi thì Hòa thượng đâu có tư cách Chủ tịch HĐĐH để triệu tập Đại hội theo Qui Chế, mà trong cương vị Chủ tịch VPII VHĐ (cũ hoặc mới), Hòa thượng cũng không có tư cách để triệu tập thành viên giáo hội Hoa Kỳ. Điều 5 của Quyết Định số 27 công nhận GHPGVNTNHN-HK là VPII VHĐ không có nghĩa rằng VPII VHĐ đương nhiên là GHPGVNTNHN-HK. Hòa thượng đã khâm tuân Giáo chỉ số 9 để giải tán GHPGVNTNHN-HK và hủy bỏ Quyết Định số 27, vậy thì Hòa thượng đứng ở vị trí nào để triệu tập Đại hội Bất Thường? Một đại hội bất hợp lệ, trái Qui Chế như vậy, nếu không gọi là tiếm danh, tiếm vị thì là gì?

5) “Nói về sự sai lầm, hành xử phi Hiến chương, phản đường lối, lập trường trong bản “Tuyên Bố Chung” ngày 9.9.2008 nhằm khởi động sự ly khai và chống phá GHPGVNTN do Đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo. Sự sai lầm được thực hiện có chủ ý và kế hoạch của ba nhóm Thân hữu Già Lam, Về Nguồn và Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại. Ba nhóm nhưng chung cùng mục đích. Mục đích nhắm tới là thủ tiêu con đường đấu tranh nhằm bảo toàn và phát huy Phật giáo Việt Nam dưới sự hướng dẫn của GHPGVNTN. Thực hiện việc này, họ ra công vu cáo, bôi nhọ, đánh phá vào uy tín các cơ quan và chư vị lãnh đạo Giáo hội để tiến tới việc khai trừ Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ra khỏi GHPGVNTN như nhà cầm quyền Cộng sản đề xuất, mong mỏi đưa các thành phần thủ tiêu tranh đấu vào thay thế.” (trích nguyên văn từ Thông bạch).

Đây là một thứ ngôn ngữ vu cáo hồ đồ và thấp kém văn hóa mà một phật-tử bình thường cũng không dám dùng đến để nhắm vào cá nhân hay tổ chức khác chứ đừng nói là nhắm vào các tổ chức Tăng Ni. Lạ kỳ là điều này lại được phát ngôn bởi VHĐ, thông qua HT. Thích Hộ Giác! Xin hỏi HT. Thích Hộ Giác có bằng chứng nào về những “vu cáo, bôi nhọ, đánh phá vào uy tín các cơ quan và chư vị lãnh đạo Giáo hội” không, hay chỉ là những bài viết nghiêm túc đặt vấn đề với thành phần thiểu số của VPII VHĐ mà cho đến nay vẫn chưa bao giờ được VPII VHĐ hồi đáp? Xin hỏi tinh thần cốt lõi cũng như đường lối, lập trường của Hiến chương GHPGVNTN là gì mà bảo là “Tuyên Bố Chung” phi Hiến chương, phản đường lối, lập trường? Hãy đọc lại Lời Mở Đầu Hiến Chương lần nữa để thấy mục đích, lập trường của GHPGVNTN:

 

“Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

 

“Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặt sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc.

 

“Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp có chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam.”

- Giáo chỉ số 9, Thông bạch Hướng dẫn, Thông bạch Tiếm danh và Thông bạch về Tuyên Bố Chung có chuyên chở được “lý tưởng Hòa bình”“nguyện vọng thống nhất” Phật giáo “để phục vụ nhân loại và dân tộc” hay không? Hay chỉ là những văn kiện gây chiến, phá hoại sự hòa hợp thanh tịnh của Tăng Ni, chia rẽ các tổ chức Phật giáo?

- Giáo chỉ số 9, Thông bạch Hướng dẫn, Thông bạch Tiếm danh và Thông bạch về Tuyên Bố Chung có thực hiện tinh thần vô  ngã  là  “không đặt sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc” hay không? Hay chỉ là những văn kiện độc tài, phi dân chủ, trái giáo luật, nhằm tập trung quyền hạn vào một cá nhân hay một thiểu số tham quyền cố vị?

- Giáo chỉ số 9, Thông bạch Hướng dẫn, Thông bạch Tiếm danh và Thông bạch về Tuyên Bố Chung có thể hiện chủ trương điều hợptôn trọng “giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ” hay không? Hay chỉ là những văn kiện đầy hận thù, nghi kỵ, vu khoát và tự thị, cố tình ngăn chận sự đoàn kết hòa hợp của Tăng Ni và cư sĩ Việt Nam trong và ngoài giáo hội, cũng như trong và ngoài nước?

 

Bài học từ
Pháp nạn nội tại
và con đường trước mặt

Điểm qua các văn kiện chính thức ban hành từ GHPGVNTN và VPII VHĐ không thôi, cũng đủ để có một tổng quan về Pháp nạn nội tại. Còn nếu phải trình bày hết những phát biểu của VPII VHĐ (bao gồm những bài viết nặc danh, bí danh, của nhân sự chính thức VPII VHĐ cũng như của những kẻ viết thuê, những bồi bút, những kẻ cuồng tín giáo điều, những người ngoại đạo thừa cơ hội công kích Phật giáo, vân vân) thì không phải là mục tiêu của bài này. Các sử gia và chứng nhân của hiện tình Phật giáo đang thu thập tài liệu để ghi lại đầy đủ và trung thực giai đoạn Pháp nạn thứ III này trong một ngày rất gần. Trong khi chờ đợi một biên tập sử liệu chính thức, nơi đây xin tạm rút tỉa những bài học còn nóng và cụ thể từ Pháp nạn nội tại để từ đó, mỗi người có thể tự giác đặt mình vào hướng đi mới cho tương lai Phật giáo Việt Nam nói chung.

1. Bài học thứ nhất, lấy nội lực của Tăng-đoàn làm nền tảng duy trì và phát huy Phật giáo: Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước hầu như bỏ quên mục tiêu tối hậu là giải thoát giác ngộ, không nỗ lực củng cố nội lực bằng giới-định-tuệ, xem thường sự hòa hợp thanh tịnh của Tăng-đoàn, mải mê chạy theo và ca tụng những thành quả hời hợt mang tính thế tục và chính trị được ban bố bởi các thế lực chính quyền trong nước, ngoài nước. Nội lực không đủ thì mọi hành xử dễ lạc vào ác nghiệp của ma; vì vậy, nhất nhất phải tạo điều kiện để cùng ngồi lại với nhau, thương yêu nhau, chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm tu tập và hoằng pháp, tiếp nhận và trao truyền năng lực tu trì vô hành vô tướng đến các pháp lữ đồng đạo để bảo vệ và hoằng dương Chánh Pháp.

2.  Bài học thứ hai, đừng trao hết quyền trong tay một người: Phật giáo không phải là tôn giáo thần quyền. Tổ chức Phật giáo cũng không phải là tổ chức tập trung giáo quyền. Do vậy, ở bất cứ lãnh vực nào của cơ cấu tổ chức, phải áp dụng lục hòa và dân chủ. Địa vị lãnh đạo tổ chức không phải là địa vị độc tôn, chủ nhân ông, mà chỉ là đại diện được sự tín nhiệm bầu cử của số đông. Đặc biệt là vai trò “phát ngôn nhân” của tổ chức giáo hội, nên cảnh giác không giao cho những người không am hiểu tinh thần vô ngã của Phật giáo, thiếu sự tu tập hành trì giáo lý, không nắm vững đường hướng và lập trường giáo hội. Tốt nhất là nên đề cử một vị tăng sĩ đức hạnh và có tài năng thích hợp trong lãnh vực này. Nhưng vị tăng sĩ phát ngôn nhân của tổ chức cũng chỉ là đại diện có hạn kỳ, không thể dung dưỡng một chế độ tập quyền, vô thời hạn.

3.  Bài học thứ ba, lãnh đạo phải dung hòa, đứng trên và đứng trong tất cả: Đại diện tổ chức để điều hành tất phải đủ uy đức và tài năng để đứng trên mà nhìn tổng quát những cộng sự và cấp dưới của mình. Nhưng nếu không đứng được trong lòng mọi người thì sẽ bị cô lập, lâu dần trở thành độc đoán, độc tài. Biết lắng nghe ý kiến trái ngược mới điều chỉnh được hướng đi chung. Không vì khác quan điểm mà đối xử kẻ khác như kẻ thù. Thông thường thì ý kiến của số đông phản ảnh nguyện vọng chung của tổ chức. Nếu không đủ trí để phán đoán thì nên tùy thuận ý kiến của đa số, vẫn an toàn hơn là chỉ biết lắng nghe ý kiến một chiều từ vài người dua nịnh, lúc nào cũng xưng tụng tâng bốc cá nhân mình.

4.  Bài học thứ tư, lãnh đạo không nên quá dũng liệt mà thiếu trí tuệ, từ bi: Trường hợp tổ chức giáo hội phải đương đầu với các thế lực ác, phải tâm niệm rằng trách nhiệm của trưởng tử Như Lai là mặc áo nhu hòa nhẫn nhục, thể hiện đức từ bi, dấn thân vào nơi ác trược, khó khăn, chướng ngại, để hành bồ-tát hạnh, cứu độ và chuyển hóa nhân sinh. Đấu tranh, trước hết là đấu tranh với chính mình để giữ được lòng từ bi, trí tuệ và dũng mãnh, sau đó mới nói đến chuyện đấu tranh cho Đạo pháp và Dân tộc. Nếu chỉ cương cường dũng mãnh để đấu tranh, đôi co với kẻ ác thì đã tự đặt mình ngang hàng hoặc thấp hơn họ, và cung cách ấy cũng không hơn không kém một chí sĩ cách mạng thế tục. Dũng mãnh không phải chỉ là sự gầm gừ thị oai như chúa sơn lâm, mà còn là sự kiên trì, nhẫn nhục, dám vượt bỏ địa vị và danh dự cá nhân khi cần thiết để bảo vệ Chánh Pháp. Chánh Pháp có thể nở hoa ở bất cứ nơi nào, ngay cả ở địa ngục A-tì, nếu tâm từ bi được thể hiện. Rời bỏ tâm từ bi, chất liệu chính yếu của sứ giả Như Lai để hành đạo là tự dắt mình vào con đường của ma quân.

5.  Bài học thứ năm, lãnh đạo không nên quá nhu nhược: Nhu hòa, nhẫn nhục và từ bi không phải là nhu nhược. Lãnh đạo mà quá nhu nhược chính là trao sự lãnh đạo vào tay kẻ khác, cô phụ sự tín nhiệm của số đông dành cho mình. Kẻ xấu sẽ lợi dụng sự nhu nhược của mình để điều hướng tổ chức đi vào ác đạo. Trong trường hợp cần thiết, phải biểu lộ tinh thần vô úy, dũng mãnh của mình, không để kẻ xấu lợi dụng yếu điểm nhu nhược của mình mà thao túng và quyết định mọi việc theo chiều hướng phá hoại tổ chức. Nếu kẻ xấu đe dọa sinh mệnh của mình, hoặc đe dọa đem chuyện cá nhân hay khúc mắc riêng tư nào đó của mình ra công chúng để làm áp lực, hầu lộng quyền tự tung tự tác, phải nghĩ đến quyền lợi tối thượng của tổ chức mà hy sinh mình đi. Dù phải hủy bỏ thân mạng hoặc đốt cháy danh dự của mình cũng mạnh dạn chấp nhận. Đây chính là đại dũng lực, là tinh thần vô úy, để vinh danh và bảo vệ con đường cao đẹp của Chánh Pháp.

6.  Bài học thứ sáu, phải nhận thức rằng Phật giáo có thể trổ ra trăm nhánh, đồng phát triển, không trở ngại nhau: Đây không phải là điều mới mẻ gì. Nhiều quốc gia Phật giáo khác đã làm được. Phật giáo Việt Nam có thể có mười giáo hội Thống Nhất khác nhau, mười giáo hội Nhà Nước khác nhau, nhưng tiêu đích thì đồng nhất, đó là: “phục vụ Nhân loại và Dân tộc bằng cách hoằng dương Chánh Pháp” (Lời Mở Đầu Hiến Chương GHPGVNTN). Tư tưởng gồm thâu, tập quyền, độc quyền lãnh đạo, đại diện duy nhất, kế thừa duy nhất... là tư tưởng cục bộ, chủ quan, tà kiến, nên tìm cách giải tỏa để đẩy mạnh các tổ chức Phật giáo cùng vươn lên bầu trời mênh mông, khoáng đạt của đạo lý vô ngã, giải thoát.

7.  Bài học thứ bảy, không phủ nhận và loại trừ nhau: Chuyện cũ sai lầm nên sám hối, rồi bỏ qua, cùng nhau hướng về tiền đồ của Phật Pháp. Khi cần góp ý, sửa đổi cho nhau, hãy dùng chân ngữ, ái ngữ và lòng thành xây dựng. Cố tình vu khống, mạ lỵ, chửi bới kẻ khác để nâng cao chính mình, chỉ làm tổn giảm đức hạnh của mình mà vẫn không đóng góp được gì cho tiến trình bảo vệ và phát huy Chánh Pháp.

Tóm lại, Pháp nạn lần thứ ba còn tiếp diễn hay không là do ý thức của mỗi người con Phật, Tăng sĩ hay cư sĩ, đối với dòng sinh mệnh của Phật giáo. Nếu tiếp tục vận dụng những ý đồ và âm mưu phá hoại đồng đạo chỉ vì những đồng đạo này khác biệt quan điểm với mình, là khởi động cho pháp nạn tái diễn. Hãy xem những sóng gió ba đào xảy ra trong Phật giáo vừa qua là cơn ác mộng được dấy lên bởi tác động của thế lực ma vương. Nhưng ma vương đã thất bại, vì Tăng Ni và Cư sĩ khắp nơi đã sáng suốt ngồi lại với nhau trong tinh thần hòa hợp, thương yêu, quyết tâm dựng lại cơ đồ đổ nát của Phật giáo Việt Nam tại hải ngoại.

Phật giáo nói chung, GHPGVNTN nói riêng, tồn tại và hưng thịnh hay không là do nơi đạo lực thanh tịnh, hòa hợp của Tăng-đoàn, của các thành viên tham gia, không phải từ những hô hào to tiếng của ngoại nhân và các thế lực chính trị giai đoạn. Mỗi người tự chấm dứt những sân hận, vô minh và tham vọng điên cuồng của mình đối với danh vị, chức tước, hay phần thưởng hư huyễn của thế gian thì có thể kết thúc mùa pháp nạn đau thương của thế kỷ.

 

Tịnh thất Như Huyễn, Canada, ngày 05.10.2008
Thích Siêu Phương


[1] Tìm đọc “Tuyên Bố Chung của các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Canada, Úc châu – Tân Tây Lan, Âu châu, và Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” ký ngày 09.9.2008, được phổ biến trên các websites Hải Triều Âm, Pháp Vân, Quảng Đức, Phù Sa, Phổ Quang... và các báo Người Việt, Việt Báo.

[2] Ở đây không cần tốn thời gian nói lại những điều đã được phổ biến qua nhiều bài viết của Tăng Ni, phật-tử. Các bài này đã phân tích, vạch trần những ngụy trá, dối gian về hình thức của Giáo chỉ số 9, cũng như nội dung sai lầm tai hại mà Giáo chỉ này mang lại cho Phật giáo đồ nói chung tại hải ngoại. Về hình thức Giáo chỉ, có thể đọc các bài “Trái đắng bộc phá” của Giang Mặc Tử và “Giáo chỉ số 9, một văn bản trí trá, phá nát, đập tan GHPGVNTN Hải ngoại” của Lê Nguyên; về nội dung Giáo chỉ, xin đọc bài “Giáo chỉ, Thông bạch và cơn khủng hoảng của Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại” của 8 vị Hòa thượng Thích Thắng Hoan, Thích Trí Chơn, Thích Chơn Thành, Thích Nguyên Lai, Thích Hạnh Đạo, Thích Nguyên An, Thích Tín Nghĩa và Thích Nguyên Trí.

[3] Bản Phúc Trình này đã được mổ xẻ cặn kẽ, cho thấy sự sai lầm, phi lý, và tính cách phá hoại Giáo hội của nó qua  “Thư gửi Hòa thượng Thích Thiện Hạnh - Nhận định về Vai trò và Bản phúc trình của vị Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN” của Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại. Ở đây không mất thời gian bàn rộng.

[4] Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại, “Thư gửi Hòa thượng Thích Thiện Hạnh - Nhận định về Vai trò và Bản Phúc trình của vị Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN.”

 

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.