Sinh
ra trong một đất nước điêu linh và thống khổ, hết quốc nạn
ngoại xâm rồi đến thảm nạn nội thù, quê cha đất mẹ không bị
phanh thây chia cắt bởi sự đổi chác của chủ nghĩa ý thức hệ,
thì bị phân hóa nhiễu nhương vì chính kiến thiên chấp hẹp
hòi của đảng phái, bè phái, tập đoàn thống trị, thường nhân
danh quyền lợi và chính nghĩa dân tộc, mà thực chất chỉ là
chiêu bài mị dân hay bình phong giả hiệu, may thay nhờ có
ngọn đèn trí tuệ và từ bi của đạo Phật, người viết đã có thể
tự mình vươn lên để tìm lấy hướng đi và thâm cảm nỗi đau
thấu tận xương tủy của biết bao đồng bào ruột thịt!
Đạo Phật Việt Nam có mặt từ thuở bình minh dựng nước đến khi
dân tộc được tự chủ phú cường, luôn thầm lặng thấm sâu trong
từng mạch sống của quê hương qua bao nhiêu thế hệ và thời
đại, đến nỗi con cháu ngàn sau còn cảm nhận một đạo Phật
hiển hiện trong máu huyết, trong xác thịt, trong tâm thức
của mình. Đạo Phật ấy không có tên gọi cho riêng mình, không
có chỗ đứng riêng cho mình, không ở trên cao nơi chốn cửu
trùng hay trong dinh thự nguy nga tráng lệ để vinh thân phì
da, không có biên tế ngăn cách với bá tánh vạn dân. Đạo Phật
ấy lấy trí tuệ soi sáng hướng đi, lấy từ bi bao dung che chở
cho dân tộc. Đạo Phật ấy cùng họ cùng tên với giống nòi,
sống theo vận hưng suy của đất nước, lam lũ trong chốn đồng
quê với những nông phu, hòa đồng nơi đô hội với thị dân,
thiếu ăn thiếu mặc như khổ dân trong thời lầm than đói rách,
tù tội chết thảm như sinh linh trong thời loạn chiến tranh!
Người viết hôm nay đau xót tự hỏi: Đạo Phật
Việt Nam ấy bây giờ ở đâu?
Khi văn hóa Tây phương theo bước chân của thế lực ngoại bang
tràn vào đất nước ta, trong hoàn cảnh một xã hội chưa thật
sự được chuẩn bị đầy đủ để có thể tiếp nhận một nền văn hóa
mới trong tinh thần chọn lọc, phê phán và sáng tạo, đã mang
theo nó những hệ lụy không cùng kéo dài qua bao nhiêu thế
hệ. Cái hệ quả độc hại nhất chính là bản chất duy lý xây
dựng trên ý thức phân biệt tinh vi của nền văn hóa kia. Ý
thức là vọng thức. Vọng thức là vọng động không ngừng, luôn
luôn hướng về một cái gì đó, một tha thể trong chính tự thể.
Nhưng tự thể xây trên ý thức duy lý chỉ là cái lâu đài xây
bằng cát nằm cạnh đại dương với những đợt ba đào không lúc
nào yên nghỉ. Lâu đài ấy vĩnh viễn không thể có được một
tuổi thọ lâu dài. Nền văn minh Tây phương vì vậy, cho đến
nay đã trải qua biết bao cơn khủng hoảng, bế tắc, hụt hẫng,
thực chất là một nền văn minh đang dọ dẫm từng bước đi trước
mặt. Khoa kỹ học, vật lý học, tâm lý học, toán học, thiên
văn học, v.v… vẫn còn là những nỗ lực thăm dò của nền văn
minh duy lý ấy. Những gì con người thán phục đối với nền văn
minh ấy chỉ là các thành quả có được của những bước thăm dò
đã qua. Tương lai của cả nền văn minh duy lý ấy đi về đâu?
Có lẽ không ai trong nền văn minh duy lý ấy có thể có được
một câu trả lời dứt khoát. Ý thức duy lý tạo ra những đám
mây mù che khuất lối về nguồn cội căn nguyên của con người,
của vạn hữu. Ý thức duy lý tạo ra khái niệm nhị nguyên: duy
tâm, duy vật, duy linh, v.v… để rồi tự buộc con người trong
những cố chấp, thiên chấp, tranh chấp càng lúc càng bền
chặt, không có lối thoát!
Hệ lụy mà nền văn hóa duy lý ấy thao tác trên đất nước ta
chính là cái tinh thần duy lý đã ngày càng bám rễ sâu rộng
trong tâm thức con người Việt Nam qua các hình thái cuồng
tín theo lập trường “duy”: duy tâm, duy vật, duy linh, duy
khoa học, duy chủ thuyết, duy chủ nghĩa, duy ý thức hệ, duy
cộng sản, duy Tây phương, duy tiền bạc, duy danh tướng, v.v…
Đã “duy” cái gì rồi thì chỉ biết có cái mình “duy” và phủ
nhận, chống đối, loại trừ cái “không phải duy” của mình. Tâm
thức duy lý còn là tâm thức hướng ngoại, vọng ngoại, vong
bản, tha hóa, xa lìa bản thể nguyên sơ của mình. Do vậy, chỉ
thấy cái mark của người khác là hay, là thật, là quý giá, mà
thấy cái gì có dính dáng đến cái mark của mình cũng đều cho
là dở, là giả, là tệ. Chính vì vậy, cho nên, chúng ta đã tôn
thờ và sống chết theo các chủ nghĩa, chủ thuyết, ý thức hệ
ngoại lai, để rồi chém giết lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau,
thù hận lẫn nhau. Cho đến hôm nay mà di chứng của nền văn
hóa duy lý ấy vẫn còn trói chặt dân tộc trong mối hận thù,
phân hóa, vong bản!
Nói như vậy, tất nhiên, không phải người viết đang rơi vào
một vị thế đứng khác để đối đầu và phê phán một cách mù
quáng văn minh khoa học và sự mở cửa của đất nước để tiếp
nhận nền văn hóa ấy. Nói như vậy cũng không phải người viết
không nhận thức được những lợi ích cụ thể mà nền văn minh
khoa học đã và đang mang lại cho con người nói chung và cho
người dân Việt nói riêng. Nói như vậy lại càng không phải
người viết không hiểu rằng, bản chất con người, không phân
biệt là Đông hay Tây, vốn sống và thừa hành theo động lực
của ý thức, vọng thức và do đó hàm ngụ sắc thái và tác hưởng
của tinh thần duy lý. Nhưng, có một điều rất rõ rằng, mà đây
là điều tất yếu của tiến trình lịch sử của nhân loại không
ai có thể ngăn cản được, văn hóa duy lý đã góp phần không
nhỏ làm thổi bùng sức mạnh tiềm ẩn của ý thức phân biệt, của
vọng thức, của tinh thần duy lý trong tâm thức của con người
nói chung và con người Việt Nam nói riêng để nó trào ra
ngoài sinh hoạt cá nhân, tập thể và xã hội. Cái may của phần
lớn các nước phương Tây là song song với sự bành trướng của
văn hóa duy lý còn có sự phát triển lớn mạnh của tinh thần
khai phóng, tự do, dân chủ, tôn trọng quyền sống và quyền
làm người. Đất nước Việt
Nam
là một trong những quốc gia thuộc phần còn lại của thế giới
thiếu sự may mắn đó!
Trong bối cảnh đất nước như vậy, Phật Giáo
Việt Nam như thế nào?
Suốt hàng thế kỷ sống trong cảnh bị ngoại bang xâm chiếm
thống trị, bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, bị các chủ
thuyết gieo rắc hận thù giai cấp và ý thức hệ, hoặc bị bần
cùng hóa đến tận đất đen, hoặc bị đào phá tận gốc rễ nền đạo
đức, luân lý, văn hóa và tôn giáo truyền thống lâu đời,
người dân Việt Nam phải tự tìm ra giải pháp sinh tồn cho
chính mình: Tinh thần tự vệ thể chất và tâm linh phát sinh;
tính nghi kỵ, manh tâm, thù hận, bạo lực, thủ đoạn chiếm ưu
thế; mưu sinh bằng mọi phương tiện khả thể được mặc nhiên
thừa nhận; tiền, cơm gạo, vật chất, địa vị thế lực là mục
đích đứng đầu trong các nhu cầu của đới sống thường nhật.
Cho nên, xã hội ngày càng loạn, đất nước ngày càng rối, thế
đạo nhân tâm ngày càng suy sụp! Phật Giáo Việt
Nam,
người Phật tử Việt Nam
sống và trưởng thành trong bối cảnh xã hội ấy làm sao không
mang hệ lụy? Vấn đề là đến mức độ nào mà thôi!
Điều có thể thấy rõ trước mắt là Phật Giáo Việt
Nam
ngày càng quên tinh ba, chọn hình tướng, bỏ sở trường, theo
sở đoản. Cái tinh ba và sở trường là thể hiện nền đạo đức
thực chứng, tôn trọng giới luật, bảo vệ bản thể thanh tịnh
và hòa hợp bất phân của cộng đồng Tăng Già, phát huy giá trị
giác ngộ và giải thoát siêu việt của Giáo pháp Phật Đà,
trang trải đức từ bi đến khắp nhân gian, dẫn đạo sự nghiệp
văn hiến để nâng mức sống văn hóa của dân tộc ngày càng cao
hơn, góp phần cụ thể và tích cực vào việc xây dựng và phát
triển đất nước theo hướng khai phóng, tự do, dân chủ và
thịnh vượng bằng lý tưởng và phương tiện của Bồ Tát Đạo. Cái
hình tướng và sở đoản là phô trương chủ nghĩa cá nhân, bè
phái, tôn sùng hình danh sắc tướng bề ngoài, chạy theo những
mục tiêu giả tạo của thế gian như địa vị, học vị, danh hàm,
khen thưởng, xem danh vị của cá nhân hay tập thể mình lớn
hơn sinh mạng của Phật Pháp, xem nhãn hiệu bề ngoài quý giá
hơn phẩm đức bên trong, đổi lấy sứ mệnh hoằng dương Chánh
pháp phổ độ quần sinh theo lý tưởng cao diệu vô tận của Bồ
tát đạo bằng con đường hoạt động phiêu lưu và phiến diện
mang sắc thái chính trị thế tục chỉ là xu thế giới hạn trong
một thời.
Chính vì vậy, Phật Giáo chúng ta đã và đang vì cái hình
tướng, cái sở đoản mà phân hóa nội bộ, mà vu khống, nhục mạ,
loại trừ lẫn nhau, mà cúi đầu trước các thế lực thế gian
đành làm tay sai cho thế quyền, mà không dám dũng cảm thể
hiện cái tinh ba, cái sở trường, mà bàng quan tọa thị và bỏ
qua bao nhiêu cơ hội để xây dựng và phát triển cơ đồ cho
Phật Giáo Việt Nam!
Trước năm 1975, tại miền Nam, vì bỏ quên cái tinh ba, cái sở
trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản, mà từ một
tập họp với sức mạnh lớn lao hùng hậu chưa từng thấy trong
lịch sử cận đại của Phật Giáo Việt Nam trong tổ chức
GHPGVNTN đã bị phân hóa thành hai: Giáo Hội Ấn Quang và Việt
Nam Quốc Tự. Sau năm 1975, trên cả nước, vì bỏ quên cái tinh
ba, cái sở trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản,
mà đã biến Phật Giáo Việt Nam thành hai mảnh vụn: GHPGVNTN
và GHPGVN. Thảm nạn của sự chia cắt này cho đến nay vẫn còn
là niềm đau thống thiết trong lòng người Phật tử Việt Nam!
Tại sao? - Có người nói, vì các thế lực chính trị quyết tâm
phân hóa và triệt hạ sức mạnh thống hợp của Phật Giáo Việt
Nam
để dễ bề thống trị đất nước. Điều ấy không sai, nhưng mới
chỉ là yếu tố khách quan bên ngoài. Điều không thể phủ nhận
là để dẫn đến thảm trạng ấy tất không thể duy chỉ có yếu tố
khách quan bên ngoài mà thôi, mà còn phải có thành tố chủ
quan bên trong. Yếu tố chủ quan bên trong chính là sự bỏ
quên cái tinh ba, cái sở trường mà chạy theo cái hình tướng,
cái sở đoản. Bởi lẽ, nếu Phật Giáo chúng ta không bỏ quên
cái tinh ba, cái sở trường thì sự kiện phân hóa và bế tắc ấy
cho đến nay, sau trên mấy thập niên, đã có thể mang những
sắc thái khác hơn là như hiện nay chúng ta đang chứng kiến.
Đã bao nhiêu năm nay, người Phật tử Việt Nam tâm tâm niệm
niệm, thành tâm thành ý cùng với chư Tôn Đức Tăng, Ni nỗ lực
xây dựng và phát triển nền Phật Giáo Việt Nam, những mong
nương nhờ vào sức mạnh thống hợp của Phật Giáo Việt Nam để
vực dậy tiềm lực cho dân tộc hầu góp phần vào việc xây dựng
và phát triển đất nước. Chính trong tâm nguyện ấy mà dù phải
chứng kiến những thảm trạng đau lòng xảy ra trong chính bản
thân của Phật Giáo Việt Nam, người Phật tử Việt Nam vẫn âm
thầm, nhẫn nại chịu đựng, nghĩ rằng đó chỉ là một vài sơ
suất không thể tránh khỏi trong công cuộc hành đạo khi dấn
thân vào môi trường xã hội phức tạp. Nhưng rồi, ngày lại
ngày, trong khi thế giới nhân loại đã và đang vươn mình lên
đến trình độ cao rộng thênh thang ở tất cả mọi lãnh vực, từ
khoa học kỹ thuật, thông tin thương mại, giao thương kinh
tế, dân giàu nước mạnh, đến văn hóa, giáo dục, truyền thông
đại chúng, tự do, dân chủ, phú cường thịnh vượng, thì đất
nước Việt Nam, dưới sự thống trị độc tài của đảng cộng sản
Việt Nam, vẫn còn ì ạch ở tận dưới vực sâu của nghèo đói,
lạc hậu, khủng hoảng, bế tắc và khép kín! Mấy năm gần đây,
do sức ép của các cuộc vận động trong và ngoài nước, cũng
như do nhu cầu tồn tại, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam
đã bị bắt buộc phải thay đổi phần nào chính sách, đặc biệt
trong lãnh vực ngoại giao, kinh tế, để đưa ra chính sách
“kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như
sức nước vỡ bờ, vì chất chứa lâu ngày, kế hoạch “kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghiã’ đã tuột khỏi tầm
tay của đảng và chính quyền cộng sản Việt
Nam.
Một lần nữa, buộc họ phải chấp nhận tham gia vào sân chơi
quốc tế WTO với những quy tắc hẳn hòi, từng bước một phải mở
cửa thật sự ra thế giới khoáng đạt bên ngoài. Dù đảng và nhà
nước cộng sản Việt Nam đang chơi trò kéo dài thời gian để có
đủ thì giờ chuẩn bị mọi việc không vượt ngoài thế lực khống
chế của họ và cố gắng duy trì sức mạnh quyền lực lãnh đạo
đất nước với vị thế độc tôn của đảng cộng sản Việt Nam,
nhưng điều thấy rõ là xu hướng tự do, dân chủ của thời đại
này đã không thể quay đầu trở lại và do đó, vai trò độc tôn
lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam sẽ không thể duy trì
được lâu dài thêm nữa.
Nhận định được tình hình như vậy, cho nên, các tổ chức tôn
giáo, chính trị, kinh tế trong cũng như ngoài nước đã và
đang trong tiến trình vừa hành động vừa chuẩn bị cho những
kế hoạch lâu dài của họ trên đất nước Việt Nam. Tiếc thay,
người Phật tử Việt Nam đã không thấy một dấu hiệu nào tích
cực phát xuất từ các Giáo Hội trong và ngoài nước cho sự
chuẩn bị cũng như hành động kịp thời đối với tình hình của
đất nước hiện nay và tương lai! Ngược lại, người Phật tử
Việt
Nam
thường xuyên chứng kiến những điều tủi nhục, đau lòng phát
ra từ các tổ chức Giáo Hội! Những điều đau lòng ấy là gì?
Xin đơn cử một số điều tiêu biểu sau đây:
Đã một phần tư thế kỷ có mặt và được sự chấp thuận cũng như
bảo bọc của đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam, vậy mà
GHPGVN, một Giáo Hội tự cho mình là đại diện chính thống của
Phật Giáo Việt Nam, cho đến nay vẫn mặc nhiên chịu khép mình
dưới sự lãnh đạo, chi phối và điều động của Mặt Trận Tổ Quốc
và Ban Tôn Giáo Chính Phủ như các hội phụ nữ, hội đá banh,
hội đua ngựa, v.v… Một Giáo Hội tự cho mình là đại diện
chính thống của Phật Giáo Việt
Nam,
tự cho mình cái quyền được kế thừa sự nghiệp hoằng dương
Chánh pháp quảng độ quần sinh của lịch đại tiền bối tổ sư
sao lại có thể đặt mình ngang hàng với cái hội đoàn thế tục
nhỏ bé như vậy?
Trong truyền thống Phật Giáo trên hai mươi lăm thế kỷ nay,
hình ảnh của vị Tỳ kheo là đại diện tôn nghiêm cho hàng Tăng
Bảo, cho chí nguyện xuất trần cao thượng của bậc thầy trời
người, sao lại có trường hợp như các vị Tỳ kheo trong GHPGVN
đem thân chịu phép của thế lực chính trị thế gian làm dân
biểu quốc hội, làm thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, làm cán
bộ trong hệ thống chính trị thế quyền?
Chư Tôn Đức Tăng, Ni trong GHPGVN khi ra đảm nhận các vai
trò trong Giáo Hội không ngoài mục đích nương vào phương
tiện tổ chức để truyền bá Phật Pháp, tiếp dẫn hậu lai, cứu
khổ nhân quần, sao lại có trường hợp quý ngài chịu phép làm
cái loa cho chế độ chính trị tuyên bố điều này, chống đối
việc kia theo chính sách toàn trị của đảng cộng sản?
Gần đây, có người viết bài với ác tâm đánh phá một số chư
Tôn Đức như Thiền sư Nhất Hạnh, Thiền sư Thanh Từ. Người
viết bài đó đã không nghĩ cho Phật Giáo Việt
Nam.
Tại sao? Bởi vì, Phật Giáo Việt
Nam,
trong đó có GHPGVNTN và GHPGVN, trong mấy thập niên qua ở
trong tình trạng trì trệ, bế tắc do nhiều chướng duyên từ
bên ngoài cũng như bên trong. Do sự trì trệ và bế tắc đó mà
nhiều hiện trạng tiêu cực, mất mát đã và đang xảy ra, như
quần chúng Phật tử thiếu sự hướng dẫn đầy đủ để tu học đúng
chánh pháp, vì vậy tệ nạn mê tín dị đoan ngày càng gia tăng,
Tăng Ni trẻ sa đà trong những hưởng thụ tiện nghi vật chất
quên mất sứ mệnh và lý tưởng phụng sự Phật pháp và hoằng
dương chánh pháp của mình, chùa chiền to lớn được dựng lên
khắp nơi khiến cho người ta có cảm tưởng sai lầm rằng đó
chính là hiện tượng hưng thịnh thật sự của Phật Giáo, mà kỳ
thật là những nguy cơ vì tạo ra bản ngã tự phụ, tinh thần sở
hữu cá nhân và sự cạnh tranh thế lực và quyền lợi trong
chính cộng đồng Tăng Ni với nhau, tuổi trẻ một lực lượng
chiếm gần 60% dân số cả nước đã không được quan tâm đúng mức
để hướng dẫn việc thâm nhập Phật pháp. Trong hoàn cảnh như
vậy, Thiền sư Nhất Hạnh về nước phần nào đã có thể tạo ra
một sinh hoạt mới, gây ra những chú ý và ý thức về Phật Giáo
đối với nhiều thành phần trong xã hội, đánh động được phần
nào thành phần tiêu cực thụ động vì chán nản trước tình
trạng trì trệ của Phật Giáo bấy lâu nay, khơi động được phần
nào sự tìm hiểu về Phật Giáo trong thành phần trí thức. Cũng
vậy, Thiền sư Thanh Từ suốt mấy chục năm qua đã âm thầm,
nhẫn nại vượt qua mọi nghịch duyên từ trong lẫn ngoài, để
chăm lo việc tu học cho biết bao nhiêu Tăng, Ni và đồng bào
Phật tử. Những việc làm vừa nêu trên chỉ là một phần nhỏ
trong các công tác Phật sự mà hai vị Thiền sư Nhất Hạnh và
Thanh Từ đã làm. Nếu thay vào những Phật sự ấy bằng những
công tác truyền bá của Tin Lành, của Công Giáo, v.v… thì
Phật Giáo Việt Nam sẽ ra sao?
GHPGVNTN
bao nhiêu năm qua vì bảo vệ lập trường trung trinh trước sau
như một đối với dân tộc, đứng chung hàng ngũ với đại khối
dân tộc để gánh chịu vinh nhục thăng trầm của vận nước mà
phải chịu biết bao đau thương, mất mát. Bao nhiêu hy sinh
của Tăng, Ni và Phật tử Việt
Nam
suốt mấy thập niên qua đều vì bản thệ sáng ngời ấy. Nó là
chỗ dựa, là tấm gương sáng, là con thuyền, là mảnh đất lành
cho hàng ngũ xuất gia cũng như tại gia nương tựa, quay về,
hướng đến. Lập trường và chí nguyện ấy cao đẹp biết bao,
thuần khiết biết bao, vĩ đại biết bao! Chính lập trường và
chí nguyện cao cả đó mà dù có lúc Giáo Hội trải qua thời kỳ
bỉ vận điêu linh, với sự lãnh đạo đơn độc nhưng sáng suốt
của nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ,
người Phật tử Việt Nam vẫn một lòng hướng về hậu thuẫn dù
đang sống lầm than trong nước hay đang lưu lạc tận phương
trời xa xăm nơi hải ngoại.
Đại hội Bất Thường của GHPGVNTN diễn ra tại Tu Viện Nguyên
Thiều vào cuối năm 2003, với sự có mặt đầy đủ của chư tôn
Trưởng Lão, chư Hòa Thượng, Thượng Toạ trong Lưỡng Viện Giáo
Hội, như mở ra một vận hội mới, như vén lên bức màn để nhìn
thấy triêu dương của Phật Giáo Việt Nam. Người Phật tử Việt
Nam
trong cũng ngoài nước hoan hỷ biết bao! Tiếc thay, niềm hoan
hỷ ấy đã sớm héo tàn khi Giáo Chỉ bổ sung và lưu nhiệm thành
phần nhân sự của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo được công bố vào
cuối năm 2005 tại hải ngoại! Người Phật tử Việt
Nam
bồi hồi, băn khoăn, hoang mang và lo lắng cho Giáo Hội trước
sự kiện này! Rồi sau đó là những tuyên bố, những giải thích,
những bài viết về biến cố này từ những vị lãnh đạo, những
thành viên nêu tên hay dấu tên, những cơ quan thông tin của
GH trong và ngoài nước được đưa ra. Dường như GH suy nghĩ
rằng, người Phật tử Việt Nam sẵn sàng chấp nhận bất cứ lời
giải thích nào, bất luận đó là những lời giải thích chứa
đựng đầy kịch tính, đầy mâu thuẫn, đầy hư cấu giả tạo! Chẳng
hạn, trong những giải thích ấy, có giải thích cho rằng những
vị Giáo phẩm bị loại ra khỏi Viện Hóa Đạo là thành phần
“phản động” âm mưu tạo ra một “GHPGVNTN không Huyền Quang,
không Quảng Độ.” Nghe qua lời giải thích này, người Phật tử
Việt
Nam
cảm thấy đau lòng khôn xiết! Đau lòng vì đúng là Phật Giáo
Việt
Nam
đang ngày càng bỏ mất cái tinh ba, cái sở trường để chạy
theo cái hình thức, cái sở đoản!
Nhìn kỹ lại thành phần nhân sự bị loại ra khỏi Viện Hóa Đạo,
người Phật tử Việt Nam chỉ thấy toàn là những vị hết lòng vì
GH đã trải qua bao nhiêu năm bị tù tội, bị áp bức bởi chế độ
cộng sản, chỉ thấy toàn là những vị xứng đáng đại diện cho
hàng Tăng Bảo, xứng đáng là những Trưởng Tử của đức Như Lai,
chỉ thấy toàn là những vị sống đúng Chánh pháp, giữ đúng kỷ
cương giới hạnh, biết im lặng để giữ thể diện và uy tín cho
GH, biết kính trọng những bậc Trưởng Lão trong Tăng đoàn.
Những lời giải thích ấy nghe sao giống trường hợp một người
tự cắt xẻ thân thể của mình ra, tự xát muối lên những chỗ
thương tích rồi hô hoán lên rằng những thân nhân ruột thịt
của mình đang làm phản, đang nhẫn tâm làm hại, đang có mưu
đồ thay ngôi đổi chủ! Cái gì mà “phản động”? Cái gì mà “âm
mưu tạo ra một GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ”?
Lời lẽ nghe sao giống chữ nghĩa tuyên truyền của đảng cộng
sản Việt
Nam
từ mấy chục năm qua đã sử dụng mỗi khi gán gép và vu khống
tội trạng cho những người dân lương thiện đã phải lên tiếng
vì sự bất công xã hội, vì mất hết quyền tự do, dân chủ!
Nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ là hai
nhà lãnh đạo tối cao và tôn kính của GHPGVNTN hiện nay. Điều
đó không có nghĩa là GHPGVNTN là của riêng của hai ngài hay
GHPGVNTN chỉ tồn tại khi có hai ngài! GHPGVNTN trước đây và
sau này tất nhiên còn phải có những vị lãnh đạo khả kính
khác. Nếu GHPGVNTN mà chỉ duy nhất có nhị vị Hòa Thượng này,
vậy thì sau khi nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo hiện nay viên
tịch rồi, GHPGVNTN sẽ ra sao? Sự tồn tại của GHPGVNTN là sự
tồn tại của lý tưởng, đường hướng và lập trường hành hoạt
trong sáng đúng chánh pháp, phù hợp với truyền thống hai
nghìn năm của Phật Giáo Việt Nam, nhất quán với tâm tư,
nguyện vọng, và hoàn cảnh sống của đại khối dân tộc. Nhị vị
Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ đã dũng mãnh
soi sáng lý tưởng, đường hướng và lập trường hành hoạt ấy từ
mấy chục năm qua, cho nên Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam kính
ngưỡng quý ngài, do đó quý ngài xứng đáng là những bậc lãnh
đạo của GH. Người Phật tử Việt
Nam
mong thấy có được nhiều vị Tăng, Ni có đủ tài và đức để thừa
kế sự nghiệp lãnh đạo GHPGVNTN như nhị vị Hòa Thượng hiện
nay. Rất tiếc những vị Thượng Tọa có thể kham lãnh và kế
thừa nhiệm vụ để lãnh đạo GH đã bị loại ra ngoài Viện Hóa
Đạo, do vậy, cho đến nay điều ước mong này vẫn chưa thành
hiện thực!
Cuối năm 2006, vào thời điểm diễn ra Hội nghị APEC tại Hà
Nội, trong một chương trình phỏng vấn của đài BBC với một vị
Thượng Tọa, được giới thiệu là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội
của GHPGVNTN, người xướng ngôn viên đặt câu hỏi đại ý (người
viết không nhớ rõ nguyên văn) rằng, hiện nay thành phần giới
trẻ sanh sau năm 1975 chiếm tỷ lệ khoảng 60% dân số cả nước,
thành phần này không có liên hệ gì trực tiếp với quá khứ,
với tổ chức GHPGVNTN, trong khi mấy chục năm qua GHPGVNTN đã
bị cấm hoạt động, vậy GHPGVNTN của Thượng Tọa bằng cách gì
để tiếp cận và hướng dẫn cho lực lượng tuổi trẻ là thành
phần chủ đạo của đất nước trong tương lai? Vị Thượng Tọa kia
đã ngập ngừng giây lâu rồi bắt sang chuyện khác để nói. Qua
sự kiện này, cho thấy có một khoảng trống lớn lao trong sứ
mệnh hoằng pháp và chuyển hóa con người của Phật Giáo Việt
Nam, đáng lẽ không vấp phải nếu tình trạng trì trệ và bế tắc
của Phật Giáo Việt Nam trong mấy thập niên qua được giải
quyết tốt đẹp.
Có người sẽ phản đối, cho rằng, sự trì trệ và bế tắc ấy
không do GHPGVNTN tạo ra, mà do đảng và chính quyền cộng sản
Việt
Nam
gây ra. GHPGVNTN không chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu
vắng ấy, mà chính đảng và chính quyền cộng sản Việt
Nam
phải chịu trách nhiệm. Không ai phủ nhận một phần nào thực
tế như vậy. Nhưng, có một điều còn quan trọng hơn là vấn đề
ai chịu trách nhiệm gây ra thảm trạng đó, điều ấy chính là
cả một thế hệ tuổi trẻ bị bỏ quên, bị vùi dập, phải chịu bao
nhiêu mất mát, bao nhiêu thiệt thòi, bao nhiêu tổn hại! Chưa
hết, chính những mất mát và tổn hại của thế hệ trẻ hôm nay
sẽ còn là những mất mát và tổn hại lớn lao hơn, sâu rộng hơn
cho đất nước, cho dân tộc, cho Phật Giáo trong tương lai!
Gần đây, qua các Thông cáo báo chí của Phòng Thông Tin Phật
Giáo Quốc Tế, qua những tài liệu của Gia Đình Phật Tử Việt
Nam trong và ngoài nước, cũng như qua một số bài viết, trong
đó đề cập đến tình hình khó khăn và bi thiết của tổ chức
GĐPTVN, một tổ chức với mục đích giáo dục tuổi trẻ thanh
thiếu đồng niên và đem đạo Phật vào trong sinh hoạt của từng
gia đình, đã có mặt trên 60 năm qua. Viện Hóa Đạo đã tự ý ra
Quyết định bổ nhiệm một huynh trưởng lên làm Vụ Trưởng Gia
Đình Phật Tử Vụ. Khi làm việc trên, GH, qua phát ngôn nhân ở
Paris, cho rằng cần phải làm như vậy để bảo vệ lập trường
trung trinh với GH, không để những thành phần có lập trường
mập mờ chen vào tổ chức GĐPTVN mà khấy động. Những bài viết
khác còn đề nghị đến việc xóa bỏ nguyên tắc xét cấp trong
Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN và thay vào đó là trao quyền
quyết định xét cấp cho Giáo Hội, để GH tùy ý chọn huynh
trưởng mà ban cấp bậc, lấy tiêu chuẩn trung thành với GH làm
chính yếu.
-Có điều không thể không nói ở đây rằng, tổ chức GĐPTVN
trong cũng như ngoài nước từ trước đến nay vẫn tự đặt mình ở
vị thế là người con trung hiếu của GHPGVNTN. Trong Nội Quy,
Quy Chế Huynh Trưởng, và các văn bản của GĐPTVN xưa nay luôn
luôn trung thành với đường hướng, lập trường và hành hoạt
của GHPGVNTN-.
Chư
vị lãnh đạo của GHPGVNTN trong và ngoài nước có thật sự
thành tâm thành ý lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của tập
thể GĐPTVN chưa? Ở thế gian, trong một gia đình, khi người
cha, người mẹ muốn làm điều gì cho con mình, dù biết đó là
việc tốt, vẫn phải nên hỏi ý của con mình trước, xem thử nó
có thích, nó có bằng lòng, nó có điều gì phải phát biểu về
việc mà cha mẹ sắp làm cho nó không? Như vậy, thì việc làm
của cha mẹ mới thật sự mang lại hữu ích thích đáng cho con
cái, mới được con cái quý trọng. Trong thời đại hôm nay, đó
là nếp sống gia đình có giáo dục, nếp sống biết trọng tinh
thần tự do, dân chủ và nhân quyền. Tổ chức GĐPTVN là một tổ
chức giáo dục tuổi trẻ trong tinh thần Phật Pháp, vì vậy,
người lãnh đạo, người huynh trưởng trong GĐPTVN phải là
người làm gương trước tiên cho tuổi trẻ trong nếp sống giáo
dục, nếp sống thấm đượm tinh thần khai phóng, tự giác, giải
thoát và từ bi của đạo Phật. Không thể đem lý do để bảo vệ
Giáo Hội mà làm sai nguyên tắc của nhà giáo dục tuổi trẻ, vì
làm vậy sẽ dẫn đến hệ quả thật nghiêm trọng, đó là khiến cho
tuổi trẻ phản bội lại lý tưởng và nguyên tắc giáo dục cơ bản
mà tổ chức đã tốn bao nhiêu thời gian và tâm huyết để gầy
dựng!
Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín Giải thứ tư, chư vị Đại Thanh
Văn, vì cảm ân đức giáo hóa sâu dày và khó nhọc của đức
Phật, đã kể chuyện người cùng tử. Trong chuyện này, vị
trưởng giả khi biết người cùng tử đích thật là con ruột của
mình, song vì người cùng tử với tâm hạ liệt không dám suy
nghĩ điều ấy, cho nên, ông trưởng giả đã phải thi thiết
phương tiện lần hồi để cảm hóa mà không dùng uy quyền để áp
đặt lên người con. Đọc qua đoạn Kinh trên, người con Phật
không khỏi cảm thán trí tuệ cao vời, lòng từ bi vô lượng và
cách giáo hóa có tình có lý của đức Phật, một vị cha lành!
Với địa vị, quyền uy và giàu sang phú quý như ông trưởng
giả, vậy mà chỉ mỗi một việc nhận lại con ruột của mình,
cũng đã vận dụng đến trí tuệ và lòng từ bi, để sao cho đứa
con với tâm thức hạ liệt ấy có thể mở tâm và trí ra để hoan
hỷ chấp nhận sự thật, dù sự thật vốn đã có mặt ở đó từ lâu
rồi!
* * *
Để kết luận, người viết xin kể ra đây hai bài học quý giá mà
nhân loại đã và đang trân trọng.
Bài học thứ nhất là của nhà vận động cho quyền bình đẳng
chủng tộc và cũng là nhà lãnh đạo có một không hai của xứ
Nam Phi, ông Nelson Mandela. Ông Nelson Mandela vì tham gia
vào cuộc vận động cho quyền bình đẳng chủng tộc tại Nam Phi
mà đã bị bắt bỏ tù suốt 28 năm (từ năm 1962 đến 1990), từ
khi ông còn trung niên ở tuổi 40 đến khi ra tù thì tóc đã
bạc màu ở tuổi thất tuần. Vậy mà ông vẫn giữ được tấm lòng
trung hậu không những đối với đất nước, dân tộc mà còn đối
với những kẻ đã từng đàn áp ông nữa. Khi công cuộc vận động
cho quyền bình đẳng chủng tộc thành công, ông Nelson Mandela
đã được bầu, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên, làm Tổng
Thống nước Nam Phi vào năm 1994. Sau đó, ở ngôi vị là một
Tổng Thống, ông Nelson Mandela đã cùng với Tổng Giám Mục
Desmond Tutu thành lập Uỷ Ban Sự Thật Và Hòa Giải (Truth and
Reconcilliation Commission) để đưa ra ánh sáng tất cả những
vi phạm nhân quyền trong thời kỳ chế độ kỳ thị chủng tộc
trước đó. Nhưng không phải đưa ra để kết án và trả thù mà để
hóa giải mọi oan khiên cho dân tộc, để cùng nhau đoàn kết
xây dựng đất nước. Ông Nelson Mandela đã từng đến viếng,
tưởng niệm và cầu nguyện tại ngôi mộ của người mà ngày xưa
đã bắt bỏ tù ông. Nhờ tấm lòng trung hậu của ông Nelson
Mandela mà đất nước Nam Phi đã có thể vượt qua được mọi khó
khăn để vươn mình lên cùng với thế giới văn minh và tiến bộ
của loài người.
Những nhà lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt
Nam
hiện nay cần suy nghiệm về bài học quý giá của ông Nelson
Mandela để sớm có được những chính sách quang minh chính đại
cho việc trị quốc an dân. Đừng nghĩ rằng việc mở cửa đón
nhận tự do, dân chủ, tôn trọng quyền sống và quyền làm người
của người dân, hoặc lắng nghe và thực hành những ý kiến xây
dựng từ mọi thành phần dân tộc là một hành động hèn yếu,
thua cuộc, bất lực hay thoái bộ. Không, không một người công
dân Việt
Nam
nào nghĩ như vậy! Việc làm ấy là việc làm của những ai có
bản lãnh tự thắng mình, của những người thật sự biết hy sinh
quyền lợi cá nhân, đảng phái, chủ nghĩa cho quyền lợi tối
thượng của dân tộc, của đất nước. Việc làm ấy tự nó là một
cống hiến đầy ý nghĩa và giá trị vô ngần mà chỉ những nhà
lãnh đạo chân chính mới có thể làm được. Cầu mong hồn thiêng
sông núi Việt
Nam
còn có những nhà lãnh đạo như thế để cho dân tộc được nhờ!
Bài học thứ hai là của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, vị
lãnh đạo quốc gia lưu vong và Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã
rời bỏ quê hương Tây Tạng của ngài vào năm 1959 đến nay vì
bị đảng và chính quyền Trung Quốc xâm chiếm đất nước Tây
Tạng. Suốt trên 50 năm qua, ngài không ngừng đi khắp thế
giới để vận đông cho nền độc lập rồi sau này là tự trị của
Tây Tạng, cũng như để truyền bá Phật Pháp cho nhân loại. Từ
đó đến nay, ngài luôn luôn sống và hoạt động trong tinh thần
từ bi bất bạo động của Phật Giáo. Trong những cuốn sách, bài
thuyết giảng, bài tham luận, hay trong ngôn từ lúc tiếp xử
với những nhà lãnh đạo, những chính khách, những nhà ngoại
giao, ngài không bao giờ sử dụng từ ngữ mang ý tưởng thù hận
đối với chính quyền Trung Quốc. Ngài thường gọi những người
lãnh đạo trong chính quyền Trung Quốc là “những người anh
em”. Nhìn vào hình ảnh và từ tâm của ngài, nhân loại không
khỏi nghĩ đến một đạo Phật từ bi, hòa bình, nhân bản, giải
thoát và trí tuệ. Đó chính là một trong những cách giáo hóa
Phật Pháp vi diệu nhất mà ngài đã mang lại cho thế giới
chúng ta. Dù trong đời ngài, có thể mục đích vận động cho
nền tự trị của Tây Tạng sẽ không thành tựu, nhưng thay vào
đó ngài đã thành tựu được sứ mệnh lớn lao của một sứ gỉa của
đức Như Lai: sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp để lợi lạc quần
sinh.
* * *
Thành tâm cầu nguyện những bậc cao Tăng lãnh đạo Phật Giáo
Việt Nam vận dụng hùng lực siêu quần của trí tuệ và từ bi để
dẫn đạo con đường đi tới cho Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam
hướng đến mục tiêu cao xa và rộng lớn cho cả dân tộc và nền
Phật Giáo Việt Nam hiện tại và mai hậu.
Viết để khể thủ thâm tạ công ơn giáo hóa sâu dày của đức
Phật và cái nôi Phật Giáo Việt
Nam
đã dày công dưỡng dục cho một Phật tử bé nhỏ là người viết.
Trần Đại Linh
(Theo Đàm thoại Phật giáo)