.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007


Nỗi lòng của một người Phật tử Việt Nam

  • PSN - 15.10.2008 | Trần Đại Linh

Sinh ra trong một đất nước điêu linh và thống khổ, hết quốc nạn ngoại xâm rồi đến thảm nạn nội thù, quê cha đất mẹ không bị phanh thây chia cắt bởi sự đổi chác của chủ nghĩa ý thức hệ, thì bị phân hóa nhiễu nhương vì chính kiến thiên chấp hẹp hòi của đảng phái, bè phái, tập đoàn thống trị, thường nhân danh quyền lợi và chính nghĩa dân tộc, mà thực chất chỉ là chiêu bài mị dân hay bình phong giả hiệu, may thay nhờ có ngọn đèn trí tuệ và từ bi của đạo Phật, người viết đã có thể tự mình vươn lên để tìm lấy hướng đi và thâm cảm nỗi đau thấu tận xương tủy của biết bao đồng bào ruột thịt!

Đạo Phật Việt Nam có mặt từ thuở bình minh dựng nước đến khi dân tộc được tự chủ phú cường, luôn thầm lặng thấm sâu trong từng mạch sống của quê hương qua bao nhiêu thế hệ và thời đại, đến nỗi con cháu ngàn sau còn cảm nhận một đạo Phật hiển hiện trong máu huyết, trong xác thịt, trong tâm thức của mình. Đạo Phật ấy không có tên gọi cho riêng mình, không có chỗ đứng riêng cho mình, không ở trên cao nơi chốn cửu trùng hay trong dinh thự nguy nga tráng lệ để vinh thân phì da, không có biên tế ngăn cách với bá tánh vạn dân. Đạo Phật ấy lấy trí tuệ soi sáng hướng đi, lấy từ bi bao dung che chở cho dân tộc. Đạo Phật ấy cùng họ cùng tên với giống nòi, sống theo vận hưng suy của đất nước, lam lũ trong chốn đồng quê với những nông phu, hòa đồng nơi đô hội với thị dân, thiếu ăn thiếu mặc như khổ dân trong thời lầm than đói rách, tù tội chết thảm như sinh linh trong thời loạn chiến tranh!

Người viết hôm nay đau xót tự hỏi: Đạo Phật Việt Nam ấy bây giờ ở đâu?

Khi văn hóa Tây phương theo bước chân của thế lực ngoại bang tràn vào đất nước ta, trong hoàn cảnh một xã hội chưa thật sự được chuẩn bị đầy đủ để có thể tiếp nhận một nền văn hóa mới trong tinh thần chọn lọc, phê phán và sáng tạo, đã mang theo nó những hệ lụy không cùng kéo dài qua bao nhiêu thế hệ. Cái hệ quả độc hại nhất chính là bản chất duy lý xây dựng trên ý thức phân biệt tinh vi của nền văn hóa kia. Ý thức là vọng thức. Vọng thức là vọng động không ngừng, luôn luôn hướng về một cái gì đó, một tha thể trong chính tự thể. Nhưng tự thể xây trên ý thức duy lý chỉ là cái lâu đài xây bằng cát nằm cạnh đại dương với những đợt ba đào không lúc nào yên nghỉ. Lâu đài ấy vĩnh viễn không thể có được một tuổi thọ lâu dài. Nền văn minh Tây phương vì vậy, cho đến nay đã trải qua biết bao cơn khủng hoảng, bế tắc, hụt hẫng, thực chất là một nền văn minh đang dọ dẫm từng bước đi trước mặt. Khoa kỹ học, vật lý học, tâm lý học, toán học, thiên văn học, v.v… vẫn còn là những nỗ lực thăm dò của nền văn minh duy lý ấy. Những gì con người thán phục đối với nền văn minh ấy chỉ là các thành quả có được của những bước thăm dò đã qua. Tương lai của cả nền văn minh duy lý ấy đi về đâu? Có lẽ không ai trong nền văn minh duy lý ấy có thể có được một câu trả lời dứt khoát. Ý thức duy lý tạo ra những đám mây mù che khuất lối về nguồn cội căn nguyên của con người, của vạn hữu. Ý thức duy lý tạo ra khái niệm nhị nguyên: duy tâm, duy vật, duy linh, v.v… để rồi tự buộc con người trong những cố chấp, thiên chấp, tranh chấp càng lúc càng bền chặt, không có lối thoát!

Hệ lụy mà nền văn hóa duy lý ấy thao tác trên đất nước ta chính là cái tinh thần duy lý đã ngày càng bám rễ sâu rộng trong tâm thức con người Việt Nam qua các hình thái cuồng tín theo lập trường “duy”: duy tâm, duy vật, duy linh, duy khoa học, duy chủ thuyết, duy chủ nghĩa, duy ý thức hệ, duy cộng sản, duy Tây phương, duy tiền bạc, duy danh tướng, v.v… Đã “duy” cái gì rồi thì chỉ biết có cái mình “duy” và phủ nhận, chống đối, loại trừ cái “không phải duy” của mình. Tâm thức duy lý còn là tâm thức hướng ngoại, vọng ngoại, vong bản, tha hóa, xa lìa bản thể nguyên sơ của mình. Do vậy, chỉ thấy cái mark của người khác là hay, là thật, là quý giá, mà thấy cái gì có dính dáng đến cái mark của mình cũng đều cho là dở, là giả, là tệ. Chính vì vậy, cho nên, chúng ta đã tôn thờ và sống chết theo các chủ nghĩa, chủ thuyết, ý thức hệ ngoại lai, để rồi chém giết lẫn nhau, tiêu diệt lẫn nhau, thù hận lẫn nhau. Cho đến hôm nay mà di chứng của nền văn hóa duy lý ấy vẫn còn trói chặt dân tộc trong mối hận thù, phân hóa, vong bản!

Nói như vậy, tất nhiên, không phải người viết đang rơi vào một vị thế đứng khác để đối đầu và phê phán một cách mù quáng văn minh khoa học và sự mở cửa của đất nước để tiếp nhận nền văn hóa ấy. Nói như vậy cũng không phải người viết không nhận thức được những lợi ích cụ thể mà nền văn minh khoa học đã và đang mang lại cho con người nói chung và cho người dân Việt nói riêng. Nói như vậy lại càng không phải người viết không hiểu rằng, bản chất con người, không phân biệt là Đông hay Tây, vốn sống và thừa hành theo động lực của ý thức, vọng thức và do đó hàm ngụ sắc thái và tác hưởng của tinh thần duy lý. Nhưng, có một điều rất rõ rằng, mà đây là điều tất yếu của tiến trình lịch sử của nhân loại không ai có thể ngăn cản được, văn hóa duy lý đã góp phần không nhỏ làm thổi bùng sức mạnh tiềm ẩn của ý thức phân biệt, của vọng thức, của tinh thần duy lý trong tâm thức của con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng để nó trào ra ngoài sinh hoạt cá nhân, tập thể và xã hội. Cái may của phần lớn các nước phương Tây là song song với sự bành trướng của văn hóa duy lý còn có sự phát triển lớn mạnh của tinh thần khai phóng, tự do, dân chủ, tôn trọng quyền sống và quyền làm người. Đất nước Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc phần còn lại của thế giới thiếu sự may mắn đó!

Trong bối cảnh đất nước như vậy, Phật Giáo Việt Nam như thế nào?

Suốt hàng thế kỷ sống trong cảnh bị ngoại bang xâm chiếm thống trị, bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, bị các chủ thuyết gieo rắc hận thù giai cấp và ý thức hệ, hoặc bị bần cùng hóa đến tận đất đen, hoặc bị đào phá tận gốc rễ nền đạo đức, luân lý, văn hóa và tôn giáo truyền thống lâu đời, người dân Việt Nam phải tự tìm ra giải pháp sinh tồn cho chính mình: Tinh thần tự vệ thể chất và tâm linh phát sinh; tính nghi kỵ, manh tâm, thù hận, bạo lực, thủ đoạn chiếm ưu thế; mưu sinh bằng mọi phương tiện khả thể được mặc nhiên thừa nhận; tiền, cơm gạo, vật chất, địa vị thế lực là mục đích đứng đầu trong các nhu cầu của đới sống thường nhật. Cho nên, xã hội ngày càng loạn, đất nước ngày càng rối, thế đạo nhân tâm ngày càng suy sụp! Phật Giáo Việt Nam, người Phật tử Việt Nam sống và trưởng thành trong bối cảnh xã hội ấy làm sao không mang hệ lụy? Vấn đề là đến mức độ nào mà thôi!

Điều có thể thấy rõ trước mắt là Phật Giáo Việt Nam ngày càng quên tinh ba, chọn hình tướng, bỏ sở trường, theo sở đoản. Cái tinh ba và sở trường là thể hiện nền đạo đức thực chứng, tôn trọng giới luật, bảo vệ bản thể thanh tịnh và hòa hợp bất phân của cộng đồng Tăng Già, phát huy giá trị giác ngộ và giải thoát siêu việt của Giáo pháp Phật Đà, trang trải đức từ bi đến khắp nhân gian, dẫn đạo sự nghiệp văn hiến để nâng mức sống văn hóa của dân tộc ngày càng cao hơn, góp phần cụ thể và tích cực vào việc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng khai phóng, tự do, dân chủ và thịnh vượng bằng lý tưởng và phương tiện của Bồ Tát Đạo. Cái hình tướng và sở đoản là phô trương chủ nghĩa cá nhân, bè phái, tôn sùng hình danh sắc tướng bề ngoài, chạy theo những mục tiêu giả tạo của thế gian như địa vị, học vị, danh hàm, khen thưởng, xem danh vị của cá nhân hay tập thể mình lớn hơn sinh mạng của Phật Pháp, xem nhãn hiệu bề ngoài quý giá hơn phẩm đức bên trong, đổi lấy sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp phổ độ quần sinh theo lý tưởng cao diệu vô tận của Bồ tát đạo bằng con đường hoạt động phiêu lưu và phiến diện mang sắc thái chính trị thế tục chỉ là xu thế giới hạn trong một thời.

Chính vì vậy, Phật Giáo chúng ta đã và đang vì cái hình tướng, cái sở đoản mà phân hóa nội bộ, mà vu khống, nhục mạ, loại trừ lẫn nhau, mà cúi đầu trước các thế lực thế gian đành làm tay sai cho thế quyền, mà không dám dũng cảm thể hiện cái tinh ba, cái sở trường, mà bàng quan tọa thị và bỏ qua bao nhiêu cơ hội để xây dựng và phát triển cơ đồ cho Phật Giáo Việt Nam!

Trước năm 1975, tại miền Nam, vì bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản, mà từ một tập họp với sức mạnh lớn lao hùng hậu chưa từng thấy trong lịch sử cận đại của Phật Giáo Việt Nam trong tổ chức GHPGVNTN đã bị phân hóa thành hai: Giáo Hội Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự. Sau năm 1975, trên cả nước, vì bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường và chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản, mà đã biến Phật Giáo Việt Nam thành hai mảnh vụn: GHPGVNTN và GHPGVN. Thảm nạn của sự chia cắt này cho đến nay vẫn còn là niềm đau thống thiết trong lòng người Phật tử Việt Nam!

Tại sao? - Có người nói, vì các thế lực chính trị quyết tâm phân hóa và triệt hạ sức mạnh thống hợp của Phật Giáo Việt Nam để dễ bề thống trị đất nước. Điều ấy không sai, nhưng mới chỉ là yếu tố khách quan bên ngoài. Điều không thể phủ nhận là để dẫn đến thảm trạng ấy tất không thể duy chỉ có yếu tố khách quan bên ngoài mà thôi, mà còn phải có thành tố chủ quan bên trong. Yếu tố chủ quan bên trong chính là sự bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường mà chạy theo cái hình tướng, cái sở đoản. Bởi lẽ, nếu Phật Giáo chúng ta không bỏ quên cái tinh ba, cái sở trường thì sự kiện phân hóa và bế tắc ấy cho đến nay, sau trên mấy thập niên, đã có thể mang những sắc thái khác hơn là như hiện nay chúng ta đang chứng kiến.

Đã bao nhiêu năm nay, người Phật tử Việt Nam tâm tâm niệm niệm, thành tâm thành ý cùng với chư Tôn Đức Tăng, Ni nỗ lực xây dựng và phát triển nền Phật Giáo Việt Nam, những mong nương nhờ vào sức mạnh thống hợp của Phật Giáo Việt Nam để vực dậy tiềm lực cho dân tộc hầu góp phần vào việc xây dựng và phát triển đất nước. Chính trong tâm nguyện ấy mà dù phải chứng kiến những thảm trạng đau lòng xảy ra trong chính bản thân của Phật Giáo Việt Nam, người Phật tử Việt Nam vẫn âm thầm, nhẫn nại chịu đựng, nghĩ rằng đó chỉ là một vài sơ suất không thể tránh khỏi trong công cuộc hành đạo khi dấn thân vào môi trường xã hội phức tạp. Nhưng rồi, ngày lại ngày, trong khi thế giới nhân loại đã và đang vươn mình lên đến trình độ cao rộng thênh thang ở tất cả mọi lãnh vực, từ khoa học kỹ thuật, thông tin thương mại, giao thương kinh tế, dân giàu nước mạnh, đến văn hóa, giáo dục, truyền thông đại chúng, tự do, dân chủ, phú cường thịnh vượng, thì đất nước Việt Nam, dưới sự thống trị độc tài của đảng cộng sản Việt Nam, vẫn còn ì ạch ở tận dưới vực sâu của nghèo đói, lạc hậu, khủng hoảng, bế tắc và khép kín! Mấy năm gần đây, do sức ép của các cuộc vận động trong và ngoài nước, cũng như do nhu cầu tồn tại, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã bị bắt buộc phải thay đổi phần nào chính sách, đặc biệt trong lãnh vực ngoại giao, kinh tế, để đưa ra chính sách “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như sức nước vỡ bờ, vì chất chứa lâu ngày, kế hoạch “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã’ đã tuột khỏi tầm tay của đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam. Một lần nữa, buộc họ phải chấp nhận tham gia vào sân chơi quốc tế WTO với những quy tắc hẳn hòi, từng bước một phải mở cửa thật sự ra thế giới khoáng đạt bên ngoài. Dù đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đang chơi trò kéo dài thời gian để có đủ thì giờ chuẩn bị mọi việc không vượt ngoài thế lực khống chế của họ và cố gắng duy trì sức mạnh quyền lực lãnh đạo đất nước với vị thế độc tôn của đảng cộng sản Việt Nam, nhưng điều thấy rõ là xu hướng tự do, dân chủ của thời đại này đã không thể quay đầu trở lại và do đó, vai trò độc tôn lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam sẽ không thể duy trì được lâu dài thêm nữa.


Nhận định được tình hình như vậy, cho nên, các tổ chức tôn giáo, chính trị, kinh tế trong cũng như ngoài nước đã và đang trong tiến trình vừa hành động vừa chuẩn bị cho những kế hoạch lâu dài của họ trên đất nước Việt Nam. Tiếc thay, người Phật tử Việt Nam đã không thấy một dấu hiệu nào tích cực phát xuất từ các Giáo Hội trong và ngoài nước cho sự chuẩn bị cũng như hành động kịp thời đối với tình hình của đất nước hiện nay và tương lai! Ngược lại, người Phật tử Việt
Nam thường xuyên chứng kiến những điều tủi nhục, đau lòng phát ra từ các tổ chức Giáo Hội! Những điều đau lòng ấy là gì? Xin đơn cử một số điều tiêu biểu sau đây:

Đã một phần tư thế kỷ có mặt và được sự chấp thuận cũng như bảo bọc của đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam, vậy mà GHPGVN, một Giáo Hội tự cho mình là đại diện chính thống của Phật Giáo Việt Nam, cho đến nay vẫn mặc nhiên chịu khép mình dưới sự lãnh đạo, chi phối và điều động của Mặt Trận Tổ Quốc và Ban Tôn Giáo Chính Phủ như các hội phụ nữ, hội đá banh, hội đua ngựa, v.v… Một Giáo Hội tự cho mình là đại diện chính thống của Phật Giáo Việt Nam, tự cho mình cái quyền được kế thừa sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp quảng độ quần sinh của lịch đại tiền bối tổ sư sao lại có thể đặt mình ngang hàng với cái hội đoàn thế tục nhỏ bé như vậy?

Trong truyền thống Phật Giáo trên hai mươi lăm thế kỷ nay, hình ảnh của vị Tỳ kheo là đại diện tôn nghiêm cho hàng Tăng Bảo, cho chí nguyện xuất trần cao thượng của bậc thầy trời người, sao lại có trường hợp như các vị Tỳ kheo trong GHPGVN đem thân chịu phép của thế lực chính trị thế gian làm dân biểu quốc hội, làm thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, làm cán bộ trong hệ thống chính trị thế quyền?

Chư Tôn Đức Tăng, Ni trong GHPGVN khi ra đảm nhận các vai trò trong Giáo Hội không ngoài mục đích nương vào phương tiện tổ chức để truyền bá Phật Pháp, tiếp dẫn hậu lai, cứu khổ nhân quần, sao lại có trường hợp quý ngài chịu phép làm cái loa cho chế độ chính trị tuyên bố điều này, chống đối việc kia theo chính sách toàn trị của đảng cộng sản?
 

Gần đây, có người viết bài với ác tâm đánh phá một số chư Tôn Đức như Thiền sư Nhất Hạnh, Thiền sư Thanh Từ. Người viết bài đó đã không nghĩ cho Phật Giáo Việt Nam. Tại sao? Bởi vì, Phật Giáo Việt Nam, trong đó có GHPGVNTN và GHPGVN, trong mấy thập niên qua ở trong tình trạng trì trệ, bế tắc do nhiều chướng duyên từ bên ngoài cũng như bên trong. Do sự trì trệ và bế tắc đó mà nhiều hiện trạng tiêu cực, mất mát đã và đang xảy ra, như quần chúng Phật tử thiếu sự hướng dẫn đầy đủ để tu học đúng chánh pháp, vì vậy tệ nạn mê tín dị đoan ngày càng gia tăng, Tăng Ni trẻ sa đà trong những hưởng thụ tiện nghi vật chất quên mất sứ mệnh và lý tưởng phụng sự Phật pháp và hoằng dương chánh pháp của mình, chùa chiền to lớn được dựng lên khắp nơi khiến cho người ta có cảm tưởng sai lầm rằng đó chính là hiện tượng hưng thịnh thật sự của Phật Giáo, mà kỳ thật là những nguy cơ vì tạo ra bản ngã tự phụ, tinh thần sở hữu cá nhân và sự cạnh tranh thế lực và quyền lợi trong chính cộng đồng Tăng Ni với nhau, tuổi trẻ một lực lượng chiếm gần 60% dân số cả nước đã không được quan tâm đúng mức để hướng dẫn việc thâm nhập Phật pháp. Trong hoàn cảnh như vậy, Thiền sư Nhất Hạnh về nước phần nào đã có thể tạo ra một sinh hoạt mới, gây ra những chú ý và ý thức về Phật Giáo đối với nhiều thành phần trong xã hội, đánh động được phần nào thành phần tiêu cực thụ động vì chán nản trước tình trạng trì trệ của Phật Giáo bấy lâu nay, khơi động được phần nào sự tìm hiểu về Phật Giáo trong thành phần trí thức. Cũng vậy, Thiền sư Thanh Từ suốt mấy chục năm qua đã âm thầm, nhẫn nại vượt qua mọi nghịch duyên từ trong lẫn ngoài, để chăm lo việc tu học cho biết bao nhiêu Tăng, Ni và đồng bào Phật tử. Những việc làm vừa nêu trên chỉ là một phần nhỏ trong các công tác Phật sự mà hai vị Thiền sư Nhất Hạnh và Thanh Từ đã làm. Nếu thay vào những Phật sự ấy bằng những công tác truyền bá của Tin Lành, của Công Giáo, v.v… thì Phật Giáo Việt Nam sẽ ra sao?


GHPGVNTN bao nhiêu năm qua vì bảo vệ lập trường trung trinh trước sau như một đối với dân tộc, đứng chung hàng ngũ với đại khối dân tộc để gánh chịu vinh nhục thăng trầm của vận nước mà phải chịu biết bao đau thương, mất mát. Bao nhiêu hy sinh của Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam suốt mấy thập niên qua đều vì bản thệ sáng ngời ấy. Nó là chỗ dựa, là tấm gương sáng, là con thuyền, là mảnh đất lành cho hàng ngũ xuất gia cũng như tại gia nương tựa, quay về, hướng đến. Lập trường và chí nguyện ấy cao đẹp biết bao, thuần khiết biết bao, vĩ đại biết bao! Chính lập trường và chí nguyện cao cả đó mà dù có lúc Giáo Hội trải qua thời kỳ bỉ vận điêu linh, với sự lãnh đạo đơn độc nhưng sáng suốt của nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, người Phật tử Việt Nam vẫn một lòng hướng về hậu thuẫn dù đang sống lầm than trong nước hay đang lưu lạc tận phương trời xa xăm nơi hải ngoại.

Đại hội Bất Thường của GHPGVNTN diễn ra tại Tu Viện Nguyên Thiều vào cuối năm 2003, với sự có mặt đầy đủ của chư tôn Trưởng Lão, chư Hòa Thượng, Thượng Toạ trong Lưỡng Viện Giáo Hội, như mở ra một vận hội mới, như vén lên bức màn để nhìn thấy triêu dương của Phật Giáo Việt Nam. Người Phật tử Việt Nam trong cũng ngoài nước hoan hỷ biết bao! Tiếc thay, niềm hoan hỷ ấy đã sớm héo tàn khi Giáo Chỉ bổ sung và lưu nhiệm thành phần nhân sự của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo được công bố vào cuối năm 2005 tại hải ngoại! Người Phật tử Việt Nam bồi hồi, băn khoăn, hoang mang và lo lắng cho Giáo Hội trước sự kiện này! Rồi sau đó là những tuyên bố, những giải thích, những bài viết về biến cố này từ những vị lãnh đạo, những thành viên nêu tên hay dấu tên, những cơ quan thông tin của GH trong và ngoài nước được đưa ra. Dường như GH suy nghĩ rằng, người Phật tử Việt Nam sẵn sàng chấp nhận bất cứ lời giải thích nào, bất luận đó là những lời giải thích chứa đựng đầy kịch tính, đầy mâu thuẫn, đầy hư cấu giả tạo! Chẳng hạn, trong những giải thích ấy, có giải thích cho rằng những vị Giáo phẩm bị loại ra khỏi Viện Hóa Đạo là thành phần “phản động” âm mưu tạo ra một “GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ.” Nghe qua lời giải thích này, người Phật tử Việt Nam cảm thấy đau lòng khôn xiết! Đau lòng vì đúng là Phật Giáo Việt Nam đang ngày càng bỏ mất cái tinh ba, cái sở trường để chạy theo cái hình thức, cái sở đoản!

Nhìn kỹ lại thành phần nhân sự bị loại ra khỏi Viện Hóa Đạo, người Phật tử Việt Nam chỉ thấy toàn là những vị hết lòng vì GH đã trải qua bao nhiêu năm bị tù tội, bị áp bức bởi chế độ cộng sản, chỉ thấy toàn là những vị xứng đáng đại diện cho hàng Tăng Bảo, xứng đáng là những Trưởng Tử của đức Như Lai, chỉ thấy toàn là những vị sống đúng Chánh pháp, giữ đúng kỷ cương giới hạnh, biết im lặng để giữ thể diện và uy tín cho GH, biết kính trọng những bậc Trưởng Lão trong Tăng đoàn.

Những lời giải thích ấy nghe sao giống trường hợp một người tự cắt xẻ thân thể của mình ra, tự xát muối lên những chỗ thương tích rồi hô hoán lên rằng những thân nhân ruột thịt của mình đang làm phản, đang nhẫn tâm làm hại, đang có mưu đồ thay ngôi đổi chủ! Cái gì mà “phản động”? Cái gì mà “âm mưu tạo ra một GHPGVNTN không Huyền Quang, không Quảng Độ”? Lời lẽ nghe sao giống chữ nghĩa tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam từ mấy chục năm qua đã sử dụng mỗi khi gán gép và vu khống tội trạng cho những người dân lương thiện đã phải lên tiếng vì sự bất công xã hội, vì mất hết quyền tự do, dân chủ!

Nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ là hai nhà lãnh đạo tối cao và tôn kính của GHPGVNTN hiện nay. Điều đó không có nghĩa là GHPGVNTN là của riêng của hai ngài hay GHPGVNTN chỉ tồn tại khi có hai ngài! GHPGVNTN trước đây và sau này tất nhiên còn phải có những vị lãnh đạo khả kính khác. Nếu GHPGVNTN mà chỉ duy nhất có nhị vị Hòa Thượng này, vậy thì sau khi nhị vị Hòa Thượng lãnh đạo hiện nay viên tịch rồi, GHPGVNTN sẽ ra sao? Sự tồn tại của GHPGVNTN là sự tồn tại của lý tưởng, đường hướng và lập trường hành hoạt trong sáng đúng chánh pháp, phù hợp với truyền thống hai nghìn năm của Phật Giáo Việt Nam, nhất quán với tâm tư, nguyện vọng, và hoàn cảnh sống của đại khối dân tộc. Nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ đã dũng mãnh soi sáng lý tưởng, đường hướng và lập trường hành hoạt ấy từ mấy chục năm qua, cho nên Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam kính ngưỡng quý ngài, do đó quý ngài xứng đáng là những bậc lãnh đạo của GH. Người Phật tử Việt Nam mong thấy có được nhiều vị Tăng, Ni có đủ tài và đức để thừa kế sự nghiệp lãnh đạo GHPGVNTN như nhị vị Hòa Thượng hiện nay. Rất tiếc những vị Thượng Tọa có thể kham lãnh và kế thừa nhiệm vụ để lãnh đạo GH đã bị loại ra ngoài Viện Hóa Đạo, do vậy, cho đến nay điều ước mong này vẫn chưa thành hiện thực!

Cuối năm 2006, vào thời điểm diễn ra Hội nghị APEC tại Hà Nội, trong một chương trình phỏng vấn của đài BBC với một vị Thượng Tọa, được giới thiệu là Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội của GHPGVNTN, người xướng ngôn viên đặt câu hỏi đại ý (người viết không nhớ rõ nguyên văn) rằng, hiện nay thành phần giới trẻ sanh sau năm 1975 chiếm tỷ lệ khoảng 60% dân số cả nước, thành phần này không có liên hệ gì trực tiếp với quá khứ, với tổ chức GHPGVNTN, trong khi mấy chục năm qua GHPGVNTN đã bị cấm hoạt động, vậy GHPGVNTN của Thượng Tọa bằng cách gì để tiếp cận và hướng dẫn cho lực lượng tuổi trẻ là thành phần chủ đạo của đất nước trong tương lai? Vị Thượng Tọa kia đã ngập ngừng giây lâu rồi bắt sang chuyện khác để nói. Qua sự kiện này, cho thấy có một khoảng trống lớn lao trong sứ mệnh hoằng pháp và chuyển hóa con người của Phật Giáo Việt Nam, đáng lẽ không vấp phải nếu tình trạng trì trệ và bế tắc của Phật Giáo Việt Nam trong mấy thập niên qua được giải quyết tốt đẹp.

Có người sẽ phản đối, cho rằng, sự trì trệ và bế tắc ấy không do GHPGVNTN tạo ra, mà do đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam gây ra. GHPGVNTN không chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu vắng ấy, mà chính đảng và chính quyền cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm. Không ai phủ nhận một phần nào thực tế như vậy. Nhưng, có một điều còn quan trọng hơn là vấn đề ai chịu trách nhiệm gây ra thảm trạng đó, điều ấy chính là cả một thế hệ tuổi trẻ bị bỏ quên, bị vùi dập, phải chịu bao nhiêu mất mát, bao nhiêu thiệt thòi, bao nhiêu tổn hại! Chưa hết, chính những mất mát và tổn hại của thế hệ trẻ hôm nay sẽ còn là những mất mát và tổn hại lớn lao hơn, sâu rộng hơn cho đất nước, cho dân tộc, cho Phật Giáo trong tương lai!
 

Gần đây, qua các Thông cáo báo chí của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, qua những tài liệu của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong và ngoài nước, cũng như qua một số bài viết, trong đó đề cập đến tình hình khó khăn và bi thiết của tổ chức GĐPTVN, một tổ chức với mục đích giáo dục tuổi trẻ thanh thiếu đồng niên và đem đạo Phật vào trong sinh hoạt của từng gia đình, đã có mặt trên 60 năm qua. Viện Hóa Đạo đã tự ý ra Quyết định bổ nhiệm một huynh trưởng lên làm Vụ Trưởng Gia Đình Phật Tử Vụ. Khi làm việc trên, GH, qua phát ngôn nhân ở Paris, cho rằng cần phải làm như vậy để bảo vệ lập trường trung trinh với GH, không để những thành phần có lập trường mập mờ chen vào tổ chức GĐPTVN mà khấy động. Những bài viết khác còn đề nghị đến việc xóa bỏ nguyên tắc xét cấp trong Quy Chế Huynh Trưởng GĐPTVN và thay vào đó là trao quyền quyết định xét cấp cho Giáo Hội, để GH tùy ý chọn huynh trưởng mà ban cấp bậc, lấy tiêu chuẩn trung thành với GH làm chính yếu.

-Có điều không thể không nói ở đây rằng, tổ chức GĐPTVN trong cũng như ngoài nước từ trước đến nay vẫn tự đặt mình ở vị thế là người con trung hiếu của GHPGVNTN. Trong Nội Quy, Quy Chế Huynh Trưởng, và các văn bản của GĐPTVN xưa nay luôn luôn trung thành với đường hướng, lập trường và hành hoạt của GHPGVNTN-.

Chư vị lãnh đạo của GHPGVNTN trong và ngoài nước có thật sự thành tâm thành ý lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của tập thể GĐPTVN chưa? Ở thế gian, trong một gia đình, khi người cha, người mẹ muốn làm điều gì cho con mình, dù biết đó là việc tốt, vẫn phải nên hỏi ý của con mình trước, xem thử nó có thích, nó có bằng lòng, nó có điều gì phải phát biểu về việc mà cha mẹ sắp làm cho nó không? Như vậy, thì việc làm của cha mẹ mới thật sự mang lại hữu ích thích đáng cho con cái, mới được con cái quý trọng. Trong thời đại hôm nay, đó là nếp sống gia đình có giáo dục, nếp sống biết trọng tinh thần tự do, dân chủ và nhân quyền. Tổ chức GĐPTVN là một tổ chức giáo dục tuổi trẻ trong tinh thần Phật Pháp, vì vậy, người lãnh đạo, người huynh trưởng trong GĐPTVN phải là người làm gương trước tiên cho tuổi trẻ trong nếp sống giáo dục, nếp sống thấm đượm tinh thần khai phóng, tự giác, giải thoát và từ bi của đạo Phật. Không thể đem lý do để bảo vệ Giáo Hội mà làm sai nguyên tắc của nhà giáo dục tuổi trẻ, vì làm vậy sẽ dẫn đến hệ quả thật nghiêm trọng, đó là khiến cho tuổi trẻ phản bội lại lý tưởng và nguyên tắc giáo dục cơ bản mà tổ chức đã tốn bao nhiêu thời gian và tâm huyết để gầy dựng!

Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Tín Giải thứ tư, chư vị Đại Thanh Văn, vì cảm ân đức giáo hóa sâu dày và khó nhọc của đức Phật, đã kể chuyện người cùng tử. Trong chuyện này, vị trưởng giả khi biết người cùng tử đích thật là con ruột của mình, song vì người cùng tử với tâm hạ liệt không dám suy nghĩ điều ấy, cho nên, ông trưởng giả đã phải thi thiết phương tiện lần hồi để cảm hóa mà không dùng uy quyền để áp đặt lên người con. Đọc qua đoạn Kinh trên, người con Phật không khỏi cảm thán trí tuệ cao vời, lòng từ bi vô lượng và cách giáo hóa có tình có lý của đức Phật, một vị cha lành! Với địa vị, quyền uy và giàu sang phú quý như ông trưởng giả, vậy mà chỉ mỗi một việc nhận lại con ruột của mình, cũng đã vận dụng đến trí tuệ và lòng từ bi, để sao cho đứa con với tâm thức hạ liệt ấy có thể mở tâm và trí ra để hoan hỷ chấp nhận sự thật, dù sự thật vốn đã có mặt ở đó từ lâu rồi!
 

* * *
 

Để kết luận, người viết xin kể ra đây hai bài học quý giá mà nhân loại đã và đang trân trọng.

Bài học thứ nhất là của nhà vận động cho quyền bình đẳng chủng tộc và cũng là nhà lãnh đạo có một không hai của xứ Nam Phi, ông Nelson Mandela. Ông Nelson Mandela vì tham gia vào cuộc vận động cho quyền bình đẳng chủng tộc tại Nam Phi mà đã bị bắt bỏ tù suốt 28 năm (từ năm 1962 đến 1990), từ khi ông còn trung niên ở tuổi 40 đến khi ra tù thì tóc đã bạc màu ở tuổi thất tuần. Vậy mà ông vẫn giữ được tấm lòng trung hậu không những đối với đất nước, dân tộc mà còn đối với những kẻ đã từng đàn áp ông nữa. Khi công cuộc vận động cho quyền bình đẳng chủng tộc thành công, ông Nelson Mandela đã được bầu, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên, làm Tổng Thống nước Nam Phi vào năm 1994. Sau đó, ở ngôi vị là một Tổng Thống, ông Nelson Mandela đã cùng với Tổng Giám Mục Desmond Tutu thành lập Uỷ Ban Sự Thật Và Hòa Giải (Truth and Reconcilliation Commission) để đưa ra ánh sáng tất cả những vi phạm nhân quyền trong thời kỳ chế độ kỳ thị chủng tộc trước đó. Nhưng không phải đưa ra để kết án và trả thù mà để hóa giải mọi oan khiên cho dân tộc, để cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước. Ông Nelson Mandela đã từng đến viếng, tưởng niệm và cầu nguyện tại ngôi mộ của người mà ngày xưa đã bắt bỏ tù ông. Nhờ tấm lòng trung hậu của ông Nelson Mandela mà đất nước Nam Phi đã có thể vượt qua được mọi khó khăn để vươn mình lên cùng với thế giới văn minh và tiến bộ của loài người.

Những nhà lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt Nam hiện nay cần suy nghiệm về bài học quý giá của ông Nelson Mandela để sớm có được những chính sách quang minh chính đại cho việc trị quốc an dân. Đừng nghĩ rằng việc mở cửa đón nhận tự do, dân chủ, tôn trọng quyền sống và quyền làm người của người dân, hoặc lắng nghe và thực hành những ý kiến xây dựng từ mọi thành phần dân tộc là một hành động hèn yếu, thua cuộc, bất lực hay thoái bộ. Không, không một người công dân Việt Nam nào nghĩ như vậy! Việc làm ấy là việc làm của những ai có bản lãnh tự thắng mình, của những người thật sự biết hy sinh quyền lợi cá nhân, đảng phái, chủ nghĩa cho quyền lợi tối thượng của dân tộc, của đất nước. Việc làm ấy tự nó là một cống hiến đầy ý nghĩa và giá trị vô ngần mà chỉ những nhà lãnh đạo chân chính mới có thể làm được. Cầu mong hồn thiêng sông núi Việt Nam còn có những nhà lãnh đạo như thế để cho dân tộc được nhờ!

Bài học thứ hai là của đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14, vị lãnh đạo quốc gia lưu vong và Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã rời bỏ quê hương Tây Tạng của ngài vào năm 1959 đến nay vì bị đảng và chính quyền Trung Quốc xâm chiếm đất nước Tây Tạng. Suốt trên 50 năm qua, ngài không ngừng đi khắp thế giới để vận đông cho nền độc lập rồi sau này là tự trị của Tây Tạng, cũng như để truyền bá Phật Pháp cho nhân loại. Từ đó đến nay, ngài luôn luôn sống và hoạt động trong tinh thần từ bi bất bạo động của Phật Giáo. Trong những cuốn sách, bài thuyết giảng, bài tham luận, hay trong ngôn từ lúc tiếp xử với những nhà lãnh đạo, những chính khách, những nhà ngoại giao, ngài không bao giờ sử dụng từ ngữ mang ý tưởng thù hận đối với chính quyền Trung Quốc. Ngài thường gọi những người lãnh đạo trong chính quyền Trung Quốc là “những người anh em”. Nhìn vào hình ảnh và từ tâm của ngài, nhân loại không khỏi nghĩ đến một đạo Phật từ bi, hòa bình, nhân bản, giải thoát và trí tuệ. Đó chính là một trong những cách giáo hóa Phật Pháp vi diệu nhất mà ngài đã mang lại cho thế giới chúng ta. Dù trong đời ngài, có thể mục đích vận động cho nền tự trị của Tây Tạng sẽ không thành tựu, nhưng thay vào đó ngài đã thành tựu được sứ mệnh lớn lao của một sứ gỉa của đức Như Lai: sứ mệnh hoằng dương Chánh pháp để lợi lạc quần sinh.


* * *
 

Thành tâm cầu nguyện những bậc cao Tăng lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam vận dụng hùng lực siêu quần của trí tuệ và từ bi để dẫn đạo con đường đi tới cho Tăng, Ni và Phật tử Việt Nam hướng đến mục tiêu cao xa và rộng lớn cho cả dân tộc và nền Phật Giáo Việt Nam hiện tại và mai hậu.

Viết để khể thủ thâm tạ công ơn giáo hóa sâu dày của đức Phật và cái nôi Phật Giáo Việt Nam đã dày công dưỡng dục cho một Phật tử bé nhỏ là người viết.

 

Trần Đại Linh
(Theo Đàm thoại Phật giáo)

 

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.