.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Hãy tự thắp đuốc mà đi ! (Siddhatta)

  VẤN ĐỀ GIÁO HỘI THỐNG NHỨT 10/2007


Nội gián trong Viện Hóa Đạo GHPGVNTN

  • PSN - 17.10.2008 | Thích Viên Giáo

Thông tin và Phát ngôn dối trá của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN

Cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) có tên gọi là Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (International Buddhist Information Bureau - viết tắt tiếng Việt là PTTPGQT), đặt tại Paris, mượn đường của website Quê Mẹ - Action for Democracy in Vietnam, để truyền tải tin tức (www.queme.net/ubcv.ibib). Nghĩa là nó sống và chết theo website Quê Mẹ của ông Võ Văn Ái (VVA).

Tin tức của GHPGVNTN khởi đăng từ website Quê Mẹ vào năm 2003, với 2 mục tin, còn PTTPGQT (ăn nhờ ở đậu) thì khởi đăng từ năm 2004. Ít có người vào thăm PTTPGQT, bởi vì những gì trang này đăng tải đều có ở trang “mẹ” của nó là Quê Mẹ. Nói cách khác, cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN hít thở bằng cái mũi của Quê Mẹ, tức của ông VVA. Ông này muốn dựng chuyện, chửi bới, công kích, mạ lỵ ai theo vận hành thất tình lục dục của ông, thì cơ quan phát ngôn VHĐ làm theo y hệt.

Những năm qua, “mẹ con” Quê Mẹ và PTTPGQT đã gây biết báo sóng gió, phân ly trong GHPGVNTN trong nước và hải ngoại, đến nỗi hôm nay, hầu hết các thành viên của giáo hội này không còn muốn nhìn nhận nó nữa. Nhưng nó vẫn hiện hữu và đưa lý do tồn tại của nó là “đã được Viện Hóa Đạo ủy nhiệm làm phát ngôn nhân”. Không ai thấy văn kiện “ủy nhiệm” này mặt mũi ra sao, có ấn ký của Hội đồng Lưỡng viện hay không, được ký vào ngày tháng năm nào, và nhiệm kỳ của phát ngôn nhân này là mấy năm, hay là vĩnh viễn. Tôi nghĩ là quý vị lãnh đạo giáo hội trong và ngoài nước, dù bênh vực hoặc không tán đồng cương vị phát ngôn nhân của ông VVA, cũng nên làm sáng tỏ về việc “ủy nhiệm” này trước công luận. Bởi vì sẽ thật là phi lý khi các chức vụ lãnh đạo giáo hội trong và ngoài nước, từ Viện trưởng VHĐ xuống đến các Tổng vụ trưởng, Chánh đại diện Miền, Tỉnh... đều theo nhiệm kỳ mà lên xuống, không lẽ một người thế tục mới gia nhập giáo hội từ hơn 10 năm nay tại hải ngoại lại được ủy nhiệm làm phát ngôn nhân “trọn đời” giống như Tăng thống và Phó Tăng thống hay sao!

Bây giờ hãy đi vào vấn đề ông VVA cài tình báo vào VHĐ GHPGVNTN.

Ngày 09.10.2008, PTTPGQT đưa tin về Khóa tu học Cư sĩ do Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (VPII VHĐ) tổ chức ngày 18 và 19.10.2008 tại Chùa Điều Ngự, Westminster, California, tiếp đến là  bài viết ghi âm ông VVA nói về bản “Tuyên Bố Chung” trên Đài phát thanh Phật giáo (cũng do ông chủ trương), sau cùng là bài viết của một người ký tên “Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức”, tựa đề “Mưu đồ của Thầy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN”. Ông VVA “tự biên tự diễn” trên “đài phát thanh” để chạy tội và công kích bốn giáo hội PGVNTN hải ngoại thì có liên quan với bài viết của Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức; còn việc VPII VHĐ tổ chức Khóa tu học cho giới Cư sĩ tại Chùa Điều Ngự không biết có liên quan thế nào mà đăng chung trong một Thông cáo báo chí. Phải chăng muốn Khóa tu học được Phật tử tham dự đông đảo thì cần phải công kích, chụp mũ chư tôn đức Tăng Ni có uy tín tại quận Cam (nơi VPII VHĐ mới tạo mãi Chùa Điều Ngự)? Nhưng thôi, đó cũng chỉ là kỹ thuật để vận động người theo ứng xử lâu nay của VPII VHĐ, không cần bàn nhiều ở đây. Hãy đi vào bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức với lời dẫn nhập của ông VVA.

Lời dẫn nhập của ông VVA được bắt đầu với tựa đề “Mưu đồ của Thượng tọa Tuệ Sỹ là đầu mối ly khai của một số Tăng sĩ ở hải ngoại hiện nay”. Tựa đề đã là một lối vu khống quen thuộc của ông VVA để chạy tội và hướng dẫn dư luận nhìn về hướng khác. “Một số Tăng sĩ ở hải ngoại” mà ông VVA nói ở đây không phải là thiểu số dưới mười người như của toàn thể thành viên VPII VHĐ, mà là đại đa số Tăng sĩ thuộc bốn giáo hội PGVNTN gồm 104 vị ký tên vào bản Tuyên Bố Chung ngày 09.9.2008. Đi vào nội dung của lời dẫn nhập, ông VVA đã cố tình dối trá, ngụy biện và hỗn láo với chư Tăng qua các điểm sau đây:

a) Ông VVA nói “Do Thượng tọa Tuệ Sỹ có những hành động chống phá đường hướng cố hữu của GHPGVNTN, và do Thượng tọa viết đơn xin từ chức, nên tên Thượng tọa không còn trong thành phần nhân sự của Giáo hội trong Giáo chỉ số 2.” Những hành động chống phá đường hướng cố hữu của GHPGVNTN là hành động nào, có bằng chứng gì không? Nếu thực sự có những hành động chống phá, Hội đồng Lưỡng viện có triệu tập Đại hội để đưa ra Hội đồng Giám luật xét xử theo Hiến chương không hay chỉ do HT. Viện trưởng VHĐ tự ý quyết định loại bỏ TT. Thích Tuệ Sỹ qua Giáo chỉ số 2 vi hiến?

b) Ông VVA nói “Nan đề của nhóm người tranh chấp nói trên được Hòa thượng Minh Tâm nêu ra trong buổi họp của GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ ở chùa Diệu Pháp ngày 16.3.2006 là: “Tại sao Giáo chỉ số 2 ban hành mà không hỏi ý kiến họ?” Nói theo ngôn ngữ ngoài đời cho dễ hiểu, chẳng khác chi câu hỏi của một vị Tỉnh trưởng nói rằng: “Thông điệp của Tổng thống sao không hỏi ý kiến tôi trước khi phổ biến?!” Nói vậy là ngụy biện một cách trơ trẽn và kém thông minh để dối gạt những ai không nắm vững nội tình và qui chế sinh hoạt của giáo hội. Xin thưa, từ Đại hội Bất thường tổ chức tại Tu viện Nguyên Thiều ngày 01.10.2003, Hội đồng Lưỡng viện đã cung thỉnh 14 vị trong nước và 11 vị ngoài nước vào Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống, mà trong 11 vị ngoài nước, đã có 9 vị là không được hội ý trước khi ban hành Giáo chỉ số 2 (ký ngày 29.11.2005). 9 vị này gồm có HT. Thích Tâm Châu (Canada), HT. Thích Mãn Giác (Hoa Kỳ), HT. Thích Huyền Vi (Pháp), HT. Thích Thuyền Ấn (Hoa Kỳ), HT. Thích Minh Tâm (Pháp), HT. Thích Như Huệ (Úc), HT. Thích Thắng Hoan (Hoa Kỳ), HT. Thích Trí Chơn (Hoa Kỳ), HT. Thích Chơn Thành (Hoa Kỳ). Theo Hiến chương GHPGVNTN thì các vị trưởng lão trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương được Viện Tăng Thống thỉnh mời với nhiệm kỳ “vô hạn định” và chỉ “có thể bị giải nhiệm do quyết nghị của Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và được Đức Tăng thống phê chuẩn” (Hiến chương, chương 4, mục Thành phần HĐGP Trung Ương, điều thứ 13). 9 vị trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống không thể ví dụ một cách hỗn láo như ông VVA là “Tỉnh trưởng” đi hỏi Tổng thống. 9 vị này (chưa kể chư vị trong nước) không được hỏi ý kiến trước thì Giáo chỉ số 2 đã hoàn toàn phi pháp, bất hợp lệ, trái Hiến chương. Vì trách nhiệm và quyền hạn của HĐGPTƯ được qui định trong Hiến chương như sau: 1) Trình Đức Tăng thống phê chuẩn và ban hành Hiến Chương GHPGVNTN; 2) Trình Đức Tăng thống tấn phong ban Chỉ đạo viện Hóa Đạo; 3) Điều hành văn phòng viện Tăng thống; 4) Phối hợp các Hội đồng Giám luật, Nghi lễ và phiên dịch Tam tạng; 5) Quy lập danh sách Giáo phẩm Tăng, Ni.” (Hiến chương, chương 4, mục Nhiệm vụ và Quyền hạn HĐGPTƯ). Cũng xin nói thêm, chư vị Hòa thượng ngoài nước được cung thỉnh vào HĐGPTƯ GHPGVNTN từ Đại hội bất thường năm 2003 vẫn tại vị cho đến Giáo chỉ số 2, năm 2005; chỉ đến Giáo chỉ số 10, ngày 02.12.2007, các vị này mới không còn trong danh sách HĐGPTƯ một cách vi hiến, trái qui chế sinh hoạt của giáo hội. Điều này có nghĩa là cả giáo chỉ số 2, 9 và 10 đều sai nguyên tắc, sai Hiến chương, vì không có sự hiệp ý với chư vị thành viên HĐGPTƯ trong và ngoài nước trước khi quyết định. Ông VVA và VHĐ cũng đừng giả vờ quên rằng, theo Hiến Chương, chương thứ Tư, Hệ thống Tổ chức, mục Viện Hóa Đạo, điều thứ 18, các thành viên giữ những chức vụ thuộc Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo thì “do Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương đề cử, Đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bầu cử, và Đức Tăng Thống tấn phong”. Cũng trong chương mục về Hệ thống tổ chức, “một trong các chức vị thuộc Viện Hóa Đạo (bao gồm Viện trưởng, các Phó viện trưởng và các Tổng vụ trưởng) có thể bị giải nhiệm” và sẽ “do Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trình Hội Đồng Giám Luật xét, và trình Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương biểu quyết, Đức Tăng Thống duyệt y” (Điều thứ 28).

c) Ông VVA nói “Bởi vậy bài viết ‘Mưu đồ của Thẩy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN’ đăng tải dưới đây cho thấy bàn tay và sợi dây từ trong nước đang giật liên hồi ra hải ngoại như một màn Múa Rối Nước:” Gọi các sinh hoạt và tổ chức của Tăng Ni không đồng quan điểm với mình là “màn múa rối nước” là cách nói vô phép, hỗn xược của một phật-tử tại gia. Nhưng ở đây, điều muốn nói là ông VVA đã xem bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức như là dữ liệu chính thức và đúng đắn để chứng minh, kết tội Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và chư tôn đức Tăng Ni khác không nằm trong tổ chức VPII VHĐ.
 

Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức là ai?

Không ai biết người xưng “Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức” là ai, ngoại trừ ông VVA. Đây chỉ là một người vô danh, dù có tên, vì không có chức vụ hay trách nhiệm chính thức trong GHPGVNTN. Giả như có là thành viên của Ban đại diện huyện, tỉnh hay miền nào của giáo hội được cấp tốc nhận vào trước hay sau khi đăng bài viết ấy, cũng không có tư cách để bàn nói chuyện của Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo, tức thường vụ trung ương điều hành giáo hội. Nếu những bài viết dựng chuyện theo lối “tiểu thuyết ba xu” của một kẻ hành tung mờ ám Lê Nguyễn Minh Đức (LNMĐ) đều được VPII VHĐ trích dẫn, đem ra làm bằng chứng để luận tội và kết tội chư tôn đức Tăng Ni cũng như cư sĩ trong giáo hội, thử hỏi VPII VHĐ và phát ngôn nhân của giáo hội này là thứ tập đoàn tổ chức nào? Có phải là một tổ chức độc tài, khủng bố, mafia không kể gì Hiến chương hay qui chế giáo hội chăng? Tại sao chuyện nội bộ của trung ương giáo hội lại được một người phật-tử bình thường ngoài giáo hội biết hết, từ những đối thoại của HT. Viện trưởng ở Sài Gòn cho đến quí ngài ở Huế, từ Viện Tăng Thống đến Viện Hóa Đạo, từ trong nước ra hải ngoại? Nếu ông VVA và VPII VHĐ không minh danh xác thực được con người LNMĐ trước Hội đồng Lưỡng viện cũng như công luận, thì LNMĐ chính là nội gián, là tình báo từ thế lực bên ngoài cài vào GHPGVNTN thông qua ông VVA. Ông LNMĐ có quyền dựng chuyện, nói vơ vào, chụp mũ Thầy Tuệ Sỹ và chư tôn đức Tăng Ni ở tờ báo hay websites nào bên ngoài là quyền của ông, nhưng cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là PTTPGQT công khai đăng bài của LNMĐ có nghĩa là đã công nhận nội dung của nó là xác thực, đã được giáo hội “duyệt y” để phổ biến như là tiếng nói chính thức. Điều này, không phải chỉ riêng phát ngôn nhân VVA mà cả hai văn phòng của Viện Hóa Đạo trong và ngoài nước đều liên đới trách nhiệm về sự vô lương tâm, báng bổ Tăng bảo và tính cách phá hoại của bài viết ấy. Còn nếu nói rằng tên LNMĐ là bí danh của một thành viên Ban Chỉ Đạo VHĐ hoặc Viện Tăng Thống thì lại càng không thể chấp nhận, vì một trong ba lý do sau: 1) những điều viết ra chỉ là vu khoát, dối trá không thực, không có bằng chứng, nên không thể để tên thật; 2) những điều viết ra không phải là chủ trương của Viện Hóa Đạo, và chưa được thông qua ý kiến của Hội đồng Lưỡng viện; 3) người viết muốn được tiếp tục “ẩn tích” để làm nội gián cho ông VVA trong lòng VHĐ trong nước.

Trong cả hai trường hợp, là thành viên ẩn danh hoặc chỉ là người vô danh không phải thành viên Viện Hóa Đạo, LNMĐ và bài viết hoàn toàn không có một giá trị gì đối với giáo hội. Ông VVA biết vậy, nhưng vẫn cố tình sử dụng phương thức tiểu nhân và thiếu chuyên nghiệp trong truyền thông để gán tội cho kẻ khác, chữa tội cho mình và đồng lõa.

Chính vì tư cách và bài viết của LNMĐ là vô giá trị, ở đây không cần phải phân tích về nội dung sai lầm và ngôn ngữ vu khống lố bịch của người này làm gì. Chỉ xin nêu ra mấy vấn đề liên hệ đã được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi hội thảo và thông cáo báo chí của VPII VHĐ, hỏi ông VVA và VPII VHĐ có dám công khai trả lời trước dư luận hay không:

1. Ngày 17.8.2008, Viện Hóa Đạo trong nước ủy nhiệm VPII VHĐ công bố chúc thư và giáo chỉ của Đức Tăng Thống tại Chùa Pháp Luân, nhưng VPII VHĐ đã ra thông tư vào ngày 23.7.2008, cho biết là đã được sự ủy nhiệm này rồi. Điều này có nghĩa như thế nào? Phải chăng là sự láo khoét và đồng lõa cho sự láo khoét này của cả hai văn phòng VHĐ?

2. Có thực là HT. Viện trưởng đề bạt TT. Tuệ Sỹ vào Giáo hội và bị cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang bác, hay là ngược lại: chính HT. Viện trưởng đã bác ý kiến của cố Đại lão HT Thích Huyền Quang, không cho TT. Tuệ Sỹ vào Ban Chỉ Đạo VHĐ trong Đại hội Bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều tháng 10.2003? Có phải là đa số thành viên tham dự Đại hội Bất thường này đã thỉnh nguyện HT. Viện trưởng nên thuận ý cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang để công cử TT. Tuệ Sỹ vào chức vụ Phó Viện trưởng VHĐ và HT. Viện trưởng đã miễn cưỡng chấp thuận hay không?

3. Sau “sự biến Lương Sơn”, HT. Viện trưởng im lặng và giao khoán công việc cho TT. Phó viện trưởng, từ đó mới có quyết định bổ nhiệm Htr. Nguyễn Châu làm Vụ trưởng Vụ GĐPT với sự đồng thuận thông qua của Ban Chỉ Đạo VHĐ. Đây không phải là quyết định của cá nhân TT. Phó viện trưởng, HT. Viện trưởng có thực sự là không am hiểu hành chánh hay không khi trách TT. Phó viện trưởng không “thừa ủy nhiệm Viện trưởng” mà lại “thừa ủy nhiệm Ban Chỉ Đạo VHĐ”? Không lẽ ngài Viện trưởng không biết là Ban Chỉ Đạo VHĐ bao gồm luôn cả Viện trưởng hay sao? Ngài đóng cửa không sinh hoạt, giao khoán phật-sự cho Ban Chỉ Đạo, trực tiếp là TT. Phó viện trưởng, vậy ngài còn muốn cái danh gì được gắn nơi những quyết định thì mới thỏa mãn? Ban Chỉ Đạo VHĐ đồng chịu trách nhiệm trong quyết định đó, không lẽ HT. Viện trưởng không biết? Nếu TT. Phó viện trưởng “thừa ủy nhiệm Viện trưởng” để ký quyết định đó, sau này HT. Viện trưởng nói ngược là không đồng ý thì tính thế nào? Vậy “thừa ủy nhiệm Ban Chỉ Đạo” với sự đồng thuận của nhiều thành viên khác chẳng phải là hợp nguyên tắc hay sao!

4. Có thực sự là HT. Viện trưởng cũng như Văn Phòng Viện Hóa Đạo I và II không hay biết gì về tổ chức GĐPTVN Trên Thế Giới hay không? Vậy quí ngài giải thích thế nào về việc tham dự chứng minh của TT. Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký VPII VHĐ và TT. Thích Nguyên Siêu, Tổng vụ trưởng Văn Hóa GHPGVNTNHN-HK trong đại hội thành lập GĐPTVN Trên Thế Giới tại Ấn Độ ngày 07, 08 và 09.11.2004? Và giải thích thế nào về Thông cáo Báo chí ngày 10.11.2004 của PTTPGQT, cơ quan phát ngôn của Viện Hóa Đạo, qua đó, ca ngợi tinh thần dũng mãnh và đoàn kết của tổ chức GĐPTVN, cũng như đăng tải hai Quyết Nghị của Đại hội này?

5. Có thư mời họp Hội đồng Lưỡng viện nhằm chấn chỉnh nhân sự và giải quyết những phật-sự quan trọng của giáo hội không hay chỉ là lời mời dự Giỗ Tổ Nguyên Thiều vào giữa năm 2005, tiến đến việc ban hành Giáo chỉ số 2 (29.11.2005)? TT. Tuệ Sỹ nhập thất, có quyền từ chối dự Giỗ Tổ hàng năm không? Và có nên từ chối đi dự tang lễ trong đời chỉ xảy ra một lần của Sư Bà Tâm Đăng, người ân của Thượng tọa hay không?

6. Thượng Tọa Tuệ Sỹ có thực sự viết thư từ chức hay không? Nội dung thư này ra sao, viết vào ngày tháng nào, gửi cho ai, gửi bằng bưu điện hay bằng email? Thư viết tay hay thư dùng máy vi tính? Có đóng dấu và chữ ký hay không? Nếu ông VVA không có cái gọi là “thư từ chức” này thì hãy thỉnh cầu HT. Viện trưởng cho công bố, chứ đừng có vu khống cho một người vì thể diện của giáo hội mà im lặng, nhập thất để phiên dịch Đại Tạng Kinh từ mấy năm nay.

7. Phản ứng đối với Giáo chỉ số 2 bất công, vi hiến, trái giáo luật, quá bán thành viên Ban Chỉ Đạo VHĐ tỏ thái độ bằng cách viết thư đệ trình HT. Viện trưởng, qua đó nói rõ nguyên nhân nào dẫn đến việc từ chức, đồng thời đề nghị những ý kiến thành thực để củng cố giáo hội. Đáp lại phản ứng của những vị này, HT. Viện trưởng mau mắn chấp thuận các thư từ chức, lẹ làng đưa vào danh sách mới do ông VVA đề nghị. Xin hỏi đây có phải là ứng xử thích hợp của lãnh đạo không? Và ai là người gây khó khăn, trở ngại cho giáo hội? Những vị từ chức đang là nhân chứng sống, gồm có TT. Thích Đức Thắng (Tổng Thư Ký VHĐ), TT. Thích Thái Hòa (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp), TT. Thích Thanh Huyền (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên), TT. Thích Phước An (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn Hóa), TT. Thích Phước Viên (Tổng vụ trưởng Tổng vụ Giáo Dục), xin hỏi VPI và VPII VHĐ có đủ công minh và can đảm công bố các bức thư từ chức của những vị này để công luận hiểu được nguyên do thay vì chụp mũ, luận tội rồi loại trừ họ một cách độc tài và trái Hiến chương, Qui chế? Có dám tổ chức Đại hội Bất thường có sự tham dự đông đủ các thành viên Hội đồng Lưỡng viện (kể theo danh sách nhân sự của Đại hội Bất thường ngày 01.10.2003) để xét xử những vị bị kết tội phản bội giáo hội hay không?

8. Cùng một cách, đối với chư tôn đức Tăng Ni và cư sĩ thành viên các giáo hội PGVNTN hải ngoại mà VHĐ I và II cho là “thỏa hiệp với cộng sản”, “âm mưu lật đổ nhị vị hòa thượng lãnh đạo”, “âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN”... có bằng chứng khả tín nào không? Hội đồng Lưỡng viện có dám tổ chức Đại hội Bất thường để luận tội và cho những vị bị loại trừ cơ hội để biện hộ hay không?

Tóm lại, dù dày mặt không biết hổ thẹn để tránh né trả lời các vấn nạn nêu trên trong hiện tại, sự thực vẫn còn ở đây qua những nhân chứng sống của giáo hội trong và ngoài nước. Lịch sử tất nhiên sẽ không thiếu sót khi ghi lại các nguyên do và động lực dẫn đến sự suy yếu và khủng hoảng của giáo hội trong giai đoạn này. Các văn kiện, sử liệu và nguồn nhân chứng sống sẽ viết nên trang sử trung thực của cơn pháp nạn hiện tại; không có một thứ ngụy biện, gian trá nào có thể thoát khỏi cái nhìn khách quan của lịch sử; không có thứ tiểu thuyết dựng chuyện nào lại có thể được dùng làm bằng chứng dẫn đến những nhận định và kết luận đúng đắn cho thực tại lịch sử.

Trong khi chờ đợi sự trả lời minh bạch của VPI và VPII VHĐ về nhân vật Lê Nguyễn Minh Đức và xuất xứ các nguồn tin thất thiệt, vu khống do PTTPGQT đưa ra nhằm công kích, mạ lỵ chư tôn đức Tăng Ni trong hoặc ngoài giáo hội, chúng tôi tạm thời ghi nhận rằng chính ông VVA đã cài nội gián vào Viện Hóa Đạo cũng như đã lạm dụng danh nghĩa phát ngôn nhân để lũng đoạn, phá nát GHPGVNTN. Chúng tôi cũng tạm thời cho rằng VPI và VPII VHĐ đã đồng thuận với những gì ông VVA phổ biến trên PTTPGQT và Quê Mẹ, cũng như hiệp ý với TT. Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký VPII VHĐ để đăng các loạt bài công kích mạ lỵ Tăng Ni trên website Chùa Diệu Pháp, đặc biệt là bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức, một phật-tử không có chức danh và trách nhiệm gì của GHPGVNTN, trong và ngoài nước.


14.10.2008
Thích Viên Giáo

Không tự nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống (Đức Phật Thích Ca)

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHỨT

Ngày 31 tháng XII năm 1963. TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM và mười (10) Giáo phái, hội đoàn (gồm các đại biểu Tăng sĩ và Cư sĩ thuộc Bắc tông, Nam Tông) đã khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi.

Đại biểu đại hội trong 5 ngày thảo luận và đã đi đến quyết định Thống nhất ĐẠO PHẬT VIỆT NAM thành một khối đoàn kết duy nhất, với danh xưng: GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT và một bản Hiến Chương gồm hai viện Tăng Thống và Hoà Đạo được công bố ngày 4-1-1964.

Đại hội suy tôn Trưởng lão hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm tăng thống và đề cử hòa thượng Trí Quang giữ chức chánh thư ký viện Tăng Thống, hòa thượng Thích Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo.

Ngày 12-1-1964, đại biểu đại hội bầu các tổng vụ trưởng, vụ trưởng của các tổng vụ, như: tổng vụ Tăng Sự, Hoằng Pháp, Văn Hóa, Giáo Dục, Cư Sĩ, Xã Hội, Thanh Niên, Tài Chính, Kiến Thiết v.v… theo như bản Hiến Chương của giáo hội đã qui định.

Dưới đây bản HIẾN CHƯƠNG đã tu chính lần thứ II bởi đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất khóa V, ngày 12 tháng 12 năm 1973 – Phật lịch năm 2517. 

HIẾN CHƯƠNG 
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

LỜI  MỞ  ĐẦU 
 
Công bố Lý tưởng Hòa bình của giáo lý Đức Phật, các tông phái Phật giáo, Bắc tông và Nam tông tại Việt Nam, thực hiện nguyện vọng thống nhất thực sự đã hoài bão từ lâu để phục vụ nhân loại và dân tộc: đó là lập trường thuần nhất của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không đặc sự tồn tại nơi nguyên vị cá biệt mà đặt sự tồn tại ấy trong sự tồn tại của nhân loại và dân tộc. 

Quan niệm thống nhất Phật Giáo Việt Nam được thể hiện theo chủ trương điều hợp, nghĩa là giáo lý, giới luật và nếp sống của các tông phái, cũng như của hai giới Tăng sĩ và Cư sĩ, chẳng những được tôn trọng mà còn phải nỗ lực phát triển trong sự kết hợp của chỉ đạo. Chính đó là sắc thái đặc biệt của nền Phật giáo thống nhất tại Việt Nam. 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.