Nội gián trong Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
-
PSN - 17.10.2008 | Thích Viên Giáo
Thông
tin và Phát ngôn dối trá của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN
Cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) có tên gọi là Phòng Thông
Tin Phật Giáo Quốc Tế (International Buddhist Information Bureau
- viết tắt tiếng Việt là PTTPGQT), đặt tại Paris, mượn đường của
website Quê Mẹ - Action for Democracy in Vietnam, để truyền tải
tin tức (www.queme.net/ubcv.ibib).
Nghĩa là nó sống và chết theo website Quê Mẹ của ông Võ Văn Ái
(VVA).
Tin tức của GHPGVNTN khởi đăng từ website Quê Mẹ vào năm 2003,
với 2 mục tin, còn PTTPGQT (ăn nhờ ở đậu) thì khởi đăng từ năm
2004. Ít có người vào thăm PTTPGQT, bởi vì những gì trang này
đăng tải đều có ở trang “mẹ” của nó là Quê Mẹ. Nói cách khác, cơ
quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN hít thở
bằng cái mũi của Quê Mẹ, tức của ông VVA. Ông này muốn dựng
chuyện, chửi bới, công kích, mạ lỵ ai theo vận hành thất tình
lục dục của ông, thì cơ quan phát ngôn VHĐ làm theo y hệt.
Những năm qua, “mẹ con” Quê Mẹ và PTTPGQT đã gây biết báo sóng
gió, phân ly trong GHPGVNTN trong nước và hải ngoại, đến nỗi hôm
nay, hầu hết các thành viên của giáo hội này không còn muốn nhìn
nhận nó nữa. Nhưng nó vẫn hiện hữu và đưa lý do tồn tại của nó
là “đã được Viện Hóa Đạo ủy nhiệm làm phát ngôn nhân”. Không ai
thấy văn kiện “ủy nhiệm” này mặt mũi ra sao, có ấn ký của Hội
đồng Lưỡng viện hay không, được ký vào ngày tháng năm nào, và
nhiệm kỳ của phát ngôn nhân này là mấy năm, hay là vĩnh viễn.
Tôi nghĩ là quý vị lãnh đạo giáo hội trong và ngoài nước, dù
bênh vực hoặc không tán đồng cương vị phát ngôn nhân của ông
VVA, cũng nên làm sáng tỏ về việc “ủy nhiệm” này trước công
luận. Bởi vì sẽ thật là phi lý khi các chức vụ lãnh đạo giáo hội
trong và ngoài nước, từ Viện trưởng VHĐ xuống đến các Tổng vụ
trưởng, Chánh đại diện Miền, Tỉnh... đều theo nhiệm kỳ mà lên
xuống, không lẽ một người thế tục mới gia nhập giáo hội từ hơn
10 năm nay tại hải ngoại lại được ủy nhiệm làm phát ngôn nhân
“trọn đời” giống như Tăng thống và Phó Tăng thống hay sao!
Bây giờ hãy đi vào vấn đề ông VVA cài tình báo vào VHĐ GHPGVNTN.
Ngày 09.10.2008, PTTPGQT đưa tin về Khóa tu học Cư sĩ do Văn
Phòng II Viện Hóa Đạo (VPII VHĐ) tổ chức ngày 18 và 19.10.2008
tại Chùa Điều Ngự, Westminster, California, tiếp đến là bài
viết ghi âm ông VVA nói về bản “Tuyên Bố Chung” trên Đài phát
thanh Phật giáo (cũng do ông chủ trương), sau cùng là bài viết
của một người ký tên “Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức”, tựa đề
“Mưu đồ của Thầy Tuệ Sỹ với GHPGVNTN”. Ông VVA “tự biên tự
diễn” trên “đài phát thanh” để chạy tội và công kích bốn giáo
hội PGVNTN hải ngoại thì có liên quan với bài viết của Phật tử
Lê Nguyễn Minh Đức; còn việc VPII VHĐ tổ chức Khóa tu học cho
giới Cư sĩ tại Chùa Điều Ngự không biết có liên quan thế nào mà
đăng chung trong một Thông cáo báo chí. Phải chăng muốn Khóa tu
học được Phật tử tham dự đông đảo thì cần phải công kích, chụp
mũ chư tôn đức Tăng Ni có uy tín tại quận Cam (nơi VPII VHĐ mới
tạo mãi Chùa Điều Ngự)? Nhưng thôi, đó cũng chỉ là kỹ thuật để
vận động người theo ứng xử lâu nay của VPII VHĐ, không cần bàn
nhiều ở đây. Hãy đi vào bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức với lời
dẫn nhập của ông VVA.
Lời dẫn nhập của ông VVA được bắt đầu với tựa đề “Mưu đồ của
Thượng tọa Tuệ Sỹ là đầu mối ly khai của một số Tăng sĩ ở hải
ngoại hiện nay”. Tựa đề đã là một lối vu khống quen thuộc
của ông VVA để chạy tội và hướng dẫn dư luận nhìn về hướng khác.
“Một số Tăng sĩ ở hải ngoại” mà ông VVA nói ở đây không phải là
thiểu số dưới mười người như của toàn thể thành viên VPII VHĐ,
mà là đại đa số Tăng sĩ thuộc bốn giáo hội PGVNTN gồm 104 vị ký
tên vào bản Tuyên Bố Chung ngày 09.9.2008. Đi vào nội dung của
lời dẫn nhập, ông VVA đã cố tình dối trá, ngụy biện và hỗn láo
với chư Tăng qua các điểm sau đây:
a)
Ông
VVA nói “Do Thượng tọa Tuệ Sỹ có những hành động chống phá
đường hướng cố hữu của GHPGVNTN, và do Thượng tọa viết đơn xin
từ chức, nên tên Thượng tọa không còn trong thành phần nhân sự
của Giáo hội trong Giáo chỉ số 2.” Những hành động chống phá
đường hướng cố hữu của GHPGVNTN là hành động nào, có bằng chứng
gì không? Nếu thực sự có những hành động chống phá, Hội đồng
Lưỡng viện có triệu tập Đại hội để đưa ra Hội đồng Giám luật xét
xử theo Hiến chương không hay chỉ do HT. Viện trưởng VHĐ tự ý
quyết định loại bỏ TT. Thích Tuệ Sỹ qua Giáo chỉ số 2 vi hiến?
b)
Ông VVA nói “Nan đề của nhóm người tranh chấp nói trên được
Hòa thượng Minh Tâm nêu ra trong buổi họp của GHPGVNTN Hải ngoại
tại Hoa Kỳ ở chùa Diệu Pháp ngày 16.3.2006 là: “Tại sao Giáo chỉ
số 2 ban hành mà không hỏi ý kiến họ?” Nói theo ngôn ngữ ngoài
đời cho dễ hiểu, chẳng khác chi câu hỏi của một vị Tỉnh trưởng
nói rằng: “Thông điệp của Tổng thống sao không hỏi ý kiến tôi
trước khi phổ biến?!” Nói vậy là ngụy biện một cách trơ trẽn
và kém thông minh để dối gạt những ai không nắm vững nội tình và
qui chế sinh hoạt của giáo hội. Xin thưa, từ Đại hội Bất thường
tổ chức tại Tu viện Nguyên Thiều ngày 01.10.2003, Hội đồng Lưỡng
viện đã cung thỉnh 14 vị trong nước và 11 vị ngoài nước vào Hội
Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống, mà trong 11 vị ngoài
nước, đã có 9 vị là không được hội ý trước khi ban hành Giáo chỉ
số 2 (ký ngày 29.11.2005). 9 vị này gồm có HT. Thích Tâm Châu
(Canada), HT. Thích Mãn Giác (Hoa Kỳ), HT. Thích Huyền Vi
(Pháp), HT. Thích Thuyền Ấn (Hoa Kỳ), HT. Thích Minh Tâm (Pháp),
HT. Thích Như Huệ (Úc), HT. Thích Thắng Hoan (Hoa Kỳ), HT. Thích
Trí Chơn (Hoa Kỳ), HT. Thích Chơn Thành (Hoa Kỳ). Theo Hiến
chương GHPGVNTN thì các vị trưởng lão trong Hội Đồng Giáo Phẩm
Trung Ương được Viện Tăng Thống thỉnh mời với nhiệm kỳ “vô
hạn định” và chỉ “có thể bị giải nhiệm do quyết nghị của
Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và được Đức Tăng thống phê chuẩn”
(Hiến chương, chương 4, mục Thành phần HĐGP Trung Ương, điều thứ
13). 9 vị trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống
không thể ví dụ một cách hỗn láo như ông VVA là “Tỉnh trưởng” đi
hỏi Tổng thống. 9 vị này (chưa kể chư vị trong nước) không được
hỏi ý kiến trước thì Giáo chỉ số 2 đã hoàn toàn phi pháp, bất
hợp lệ, trái Hiến chương. Vì trách nhiệm và quyền hạn của HĐGPTƯ
được qui định trong Hiến chương như sau: “1)
Trình Đức Tăng thống phê chuẩn và ban hành Hiến Chương GHPGVNTN;
2) Trình Đức Tăng thống tấn phong ban Chỉ đạo viện Hóa Đạo; 3)
Điều hành văn phòng viện Tăng thống; 4) Phối hợp các Hội đồng
Giám luật, Nghi lễ và phiên dịch Tam tạng; 5) Quy lập danh sách
Giáo phẩm Tăng, Ni.” (Hiến chương, chương 4, mục Nhiệm vụ và
Quyền hạn HĐGPTƯ). Cũng xin nói thêm, chư vị Hòa thượng ngoài
nước được cung thỉnh vào HĐGPTƯ GHPGVNTN từ Đại hội bất thường
năm 2003 vẫn tại vị cho đến Giáo chỉ số 2, năm 2005; chỉ đến
Giáo chỉ số 10, ngày 02.12.2007, các vị này mới không còn trong
danh sách HĐGPTƯ một cách vi hiến, trái qui chế sinh hoạt của
giáo hội. Điều này có nghĩa là cả giáo chỉ số 2, 9 và 10 đều sai
nguyên tắc, sai Hiến chương, vì không có sự hiệp ý với chư vị
thành viên HĐGPTƯ trong và ngoài nước trước khi quyết định. Ông
VVA và VHĐ cũng đừng giả vờ quên rằng, theo Hiến Chương, chương
thứ Tư, Hệ thống Tổ chức, mục Viện Hóa Đạo, điều thứ 18, các
thành viên giữ những chức vụ thuộc Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo thì
“do Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương đề cử, Đại hội Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bầu cử, và Đức Tăng Thống tấn
phong”. Cũng trong chương mục về Hệ thống tổ chức, “một
trong các chức vị thuộc Viện Hóa Đạo (bao gồm Viện trưởng,
các Phó viện trưởng và các Tổng vụ trưởng) có thể bị giải
nhiệm” và sẽ “do Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trình Hội Đồng
Giám Luật xét, và trình Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương biểu
quyết, Đức Tăng Thống duyệt y” (Điều thứ 28).
c)
Ông
VVA nói “Bởi vậy bài viết ‘Mưu đồ của Thẩy Tuệ Sỹ với
GHPGVNTN’ đăng tải dưới đây cho thấy bàn tay và sợi dây từ trong
nước đang giật liên hồi ra hải ngoại như một màn Múa Rối Nước:”
Gọi các sinh hoạt và tổ chức của Tăng Ni không đồng quan điểm
với mình là “màn múa rối nước” là cách nói vô phép, hỗn xược của
một phật-tử tại gia. Nhưng ở đây, điều muốn nói là ông VVA đã
xem bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức như là dữ liệu chính thức và
đúng đắn để chứng minh, kết tội Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ và chư
tôn đức Tăng Ni khác không nằm trong tổ chức VPII VHĐ.
Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức là ai?
Không ai biết người xưng “Phật tử Lê Nguyễn Minh Đức” là ai,
ngoại trừ ông VVA. Đây chỉ là một người vô danh, dù có tên, vì
không có chức vụ hay trách nhiệm chính thức trong GHPGVNTN. Giả
như có là thành viên của Ban đại diện huyện, tỉnh hay miền nào
của giáo hội được cấp tốc nhận vào trước hay sau khi đăng bài
viết ấy, cũng không có tư cách để bàn nói chuyện của Ban Chỉ Đạo
Viện Hóa Đạo, tức thường vụ trung ương điều hành giáo hội. Nếu
những bài viết dựng chuyện theo lối “tiểu thuyết ba xu” của một
kẻ hành tung mờ ám Lê Nguyễn Minh Đức (LNMĐ) đều được VPII VHĐ
trích dẫn, đem ra làm bằng chứng để luận tội và kết tội chư tôn
đức Tăng Ni cũng như cư sĩ trong giáo hội, thử hỏi VPII VHĐ và
phát ngôn nhân của giáo hội này là thứ tập đoàn tổ chức nào? Có
phải là một tổ chức độc tài, khủng bố, mafia không kể gì Hiến
chương hay qui chế giáo hội chăng? Tại sao chuyện nội bộ của
trung ương giáo hội lại được một người phật-tử bình thường ngoài
giáo hội biết hết, từ những đối thoại của HT. Viện trưởng ở Sài
Gòn cho đến quí ngài ở Huế, từ Viện Tăng Thống đến Viện Hóa Đạo,
từ trong nước ra hải ngoại? Nếu ông VVA và VPII VHĐ không minh
danh xác thực được con người LNMĐ trước Hội đồng Lưỡng viện cũng
như công luận, thì LNMĐ chính là nội gián, là tình báo từ thế
lực bên ngoài cài vào GHPGVNTN thông qua ông VVA. Ông LNMĐ có
quyền dựng chuyện, nói vơ vào, chụp mũ Thầy Tuệ Sỹ và chư tôn
đức Tăng Ni ở tờ báo hay websites nào bên ngoài là quyền của
ông, nhưng cơ quan thông tin và phát ngôn của Viện Hóa Đạo là
PTTPGQT công khai đăng bài của LNMĐ có nghĩa là đã công nhận nội
dung của nó là xác thực, đã được giáo hội “duyệt y” để phổ biến
như là tiếng nói chính thức. Điều này, không phải chỉ riêng phát
ngôn nhân VVA mà cả hai văn phòng của Viện Hóa Đạo trong và
ngoài nước đều liên đới trách nhiệm về sự vô lương tâm, báng bổ
Tăng bảo và tính cách phá hoại của bài viết ấy. Còn nếu nói rằng
tên LNMĐ là bí danh của một thành viên Ban Chỉ Đạo VHĐ hoặc Viện
Tăng Thống thì lại càng không thể chấp nhận, vì một trong ba lý
do sau: 1) những điều viết ra chỉ là vu khoát, dối trá không
thực, không có bằng chứng, nên không thể để tên thật; 2) những
điều viết ra không phải là chủ trương của Viện Hóa Đạo, và chưa
được thông qua ý kiến của Hội đồng Lưỡng viện; 3) người viết
muốn được tiếp tục “ẩn tích” để làm nội gián cho ông VVA trong
lòng VHĐ trong nước.
Trong cả hai trường hợp, là thành viên ẩn danh hoặc chỉ là người
vô danh không phải thành viên Viện Hóa Đạo, LNMĐ và bài viết
hoàn toàn không có một giá trị gì đối với giáo hội. Ông VVA biết
vậy, nhưng vẫn cố tình sử dụng phương thức tiểu nhân và thiếu
chuyên nghiệp trong truyền thông để gán tội cho kẻ khác, chữa
tội cho mình và đồng lõa.
Chính vì tư cách và bài viết của LNMĐ là vô giá trị, ở đây không
cần phải phân tích về nội dung sai lầm và ngôn ngữ vu khống lố
bịch của người này làm gì. Chỉ xin nêu ra mấy vấn đề liên hệ đã
được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các buổi hội thảo và thông
cáo báo chí của VPII VHĐ, hỏi ông VVA và VPII VHĐ có dám công
khai trả lời trước dư luận hay không:
1.
Ngày
17.8.2008, Viện Hóa Đạo trong nước ủy nhiệm VPII VHĐ công bố
chúc thư và giáo chỉ của Đức Tăng Thống tại Chùa Pháp Luân,
nhưng VPII VHĐ đã ra thông tư vào ngày 23.7.2008, cho biết là đã
được sự ủy nhiệm này rồi. Điều này có nghĩa như thế nào? Phải
chăng là sự láo khoét và đồng lõa cho sự láo khoét này của cả
hai văn phòng VHĐ?
2.
Có
thực là HT. Viện trưởng đề bạt TT. Tuệ Sỹ vào Giáo hội và bị cố
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang bác, hay là ngược lại:
chính HT. Viện trưởng đã bác ý kiến của cố Đại lão HT Thích
Huyền Quang, không cho TT. Tuệ Sỹ vào Ban Chỉ Đạo VHĐ trong Đại
hội Bất thường tại Tu viện Nguyên Thiều tháng 10.2003? Có phải
là đa số thành viên tham dự Đại hội Bất thường này đã thỉnh
nguyện HT. Viện trưởng nên thuận ý cố Đại lão Hòa thượng Thích
Huyền Quang để công cử TT. Tuệ Sỹ vào chức vụ Phó Viện trưởng
VHĐ và HT. Viện trưởng đã miễn cưỡng chấp thuận hay không?
3.
Sau
“sự biến Lương Sơn”, HT. Viện trưởng im lặng và giao khoán công
việc cho TT. Phó viện trưởng, từ đó mới có quyết định bổ nhiệm
Htr. Nguyễn Châu làm Vụ trưởng Vụ GĐPT với sự đồng thuận thông
qua của Ban Chỉ Đạo VHĐ. Đây không phải là quyết định của cá
nhân TT. Phó viện trưởng, HT. Viện trưởng có thực sự là không am
hiểu hành chánh hay không khi trách TT. Phó viện trưởng không
“thừa ủy nhiệm Viện trưởng” mà lại “thừa ủy nhiệm Ban Chỉ Đạo
VHĐ”? Không lẽ ngài Viện trưởng không biết là Ban Chỉ Đạo VHĐ
bao gồm luôn cả Viện trưởng hay sao? Ngài đóng cửa không sinh
hoạt, giao khoán phật-sự cho Ban Chỉ Đạo, trực tiếp là TT. Phó
viện trưởng, vậy ngài còn muốn cái danh gì được gắn nơi những
quyết định thì mới thỏa mãn? Ban Chỉ Đạo VHĐ đồng chịu trách
nhiệm trong quyết định đó, không lẽ HT. Viện trưởng không biết?
Nếu TT. Phó viện trưởng “thừa ủy nhiệm Viện trưởng” để ký quyết
định đó, sau này HT. Viện trưởng nói ngược là không đồng ý thì
tính thế nào? Vậy “thừa ủy nhiệm Ban Chỉ Đạo” với sự đồng thuận
của nhiều thành viên khác chẳng phải là hợp nguyên tắc hay sao!
4.
Có
thực sự là HT. Viện trưởng cũng như Văn Phòng Viện Hóa Đạo I và
II không hay biết gì về tổ chức GĐPTVN Trên Thế Giới hay không?
Vậy quí ngài giải thích thế nào về việc tham dự chứng minh của
TT. Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký VPII VHĐ và TT. Thích Nguyên
Siêu, Tổng vụ trưởng Văn Hóa GHPGVNTNHN-HK trong đại hội thành
lập GĐPTVN Trên Thế Giới tại Ấn Độ ngày 07, 08 và 09.11.2004? Và
giải thích thế nào về Thông cáo Báo chí ngày 10.11.2004 của
PTTPGQT, cơ quan phát ngôn của Viện Hóa Đạo, qua đó, ca ngợi
tinh thần dũng mãnh và đoàn kết của tổ chức GĐPTVN, cũng như
đăng tải hai Quyết Nghị của Đại hội này?
5.
Có
thư mời họp Hội đồng Lưỡng viện nhằm chấn chỉnh nhân sự và giải
quyết những phật-sự quan trọng của giáo hội không hay chỉ là lời
mời dự Giỗ Tổ Nguyên Thiều vào giữa năm 2005, tiến đến việc ban
hành Giáo chỉ số 2 (29.11.2005)? TT. Tuệ Sỹ nhập thất, có quyền
từ chối dự Giỗ Tổ hàng năm không? Và có nên từ chối đi dự tang
lễ trong đời chỉ xảy ra một lần của Sư Bà Tâm Đăng, người ân của
Thượng tọa hay không?
6.
Thượng Tọa Tuệ Sỹ có thực sự viết thư từ chức hay không? Nội
dung thư này ra sao, viết vào ngày tháng nào, gửi cho ai, gửi
bằng bưu điện hay bằng email? Thư viết tay hay thư dùng máy vi
tính? Có đóng dấu và chữ ký hay không? Nếu ông VVA không có cái
gọi là “thư từ chức” này thì hãy thỉnh cầu HT. Viện trưởng cho
công bố, chứ đừng có vu khống cho một người vì thể diện của giáo
hội mà im lặng, nhập thất để phiên dịch Đại Tạng Kinh từ mấy
năm nay.
7.
Phản
ứng đối với Giáo chỉ số 2 bất công, vi hiến, trái giáo luật, quá
bán thành viên Ban Chỉ Đạo VHĐ tỏ thái độ bằng cách viết thư đệ
trình HT. Viện trưởng, qua đó nói rõ nguyên nhân nào dẫn đến
việc từ chức, đồng thời đề nghị những ý kiến thành thực để củng
cố giáo hội. Đáp lại phản ứng của những vị này, HT. Viện trưởng
mau mắn chấp thuận các thư từ chức, lẹ làng đưa vào danh sách
mới do ông VVA đề nghị. Xin hỏi đây có phải là ứng xử thích hợp
của lãnh đạo không? Và ai là người gây khó khăn, trở ngại cho
giáo hội? Những vị từ chức đang là nhân chứng sống, gồm có TT.
Thích Đức Thắng (Tổng Thư Ký VHĐ), TT. Thích Thái Hòa (Tổng vụ
trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp), TT. Thích Thanh Huyền (Tổng vụ
trưởng Tổng vụ Thanh Niên), TT. Thích Phước An (Tổng vụ trưởng
Tổng vụ Văn Hóa), TT. Thích Phước Viên (Tổng vụ trưởng Tổng vụ
Giáo Dục), xin hỏi VPI và VPII VHĐ có đủ công minh và can đảm
công bố các bức thư từ chức của những vị này để công luận hiểu
được nguyên do thay vì chụp mũ, luận tội rồi loại trừ họ một
cách độc tài và trái Hiến chương, Qui chế? Có dám tổ chức Đại
hội Bất thường có sự tham dự đông đủ các thành viên Hội đồng
Lưỡng viện (kể theo danh sách nhân sự của Đại hội Bất thường
ngày 01.10.2003) để xét xử những vị bị kết tội phản bội giáo hội
hay không?
8.
Cùng
một cách, đối với chư tôn đức Tăng Ni và cư sĩ thành viên các
giáo hội PGVNTN hải ngoại mà VHĐ I và II cho là “thỏa hiệp với
cộng sản”, “âm mưu lật đổ nhị vị hòa thượng lãnh đạo”, “âm mưu
tiêu diệt GHPGVNTN”... có bằng chứng khả tín nào không? Hội đồng
Lưỡng viện có dám tổ chức Đại hội Bất thường để luận tội và cho
những vị bị loại trừ cơ hội để biện hộ hay không?
Tóm lại, dù dày mặt không biết hổ thẹn để tránh né trả lời các
vấn nạn nêu trên trong hiện tại, sự thực vẫn còn ở đây qua những
nhân chứng sống của giáo hội trong và ngoài nước. Lịch sử tất
nhiên sẽ không thiếu sót khi ghi lại các nguyên do và động lực
dẫn đến sự suy yếu và khủng hoảng của giáo hội trong giai đoạn
này. Các văn kiện, sử liệu và nguồn nhân chứng sống sẽ viết nên
trang sử trung thực của cơn pháp nạn hiện tại; không có một thứ
ngụy biện, gian trá nào có thể thoát khỏi cái nhìn khách quan
của lịch sử; không có thứ tiểu thuyết dựng chuyện nào lại có thể
được dùng làm bằng chứng dẫn đến những nhận định và kết luận
đúng đắn cho thực tại lịch sử.
Trong khi chờ đợi sự trả lời minh bạch của VPI và VPII VHĐ về
nhân vật Lê Nguyễn Minh Đức và xuất xứ các nguồn tin thất thiệt,
vu khống do PTTPGQT đưa ra nhằm công kích, mạ lỵ chư tôn đức
Tăng Ni trong hoặc ngoài giáo hội, chúng tôi tạm thời ghi nhận
rằng chính ông VVA đã cài nội gián vào Viện Hóa Đạo cũng như đã
lạm dụng danh nghĩa phát ngôn nhân để lũng đoạn, phá nát
GHPGVNTN. Chúng tôi cũng tạm thời cho rằng VPI và VPII VHĐ đã
đồng thuận với những gì ông VVA phổ biến trên PTTPGQT và Quê Mẹ,
cũng như hiệp ý với TT. Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký VPII VHĐ để
đăng các loạt bài công kích mạ lỵ Tăng Ni trên website Chùa Diệu
Pháp, đặc biệt là bài viết của Lê Nguyễn Minh Đức, một phật-tử
không có chức danh và trách nhiệm gì của GHPGVNTN, trong và
ngoài nước.
14.10.2008
Thích Viên Giáo
|