Những phiên tòa thô bạo thời đại
Ai
cũng biết và ghê sợ tòa án dị giáo (inquisition) thời trung
cổ. Ai cũng biết và ghê sợ các cuộc đấu tố và xử tử hàng loạt
dưới thời quốc xã Đức cũng như các chế độ cộng sản của thế kỷ
20. Chẳng ai mà không đau lòng tiếc thương các nạn nhân vô
tội, thấp cổ bé họng, đã phải đón nhận cái chết và tù đày một
cách phi lý bất công, đồng thời cũng khinh bỉ, lên án những kẻ
cuồng tín đã nhân danh lý tưởng này hay mục tiêu nọ, dùng bạo
lực của mình để đàn áp, bịt miệng, xử án một cách bất công,
bất minh đối với những người cô thế bị đặt trước vành móng
ngựa.
Nay đã là thế kỷ 21, thời đại của tin học, những loại hình tòa
án ấy, người ta nghĩ là không còn tồn tại. Nhưng nhìn sâu một
chút tất sẽ thấy việc xử án qua thời gian đã thay đổi nhiều về
hình thức, còn bản chất bất công, phi lý, tàn bạo thì đâu đó
vẫn còn được thi hành, được công khai hoặc ngấm ngầm, cố ý hay
vô tình ủng hộ. Đặc biệt là các vụ án liên quan đến tôn giáo
hoặc quan điểm chính trị, chúng thường được trá hình tinh vi,
nấp dưới những chiêu bài được tô vẽ bởi những mỹ từ càng lúc
càng sáo rỗng: “bảo vệ giáo hội,” “đấu tranh cho tự do, dân
chủ, nhân quyền”, vân vân.
Điều đáng buồn mà ít ai để ý là một mặt lên án những tòa án
man rợ của những thế kỷ trước, mặt khác người ta lại tiếp tục
nhân danh quyền lợi tối thượng của quốc gia hay tổ chức của
mình, để luận tội và xử án kẻ khác, dù các bị cáo có mặt hay
không có mặt. Như vậy, rõ ràng là về hình thức thì có thay
đổi: không tùy tiện giết người. Nhưng bản chất thì chẳng khác:
luận tội và kết án một cách thô bạo, rừng rú, không cho bị cáo
cơ hội bào chữa, không cho bị cáo quyền có luật sư biện hộ,
không cần vật chứng (material evidence), hồ sơ chứng liệu
(documentary evidence) hay chứng nhân (witness) hợp lý gì cả.
Nói như trên, những người phật-tử sẽ liên tưởng ngay đến các
phiên tòa trong nước xử án các vị lãnh đạo Phật giáo trong
những năm sau 1975. Nhiều phiên tòa xử các nhà lãnh đạo Phật
giáo xảy ra suốt thời gian 33 năm qua. Nhưng phiên tòa lớn
nhất và gây nhiều ấn tượng nhất là phiên tòa xử án tử hình
dành cho hai vị học giả, thiền sư Phật giáo là Trí Siêu Lê
Mạnh Thát và Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương vào năm 1988. Cùng ra tòa
với hai vị này là hai học giả nổi tiếng khác: HT. Thích Đức
Nhuận và Ni sư Thích nữ Trí Hải. Nhiều chính quyền, tổ chức
nhân quyền, tôn giáo, thuộc các quốc gia, cũng như quốc tế,
trong đó, đặc biệt là Amnesty International (Hội Ân Xá Quốc
Tế), đã lên tiếng can thiệp mạnh mẽ để áp lực nhà cầm quyền
CSVN xóa bản án tử hình cho các vị này. Trong khi đó, hai bị
cáo bị án tử hình là Trí Siêu và Tuệ Sỹ đều khẳng khái trước
vành móng ngựa của chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng đón nhận cái
chết, không kháng án, và tuyên bố thẳng là “không ai có quyền
xét xử chúng tôi.”
Mười năm sau, ngày 01.9.1998, hai vị này được trả tự do sau
hơn 14 năm ngồi tù. Một vị chọn con đường văn hóa, giáo dục,
viết sử Phật giáo, để thay đổi và thăng tiến xã hội; một vị
được đích thân HT. Thích Huyền Quang (Quyền Viện trưởng Viện
Hóa Đạo) và HT. Thích Quảng Độ (Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo) mời
tham gia công cuộc phục hoạt Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất (GHPGVNTN). Báo chí truyền thông của người Việt tị nạn
khắp nơi bấy giờ ca tụng người tù Tuệ Sỹ như là một biểu tượng
tuyệt vời của cao trào đấu tranh cho tự do dân chủ. Ông Võ Văn
Ái, lúc đó cũng mới chính thức tham gia GHPGVNTN được vài năm,
đã mau mắn lấy hẹn phỏng vấn TT. Tuệ Sỹ, sau đó, đăng bài
phỏng vấn này lên tờ Quê Mẹ, số 147, tháng 9 & 10, 1998, trang
16, với tựa đề là chính câu nói của TT. Tuệ Sỹ “Tôi đã
tuyệt thực 10 ngày để tự khẳng định mình: không ai có quyền
xét xử tôi, thì không ai có quyền ân xá.” Lời mở đầu của
tòa soạn do ông Võ Văn Ái viết, giới thiệu TT. Tuệ Sỹ một cách
trân trọng, cung kính như sau: “Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ,
triết gia, học giả, giáo sư đại học, một luận sư Trung quán...
Tác giả của nhiều bộ sách ấn hành trước năm 75 tại Sàigòn gây
chấn kích trong lòng người đọc, như “Trung Quán Luận”, “Tô
Đông Pha, một phương trời viễn mộng”, ... Những tù nhân chính
trị từng sống chung với Thượng Tọa qua các trại giam đều đồng
thanh tôn vinh con người đạo hạnh, gương mẫu, khí phách, đóng
vai đại sư an ủy và nâng đỡ tinh thần họ... Nhân cách Đạo sư
ấy, tinh thần vô úy ấy, uy dũng nói lên sự thật ấy, bất chấp
hiểm nguy cho thân mạng, thể hiện trước phiên tòa năm 1988, và
nay sau 14 năm khổ sai, ngay ngày đầu vừa bước ra khỏi ngục
tù, lại một lần nữa thể hiện qua cuộc điện đàm đầu tiên phát
biểu ra nước ngoài hôm 4.9.98, mà chúng tôi xin đăng tải sau
đây làm quà Bạn đọc... Không phải một món quà thông tin, như
hàng chục nghìn bản tin chộn rộn mỗi ngày trên màn ảnh vi tính
của internet, của E.mail đâu. Đây là Tiếng Nói siêu việt mọi
nguồn thời sự thế gian, mọi tranh chấp chính kiến, mọi rấp
ranh âm mưu. Tiếng Nói ấy hòa nhập với Tiếng Nói muôn thuở của
Quê hương ta và Nòi giống Con người, mỗi khi đối diện với Dối
trá, Tàn bạo, Phi nhân, Vô minh. Tiếng Nói của sự Chân Thật.
Tiếng Nói Người dõng dạc, thanh cao trước muôn tiếng thú hú
gào tru tréo.”
Con người được ông Võ Văn Ái ca tụng là “đạo sư khí phách,”
ấy, được giáo hội mời làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo liền sau
đó, và đến năm 2003, lại được HT. Thích Huyền Quang và Hội
đồng Lưỡng viện công cử làm Phó viện trưởng. Ấy thế mà chỉ
trong vòng hai năm sau khi giữ chức Phó Viện trưởng Viện Hóa
Đạo, kẻ tử tội của tòa án xã hội chủ nghĩa này đã bị loại trừ
một cách vi hiến khỏi GHPGVNTN qua Giáo chỉ số 2, ngày
29.11.2005. Kể từ đó, ông trở thành “tội nhân” trường kỳ của
các tòa án truyền thông báo chí, được khởi động, khích động và
huy động một cách có sách lược bởi Văn Phòng II Viện Hóa Đạo
(VPII VHĐ), mà chủ chốt của chiến dịch đấu tố này là ông Võ
Văn Ái.
Ngoài TT. Tuệ Sỹ, Giáo chỉ số 2 cùng lúc còn loại trừ 4 vị
khác và sau khi Giáo chỉ này được loan báo, tức khắc thêm 2 vị
khác nữa từ chức, tổng cộng là 7 vị trên tổng số 13 vị (quá
bán) thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo. Đây là một quyết
định sai lầm tai hại cả về sách lược lẫn chiến thuật mà không
một tổ chức đấu tranh nào, dù chỉ đấu tranh bất bạo động, dưới
chế độ độc tài Cộng sản dám phạm phải, nếu không muốn tự hủy
diệt. Nhà nước Cộng sản Việt Nam có thể không thừa nhận Giáo
Hội Thống Nhất trên phương diện pháp lý, không cho Giáo Hội
này thực hiện bất cứ sinh hoạt nào trong xã hội, nhưng chắc
chắn họ không thể nào ngăn cản được sự đoàn kết nhất tâm của
các thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo. Chính sự đoàn kết,
nhất tâm này đã tạo thành một thứ nội lực giúp Giáo Hội trong
nước tồn tại, vững mạnh và vượt qua được những âm mưu triệt hạ
của Nhà nước Cộng sản Việt Nam mà cuộc tiếp kiến trang trọng
của Thủ tướng Nhà nước CSVN đối với người tù Hòa Thượng Thích
Huyền Quang, Xử lý Viện Tăng Thống năm 2003 là một minh chứng.
Do đó, với Giáo chỉ số 2, Viện Hóa Đạo đã tự phế bỏ nội lực
của chính mình và tạo nguy cơ hủy diệt của Giáo Hội.
Cái sai lầm và vi hiến của Giáo chỉ số 2 năm 2005 sở dĩ không
tạo nên phản ứng mạnh mẽ lan rộng đối với truyền thông báo chí
bên ngoài mà chỉ ảnh hưởng trong nội bộ Phật giáo là do TT.
Thích Tuệ Sỹ im lặng, nhập thất thường xuyên để phiên dịch và
hiệu đính Đại Tạng Kinh Việt Nam; mặt khác, chư tôn đức trong
Ban Chỉ Đạo VHĐ đã đồng loạt từ chức để bày tỏ sự bất mãn đối
với Giáo Chỉ số 2, cũng ẩn nhẫn, không hé một lời. Nhưng khi
sự sai lầm và vi hiến này được lặp lại lần nữa qua Giáo chi số
9, ngày 08.9.2007, giải tán toàn bộ các giáo hội PGVNTN hải
ngoại và bị phản ứng quá mạnh từ Tăng Ni và phật-tử khắp nơi,
VPII VHĐ hoảng hốt, không thể đối phó và giải thích thỏa đáng
được với dư luận quần chúng, nên đã nỗ lực tập trung tất cả
thời gian của họ để mở các phiên tòa xử án khiếm diện Tuệ Sỹ,
trút hết tội lỗi cho “tội nhân” này.
Các phiên tòa xử án này được trá hình trong hình thức “họp
báo,” “hội thảo,” “khóa tu học,” dựa vào các lễ lớn như Phật
Đản, Vu Lan, Tết, Đại hội Thường Niên, Đại hội Khoáng Đại, Đại
hội Bất thường, vân vân, thậm chí trong Lễ Thọ Tang, Lễ Bách
Nhật của Đức Đệ Tứ Tăng Thống, do VPII VHĐ tổ chức. Tại châu
Âu và châu Úc thì VPII VHĐ không dám tổ chức gì ngoại trừ mượn
đường dây của báo chí hay đài phát thanh để “giải độc” cho
mình và “đấu tố” Tuệ Sỹ. Chỉ có ở Canada và Mỹ thì VPII VHĐ có
thể vay mượn tinh thần chống Cộng của các tổ chức và hội đoàn
chính trị thế tục để giải quyết vấn đề của GHPGVNTN mà VPII
VHĐ là thủ phạm phá nát.
Điểm buồn cười và trớ trêu là chuyện của giáo hội mà không tạo
được cơ hội nào để nói chuyện với Tăng Ni và phật-tử mà chỉ có
thể tìm đến các tổ chức chính trị thế tục. VPII VHĐ thường đổ
lỗi là vì đa số Tăng Ni và cư sĩ đã “biến tướng” thỏa hiệp với
cộng sản, chỉ còn một thiểu số trung kiên với giáo hội, được
coi là “tinh túy”, có ít mà trung kiên còn hơn nhiều mà phản
loạn! Chính vì bi cô lập, mất niềm tin nơi quần chúng nên khi
VPII VHĐ tổ chức các buổi “hội thảo”, “khóa tu”, “họp báo”,
không có Tăng Ni và phật-tử Việt Nam thuần túy tham dự mà chỉ
thấy đại diện các tổ chức chống Cộng, hội đoàn thuộc cộng đồng
tị nạn. Vậy mà nếu có được 100 người đến dự thì thổi phồng
thành 200, có được 300 thì thổi lên thành 600! Đã nói là không
cần nhiều, chỉ cần chuyên ròng, thế mà lúc nào cũng cố gắng
khuếch đại nhân số tham dự, cho là sự thành công của buổi hội
thảo hay họp báo ấy!
PHIÊN TÒA CỦA VĂN PHÒNG II
VIỆN HÓA ĐẠO TẠI TORONTO, CANADA, 10.8.2008
Điển hình là buổi hội thảo ngày 10 tháng 8 năm 2008 tổ chức
tại thư viện Parkdale,
Toronto,
Canada,
được quảng cáo rầm rộ, rình rang để mời đồng bào tham gia, sau
đó được ghi lại là rất thành công! Nhiếp ảnh gia kiêm MC của
buổi hội thảo này là ông Đặng Tấn Hậu đã cố gắng dùng góc độ
rộng để chụp, mà cũng chỉ thấy lưa thưa dăm bảy chục người.
Chủ đề của buổi hội thảo này là “Hiện tình Giáo hội Phật
giáo Việt
Nam
Thống nhất sau ngày Lễ Vesak LHQ 2008 và sau ngày Đức Đệ Tứ
Tăng Thống viên tịch”.
Buổi hội thảo được tổ chức nhằm dịp lễ Vu Lan, mùa báo hiếu và
Tự tứ theo truyền thống Phật giáo, cũng nhằm vào dịp Đức Đệ Tứ
Tăng Thống vừa viên tịch như đã nêu trong chủ đề. Theo thời
điểm và ý nghĩa của hai dịp này mà nói, 1) Lễ Tự tứ
(Pravàranà): trong lễ này, tăng ni thỉnh cầu đại chúng nếu
thấy, nghe và nghi mình có lỗi hay khuyết điểm gì thì thẳng
thắn chỉ giáo để đương sự sám hối, nguyện không tái phạm;
2) Báo ân: bao gồm báo hiếu cha mẹ, sư trưởng, quốc gia và
chúng sinh; 3) Tưởng niệm Đức Tăng Thống. Với 3 ý nghĩa
quan trọng và cảm động nói trên, buổi hội thảo do HT. Thích
Thiện Tâm và TT. Thích Giác Đẳng đại diện VPII VHĐ tổ chức, có
biểu lộ được gì hay không? Xin trả lời thẳng:
-
Trong tinh thần Tự tứ, mong cầu được người khác nói lỗi của
mình để mình có thể sửa sai, sám hối, thì hai vị tỳ-kheo Thiện
Tâm và Giác Đẳng đã làm trái ngược lại bằng cách, luận tội,
gièm pha các vị trưởng lão tỳ-kheo (trong đó có vị đã viên
tịch như HT. Thích Trí Thủ, HT. Thích Thiện Siêu), cũng như vu
khống, kết án khiếm diện các tập thể tỳ-kheo khác (chư tôn đức
Tăng Ni thuộc Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, Giáo hội PGVNTN Hải
ngoại tại Canada, Hội Thân Hữu Già Lam) trước ống kính và máy
vi âm của báo chí, truyền thanh, truyền hình địa phương.
-
Trong tinh thần báo ân nhân mùa Vu Lan, hai vị tỳ-kheo Thiện
Tâm và Giác Đẳng đã không ủy lạo, khuyến khích quần chúng
phật-tử lo việc hiếu nghĩa, tu tập để đền đáp bốn ân nặng như
lời Phật dạy, mà lại chụp mũ cộng sản cho các tỳ-kheo khác để
khích động tâm sân hận của những người tị nạn, tạo sự nghi kỵ
và thù ghét của khối người này đối với các tỳ-kheo không có
mặt tại hội trường để đối chứng.
-
Trong đạo tình tri ân Đức Tăng Thống vừa viên tịch và sắp đến
ngày lễ chung thất của ngài, hai tỳ-kheo Thiện Tâm và Giác
Đẳng đã không thuần túy biểu lộ sự nuối tiếc kính thương đối
với bậc cao tăng lãnh đạo, mà chỉ lợi dụng danh nghĩa ngài để
giải thích về lý do ban hành Giáo chỉ số 9, gán cho ngài là
tác giả văn bản sai lầm và tai hại này; chung qui là chạy tội,
giải độc cho bản thân và kết án các tỳ-kheo khiếm diện khác.
Chú thích hình ảnh: Hội thảo về hiện tình Phật giáo, nhưng nội
dung chính là đấu tố khiếm diện một số cao tăng đã viên tịch
cũng như luận tội Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, TT. Tuệ Sỹ,
GHPGVNTNHN-Canada, Thân Hữu Già Lam, vân vân (hình của Đặng
Tấn Hậu đăng trong bài “HỘI THẢO PHẬT GIÁO TẠI
TORONTO VÀO NGÀY CHỦ NHẬT 10 THÁNG 8, 2008 TẠI THƯ VIỆN
PARKDALE”)
Điểm chung của các buổi hội thảo và họp báo về “hiện tình
GHPGVNTN” do VPII VHĐ tổ chức là:
-
giải thích một cách ngụy biện về giáo chỉ số 9 (mượn danh
nghĩa Đức Tăng Thống), che giấu Thông bạch Hướng dẫn Thi hành
Giáo chỉ số 9 do HT Viện trưởng ban hành (vì chính Thông bạch
này mới là văn bản cho thấy rõ ràng sự sai lầm, vi hiến của
VHĐ nhằm giải tán toàn bộ các giáo hội tại hải ngoại);
-
chạy tội cho VPII VHĐ bằng cách vu khống và chụp mũ cộng sản
lên đầu TT. Tuệ Sỹ cùng những người liên hệ; sách động những
người chống Cộng hướng mũi tấn công vào tăng ni và phật-tử
không cùng quan điểm;
-
đưa ra chiêu bài chống Cộng để lôi kéo sự ủng hộ của các tổ
chức chính trị, khỏa lấp sự hụt hẫng và cô lập của VPII VHĐ
đối với Tăng Ni và phật-giáo đồ Việt Nam;
-
công khai luận tội và kết án tăng ni một cách bất công, không
bằng chứng trước báo chí truyền thông và các tổ chức chính trị
thế tục để chứng minh mình đúng.
Với chủ trương chạy tội cho mình và trút tội cho kẻ khác một
cách trắng trợn như thế, VPII VHĐ nghĩ là có thể lấp liếm qua
mặt quần chúng và lịch sử, nhưng họ đã lầm. Càng cố gắng chống
chế, ngụy biện, họ càng bị khinh thường bởi giới trí thức và
phật-tử hiểu chuyện. Mặt nạ và nanh vuốt tàn độc giảo quyệt
của họ đã bị lột ngay chính ở những phiên tòa do họ dựng nên.
Bởi vì người trí sẽ không ai tán thưởng một phiên tòa rừng rú
mọi rợ chỉ có những phán quan cùng những công tố viên, bồi
thẩm đoàn và một số quần chúng được khích động bằng ngọn lửa
của sân hận. Nếu không chấp nhận những bản án từ những phiên
tòa bất công của thời trung cổ, quốc xã, đấu tố địa chủ và
cộng sản, tất sẽ không thể nào chấp nhận những phiên tòa ngụy
trang họp báo, hội thảo về hiện tình GHPGVNTN, mà kỳ thực là
đấu tố và kết tội những kẻ vắng mặt, đặc biệt là kẻ tử tội Tuệ
Sỹ, người đã im lặng suốt nhiều năm trước những vu khống, chụp
mũ rẻ tiền và hèn mạt.
Hãy khoan nói về nội dung và chứng liệu mơ hồ mà những “phán
quan” này dùng để luận tội kẻ vắng mặt. Chỉ nội ở một điểm là
tấn công, bêu xấu, nhục mạ người vắng mặt, nói thẳng là đánh
sau lưng kẻ khác, đã là một hành vi hèn hạ, tiểu nhân rồi.
HỌP BÁO CHÙA ĐIỀU NGỰ, 19.10.2008,
HAY PHIÊN TÒA ĐẤU TỐ TT. TUỆ SỸ?
Bây giờ hãy đi sâu vào “phiên tòa” xử án kẻ tử tội Tuệ Sỹ trá
hình dưới chiêu bài họp báo và Lễ An Vị Phật Chùa Điều Ngự. Ở
đây, vì trong phiên tòa vắng mặt “bị cáo”, cũng không có thân
nhân hay luật sư biện hộ của “bị cáo”, mà chỉ có “chánh án” là
các thành viên VPII VHĐ, các “công tố viên” cũng là thành viên
VPII VHĐ cùng một số tay chân cò mồi thuộc vài tổ chức chính
trị hữu danh vô thực của cộng đồng, và bồi thẩm đoàn là một số
đệ tử thân tín của nhà sư tội phạm hình sự Chùa Như Lai (HT
Thích Chánh Lạc) và TT. Thích Viên Lý cùng với vài cơ quan báo
chí truyền thông của ngoại đạo, cho nên hãy xem đây như là thứ
tòa án nhân dân theo mô thức đấu tố địa chủ của thập niên 1950
tại Bắc Việt. Và chính vì “bị cáo” không có mặt để đối chứng,
biện minh, cũng không có luật sư nào cần thiết có mặt để biện
hộ, hãy tạm lấy “công luận” để bày tỏ những gì có thể nói
được, không phải để nói thay cho bị cáo vắng mặt — vì năm 1988
bị cáo này từng tuyên bố trước tòa án cộng sản là “không ai
có quyền xét xử tôi, hãy để lịch sử phán xét” — mà chính
là nói cho những người vô tình chứng kiến hoặc đọc phải những
bản cáo trạng man rợ được phát đi sau phiên tòa này.
Tòa án “nhân dân” đấu tố địa chủ năm 1955 tại Bắc Việt
(hình của Dmitri Baltermants, trích lại từ Thế Giới Người
Việt.Net)
Họp báo, hay phiên tòa đấu tố khiếm diện “bị cáo” Tuệ Sỹ?
(hình trích từ Voices of Áo Lam)
Hãy nghe “công tố viên” Giác Đức luận tội TT. Thích Tuệ Sỹ trong
YouTube – 2008-10-19 Họp báo & An vị Phật ở Chùa Điều Ngự, đoạn
phim thứ 6 trong tổng cộng 26 đoạn, chính xác bắt đầu ở vào phút
8:24, do Thanh Niên Cờ Vàng thâu hình, thâu âm và phổ biến:
http://www.youtube.com/watch?v=2-lVM7d6dxI
Xin ghi âm đoạn này, lời của ông Giác Đức như sau: “Và bây
giờ xin được phép tiết lộ: có ra bằng ấy điều là do… tôi xin
trích nguyên văn của Thông cáo Báo chí trong cái bài gần đây mà
Phòng Thông Tin (Phật giáo Quốc Tế do ông Võ Văn Ái làm giám
đốc – chú của người viết) phổ biến có cái gọi là ‘Âm mưu của
Thượng Tọa Tuệ Sỹ’.”
Công luận:
Phản đối! Chỉ một bài trích từ Thông cáo Báo chí do Phòng
Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế phổ biên không thể có giá trị như là
chứng liệu phạm tội của bất cứ ai, nhất là Tuệ Sỹ, người mà ông
Võ Văn Ái và VPII VHĐ cố tình gán ghép những âm mưu và ý đồ thỏa
hiệp cộng sản suốt ba năm qua mà chưa có bằng chứng nào xác đáng
và cụ thể. Tác giả bài viết là Lê Nguyễn Minh Đức gửi ông Võ Văn
Ái đăng mười ngày trước khi có buổi họp báo này để VPII VHĐ có
cớ luận tội. Công luận đã yêu cầu VPII VHĐ minh xác lai lịch và
vai trò của Lê Nguyễn Minh Đức trong GHPGVNTN (qua bài viết “Nội
gián trong VHĐ GHPGVNTN”) mà VPII VHĐ đã ngọng câm, không thể
trả lời thì không thể dựa vào bài viết vu vơ dựng chuyện của tác
giả nặc danh này để kết tội người khác.
Đoạn tiếp theo, vào phút 8:39, “công tố viên” Giác Đức nói:
“Thượng Tọa Tuệ Sỹ nói với Hòa thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng
Thống HT Thích Thiện Hạnh: “Ôn cứ cầu nguyện cho chúng con đi,
để con với Thát, Thát tức là Lê Mạnh Thát, làm việc thành công;
Ôn cứ từ chức đi, con với Thát mà làm việc thành công rồi thì
lúc đó sẽ mời Ôn ra lại. Ôn nghỉ đi.”
Công luận:
Phản đối! Thượng Tọa Tuệ Sỹ nói với HT. Thiện Hạnh vào lúc nào,
ở đâu, có ai làm chứng? Làm sao tác giả Lê Nguyễn Minh Đức nghe
được? HT. Thiện Hạnh có dám đối chất với TT. Tuệ Sỹ về sự việc
này hay không? Nếu không có việc đối chất với kết luận có xác
minh của hai người trong cuộc, không ai có tư cách bàn nói hay
luận tội.
Giác Đức tiếp: “Nghỉ đi theo Giáo hội Thống Nhất đi, xóa hết
Giáo hội đi, rồi thì Tuệ Sỹ với Thát cộng tác với ai đó, quý vị
thông minh thì biết, để xóa hết Giáo hội Thống nhất. Lúc đó sẽ
mời Ôn Thiện Hạnh ra lại.”
Công luận:
Phản đối! Đối thoại giữa TT. Tuệ Sỹ và HT. Thiện Hạnh được kể
lại bởi tác giả nặc danh Lê Nguyễn Minh Đức (người không có vai
trò hay trách nhiệm gì trong giáo hội) không có bằng chứng ghi
âm, thu hình, không có người chứng, nên không thể làm chỗ y cứ
để đưa ra bất cứ một kết luận nào. Ngay cả trường hợp cuộc đối
thoại này có thật thì nội dung đối thoại này cũng không thể dẫn
đến kết luận “cộng tác với ai đó” hoặc “xóa hết Giáo hội Thống
nhất.”
Giác Đức lại tiếp, một cách trơn tru, thuộc lòng: “Ôn Thiện
Hạnh là người có lương tâm, cho nên đem cái việc ấy đi thẳng vào
Sài Gòn, họp với Hòa thượng Viện trưởng, và triệu tập Hội đồng
Lưỡng viện, và thảo ra kiến nghị trình lên đức Tăng Thống. Họp
ngày 22 tháng 8, và đến khi trình lên đức Tăng thống là đúng
ngày mồng 8 tháng 9, đức Tăng Thống hạ lệnh thảo giáo chỉ số 9.
Giáo chỉ số 9 đưa ra rồi thì vội vàng lựa chọn được 14 vị…”
Công luận:
Hoang đường! Người có lương tâm mà không thảo luận, dùng lời
khuyên nhắc (nếu thực sự là có chuyện đối thoại xảy ra và nghĩ
là người kia sai lầm) để tìm hiểu thực hư lại âm thầm
“đi thẳng vào Sài Gòn,”
báo cáo với cấp trên, triệu tập Hội đồng Lưỡng viện sau lưng kẻ
mình tố cáo ư? Hội đồng Lưỡng viện họp ngày 22.8.2007 có đủ các
thành viên hay không? Các thành viên Hội đồng Lưỡng viện đang
hành đạo tại hải ngoại có được mời để tham khảo và thông qua các
quyết định của buổi họp này không? Có biên bản của buổi họp Hội
đồng Lưỡng viện không? Thành phần tham dự đủ túc số 2/3 hay
không? HT. Thiện Hạnh là Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống có trách
nhiệm gì mà viết bản phúc trình thay cho Viện Hóa Đạo? Bản phúc
trình của HT. Thiện Hạnh ký ngày 08.9.2007 từ Huế, đang bị bao
vây (từ ngày 26.8 đến 8.9.2007 theo phúc trình, nguyên
văn “Công an chìm, nổi một lực lượng hùng hậu, bao vây chặt
chẽ các Chùa thuộc GHPGVNTN Thừa Thiên Huế, ở Chùa Báo Quốc càng
đông đảo hơn từ đó đến nay…”) thì làm sao trình lên Đức Tăng
Thống ở Bình Định cùng ngày 8.9.2007, để rồi Đức Tăng Thống
“hạ lệnh thảo giáo chỉ số 9”? Hạ lệnh “thảo”
giáo chỉ thì lập tức có ngay giáo chỉ chính thức ký cùng ngày
8.9.2007 luôn sao? Một giáo chỉ quan trọng giải tán toàn bộ hệ
thống tổ chức giáo hội hải ngoại mà chỉ dựa vào một bản phúc
trình cá nhân của Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống để “thảo” rồi ký
vội vàng, ban hành cấp tốc cùng trong một ngày 8.9.2007 hay sao?
Thế rồi “Giáo chỉ số 9 đưa ra rồi thì vội vàng lựa chọn
được 14 vị…” Một chuyển biến quan trọng của giáo hội như
thế đã được diễn ra một cách vội vàng, hấp tấp, trong vòng một
ngày, không đủ thời gian để suy nghĩ hay thảo luận, chứng tỏ cái
gì? - Là kết quả của sự hoảng loạn chết nhát của những kẻ không
hề được un đúc tinh thần vô úy của tăng sĩ Phật giáo và lãnh đạo
giáo hội! Chỉ nghe một bản phúc trình đầy tính cá nhân, cục bộ,
là cả một triều đình hoảng hốt đóng cửa họp kín, họp riêng, dẫm
lên hiến pháp hiến chương, vội vã đưa ra ngay quyết định của
thiểu số, giải tán hết mọi tổ chức giáo hội tại hải ngoại. Để
làm gì? Để cứu giáo hội ư? Hay là cứu lấy địa vị cá nhân huyễn
mị của chính mình?
Và đây là câu kết luận của “công tố viên”, vừa chuyển thành
“quan tòa” Giác Đức ở phút 0:30, trong đoạn kế tiếp: “Cuộc
nói chuyện giữa Thượng Tọa Tuệ Sỹ và Hòa thượng Thích Thiện
Hạnh, đó là nguyên nhân của ba điều làm lung tung ở hải ngoại.”
Công luận:
Thật là vô lý, bậy bạ! Ông Giác Đức có phải là người con Phật
không mà hồ đồ, vô sỉ đến thế? Cuộc nói chuyện giữa hai người
ấy, có phải là do chính miệng HT. Thiện Hạnh kể không hay chỉ do
Lê Nguyễn Minh Đức dựng chuyện viết ra theo đơn đặt hàng của ông
Võ Văn Ái? Đã có sự xác nhận của HT. Thiện Hạnh chưa? Có đối
chất giữa TT. Tuệ Sỹ và HT. Thiện Hạnh chưa? Nếu chỉ một mình Lê
Nguyễn Minh Đức viết ra mẩu đối thoại này thì có đáng tin không?
Nếu chỉ một mình HT. Thiện Hạnh kể lại câu chuyện này thì có
đáng tin không? Có thể lấy một câu chuyện đối thoại viết bằng
máy vi tính, độc quyền đăng trên Thông cáo báo chí của ông Võ
Văn Ái (và được tiếp tay phổ biến bởi các các websites và blogs
của thuộc hạ VPII VHĐ) làm bằng chứng để luận tội, kết tội TT.
Tuệ Sỹ không? Phải chăng “phiên tòa” này lợi dụng cá tính của
TT. Tuệ Sỹ là không thích đôi co với kẻ tầm thường, không thèm
cải chính biện hộ với những vu khống, hàm hồ của kẻ tiểu nhân,
cũng như biết rằng suốt mấy năm qua TT. Tuệ Sỹ im lặng đóng cửa,
chỉ lo dịch kinh sáng tác, nên muốn gán cho tội gì thì gán, đúng
sai gì cũng chẳng ai biết!? Một lời nói vu vơ của một kẻ bá vơ
chẳng ai biết (Lê Nguyễn Minh Đức) lại có thể làm chứng liệu cho
công tố viên và quan tòa luận tội, kết tội kẻ vắng mặt hay sao?
Vậy phiên tòa này là thứ phiên tòa gì, có khác gì các phiên tòa
thời trung cổ, quốc xã, đấu tố địa chủ và cộng sản hay không?
Bây giờ hãy nghe vị công tố viên kiêm quan tòa khác: Võ Văn Ái,
cũng trong YouTube - 2008-10-19 Họp báo & An vị Phật ở Chùa Điều
Ngự, đoạn phim thứ 7:
http://www.youtube.com/watch?v=lqoKg3afQrY&feature=related
Ông Võ Văn Ái đứng trước cử tọa và ống kính của báo chí, truyền
thanh, nói ba hoa như chỗ không người. Coi như chỗ không người
vì ông quá khinh thường người nghe, nghĩ là những dối trá, ngụy
biện của mình sẽ không bị ai phát hiện. Ông nói thật nhiều về
Giáo chỉ số 9 mà đáng ra không cần tốn thời gian để bàn ở đây,
nhưng vì luận điểm của ông và VPII VHĐ đều qui kết nguyên do có
Giáo chỉ này là từ “âm mưu của TT. Tuệ Sỹ”, cho nên không thể
không nói.
Tiếp lời ông Giác Đức, ông Võ Văn Ái nói (phút 2:04): “Nói về
Giáo chỉ số 9 thì chúng ta có thể kết luận rằng Giáo chỉ số 9
không có chia rẽ Phật giáo. Giáo chỉ số 9 chỉ phân biệt đâu là
vàng, đâu là thau, chứ không có chia rẽ Phật giáo.”
Công luận:
Đúng! Nhưng xin hỏi lại, ai là vàng, ai là thau? Nếu là vàng thì
có cần phải tổ chức bao nhiêu buổi hội thảo, họp báo suốt hơn
một năm qua để giải thích và quảng cáo thực chất vàng ròng của
nó không? Nếu là vàng ròng thì có cần phải tập trung toàn lực và
toàn thời gian để bảo vệ tính chất của nó và miệt thị, vu khống,
chê bai những loại thau khác không?
Còn nói Giáo chỉ số 9 không chia rẽ Phật giáo thì cớ sao từ khi
giáo chỉ này được ban hành thì VPII VHĐ lập tức trở thành một
nhóm thiểu số không còn liên lạc hay phối hợp được với bất kỳ tổ
chức Phật giáo hoặc cá nhân Tăng Ni nào khác? Ngược lại, chính
VPII VHĐ còn mở những chiến dịch công kích, bôi nhọ, phá hoại
Tăng Ni, cung cấp cho ngoại đạo những cụm từ hỗn xược vô lễ để
phỉ báng hàng Tăng bảo, khích động những tổ chức chính trị thế
tục và ngoại đạo hùa nhau vu khống, chụp mũ các vị lãnh đạo Phật
giáo qua báo chí, websites, tổ chức những cuộc biểu tình dơ bẩn
thiếu văn hóa để phá rối các đại lễ và khóa tu học của các tổ
chức Phật giáo khác, lập các “tòa án dị giáo” qua những buổi họp
báo và hội thảo để giải độc cho mình và trút tội cho kẻ khác!
Hãy tự kiểm lại mình, đâu là vàng, đâu là thau? Ai chia rẽ Phật
giáo?
Ông Võ Văn Ái tiếp (từ phút 2:57 đến 6:30): “Giáo chỉ số 9 do
Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8 tháng 9 năm
ngoái, và sau đó ngày 25 tháng 9 năm ngoái, Đại lão Hòa thượng
Thích Quảng Độ ban hành Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ
số 9. Thì trong hai cái văn kiện đó, quả là có hai cái chữ ‘giải
tán’, và phe đối phương đã dùng hai chữ ‘giải tán’ đó để vu cáo
giáo hội chia rẽ. Thực ra giải tán là giải tán cái gì?...
(bỏ bớt một đoạn nói về lý do thành lập VPII VHĐ qua Quyết Định
số 27 năm 1992) Sang đến năm ngoái, khi mà trong vòng hai
tháng rưỡi, 600 tờ báo và những cơ quan truyền thông báo chí, vu
cáo GHPGVNTN và đặc biệt là Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
thì Đức Tăng Thống nghĩ rằng sẽ có một cuộc chiến dịch nước lũ
để tiêu diệt giáo hội trong nước, thành ra ngài mới ban hành cái
giáo chỉ số 9 để thiết lập Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, cũng do
ngài ký năm 1992 và năm 2007. Nhưng mà lần này VPII VHĐ trực
thuộc Viện Hóa Đạo trong nước chứ không trực thuộc Giáo hội tại
Hoa Kỳ. Đó là cái chỗ khác nhau. Thành ra cái chữ ‘giải tán’
trong hai văn kiện là nói giải tán cái cơ chế cũ để hình thành
cơ chế mới. Nhưng mà những cái người mà phá hoại giáo hội, phá
hoại Phật giáo thì dùng cái chữ ‘giải tán’ để nói rằng ‘à, cái
giáo chỉ số 9 nó giải tán tất cả các giáo hội tại hải ngoại, nó
khai trừ một số chư tăng và cư sĩ’ thì đó là cái sự vu cáo chứ
không có thực.”
Công luận:
Ngụy biện! Phát biểu trước quần chúng và truyền thông báo chí
như vậy là bịp bợm, che mắt thiên hạ một cách trắng trợn. Hai
văn kiện của Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo được dẫn chứng ở
đây đã không được đọc, phân phát hoặc niêm yết để cử tọa có thể
theo dõi, đối chiếu, kiểm chứng. Do đó, tất cả những lời giải
thích và vu cáo người vắng mặt trong phiên tòa này đều là ngụy
biện, gian trá.
Còn nói rằng cả hai văn kiện đều có chữ ‘giải tán’ là sai! Hai
văn kiện ấy VPII VHĐ đã ‘soạn thảo’ và đọc lại bao nhiêu lần,
giải thích nhiều bận qua các bài viết và những buổi hội thảo, là
điểm thứ nhất trong Quyết nghị 9 điểm của Đại hội thường niên
vừa tổ chức tuần trước, 10, 11 & 12.10.2008
(Triệt để thực hiện và phát huy Giáo chỉ số 9 của Đức cố Đệ tứ
Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành ngày 8.9.2007, Thông bạch
Hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Đại lão Hoà thượng Thích
Quảng Độ phổ biến ngày 25.9.2007…),
vậy mà không biết rằng Giáo chỉ số 9 không hề nói việc ‘giải
tán’ hay sao? Chính văn kiện mà VPII VHĐ đưa lên làm “yếu sách”
nền tảng của tất cả các sinh hoạt mà còn mơ hồ, không nắm vững
thì làm sao có thể vin vào đó để luận giải đúng-sai, kết án
những kẻ vắng mặt khác! Quần chúng tham dự họp báo không có hai
văn bản trên tay, ông VVA muốn nói hươu nói vượn gì thì nói;
nhưng trên căn bản thì vẫn là sự gian xảo qua mặt số đông.
Còn câu nói
“Đức Tăng Thống nghĩ rằng sẽ có một chiến dịch nước lũ để tiêu
diệt giáo hội trong nước”
chẳng qua là sự đoán mò của ông Võ Văn Ái. Thực tế không thấy
“chiến dịch nước lũ” nào xảy ra. Nếu cộng sản quả có ý định ấy
thì việc tung tin trước để ông Võ Văn Ái đoán mò chính là cách
thăm dò, hù dọa. Chỉ là thăm dò, hù dọa của cộng sản qua báo
chí, cũng đủ làm run sợ các bậc “nổi tiếng vô úy” của giáo hội
đến nỗi vội vàng tháo chạy, giải tán toàn bộ các giáo hội hải
ngoại, co rút lại trong một nhóm nhỏ, chỉ định 14 người hoạt
động vô thời hạn để bảo vệ Viện Hóa Đạo. Vậy rồi, sự có mặt của
một VPII VHĐ mới, cơ cấu mới trực thuộc Viện Hóa Đạo, được ông
Võ Văn Ái giải thích là để thay thế VHĐ nếu cộng sản tiêu diệt
hết các vị lãnh đạo trong nước, điều này có hợp lý không? Nếu
“đoán mò” cộng sản sẽ mở “chiến dịch nước lũ” thì phải mở rộng
tầm hoạt động của VPII VHĐ, chứ sao lại tập trung hết quyền hạn
vào tay ngài Viện trưởng! Làm vậy không phải là khi cộng sản
giết ngài thì pháp nhân, pháp lý của giáo hội tiêu tan theo hay
sao! Từ chỗ này, ai cũng hiểu rằng, Viện Hóa Đạo chính là ngài
Viện trưởng, ngài Viện trưởng chính là phát ngôn nhân Võ Văn Ái,
Võ Văn Ái chính là VPII VHĐ. Nắm hết VPII VHĐ chưa đủ, ông Võ
Văn Ái còn muốn thông qua Viện Hóa Đạo và HT. Viện trưởng để nắm
luôn cả giáo hội trong nước.
Từ đó, Giáo chỉ số 9 ra đời! Nói rõ hơn, theo các điều qui chiếu
để ban hành giáo chỉ này thì không có gì mới mẻ, tiến bộ hơn
Quyết Định 27 ban hành năm 1992; không những vậy, còn đẩy lùi
các Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hải ngoại từ tư cách
như là những “giáo hội” tầm cỡ quốc gia, trở về thời kỳ “chi bộ”
trực thuộc Viện Hóa Đạo để dễ kiểm soát. Nói thẳng ra, với Giáo
chỉ số 9 này, VPII VHĐ mượn danh nghĩa Viện Hóa Đạo, thông qua
HT. Viện trưởng, để gồm thâu tất cả các giáo hội hải ngoại mà
không cần phải bầu cử, công cử. Giáo chỉ này không nói việc giải
tán nhưng lại ‘chỉ định’ 14 nhân vật do Viện Hóa Đạo I & II hội
ý chọn sẵn, ủy nhiệm các vị này “hoạt động vô thời hạn” trong
một cơ chế mới để tránh việc bầu cử dân chủ. Xin lưu ý điều qui
chiếu thứ 6 (trong 8 điều) của Giáo chỉ số 9 (2007), đã trích
nguyên văn từ Quyết Định 27 (1992), nhưng lại thực hiện trong
chiều hướng nghịch lại. Có nghĩa rằng, 15 năm trước, HT. Thích
Huyền Quang đã nhận thấy là tình hình Phật giáo hải ngoại “cần
được tổ chức qui mô hơn”, thì 15 năm sau, Giáo chỉ số 9 muốn thu
hẹp và làm nhỏ lại. Như vậy, Giáo chỉ số 9 chỉ sao y lại điều
qui chiếu cũ, nhưng thực hiện một hướng khác, phản tiến bộ, phản
dân chủ. Điều qui chiếu này là: “Chiếu tình hình Phật giáo
Việt Nam tại Hải ngoại sau 1975 khác với tình hình trước 1975,
nên nhân sự lãnh đạo và quần chúng Tăng Ni Phật tử, cần được tổ
chức qui mô, hợp lý và thích nghi với hoàn cảnh và xu thế toàn
cầu.” Chỉ xét theo tác dụng của điều qui chiếu này trên nội
dung hai văn bản cũng đủ thấy tác giả Quyết Định 27 và Giáo chỉ
số 9 không thể nào là một.
Mục đích của Thông bạch Hướng dẫn Thi hành Giáo chỉ số 9 là gì?
– Tìm cách giải thích và bổ túc những khuyết điểm của Giáo chỉ
số 9, viện dẫn những nguyên do mơ hồ không chắc chắn
(chiến dịch nước lũ của cộng sản tiêu diệt giáo hội),
mượn lời vu cáo bất nhân không bằng chứng để kết tội những người
không đồng quan điểm
(Bản Phúc trình của HT. Thích Thiện Hạnh),
âm mưu dẫm lên Hiến chương để bắt đầu điều hành giáo hội theo
đường lối độc tài, chuyên quyền
(“Ở trường hợp bất khả kháng, không thể hội họp, không được
đi lại, gặp nhau, bnà bạc, thảo luận như Hiến chương qui định,
thì phải tính tới dùng Giáo chỉ, Quyết định, Thông tư… để điều
hành Phật sự lúc nguy biến” – trích biện pháp 5, Bản phúc
trình), công khai “Giải tán các Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất Hải Ngoại (GHPGVNTN-HN) tại Hoa Kỳ và GHPGVNTN-HN tại
các châu” (điều 3, Thông bạch Hướng dẫn), trắng trợn chỉ định và
áp đặt nhân sự lãnh đạo các giáo hội hải ngoại.
Để nắm rõ tất cả những điều trên, xin đọc kỹ các văn kiện này
trên giấy trắng mực đen, đối chiếu và tham khảo mọi khía cạnh,
chứ không thể chỉ tin lời ông Giác Đức và Võ Văn Ái qua một vài
câu trên đầu môi chót lưỡi. Cử tọa tham dự ngay lúc ấy không có
các văn kiện trên tay thì làm sao biết được ai là người “vu
cáo”, không thực!
Ở phút 6:49, cùng đoạn phim, ông Võ Văn Ái tiếp: “Cuối năm
2005, có một cái Giáo chỉ số 2, công bố thành phần nhân sự của
Viện Hóa Đạo và Viện Tăng Thống ở trong nước, có gần 50 vị cao
tăng. Giáo chỉ số 2 không có tên của TT. Thích Tuệ Sỹ. Thành vì
vậy tất cả những cái đệ tử và thân hữu của TT. Tuệ Sỹ bắt đầu
hình thành cái nhóm gọi là Thân Hữu Già Lam, và mong muốn đưa
TT. Thích Tuệ Sỹ lên nắm cái chức gọi là Viện trưởng Viện Hóa
Đạo.”
Công luận:
Đây chính là lời vu cáo thật trắng trợn! Xin thưa, lý do thành
lập Hội Thân Hữu Già Lam không phải là vì Giáo chỉ số 2 không có
tên TT. Thích Tuệ Sỹ. Dù TT. Thích Tuệ Sỹ có tham gia làm việc
giáo hội hay không, còn ở tù hay được trả tự do, hội này vẫn
được thành lập. Và nên nhớ một điều: hội này được hình thành từ
tháng 3 năm 2004, và chính thức có giấy phép vào cuối năm 2004,
trước Giáo chỉ số 2 (29.11.2005) một năm! Còn điều gọi là
“mong muốn đưa TT. Thích Tuệ Sỹ lên nắm cái chức gọi là Viện
trưởng Viện Hóa Đạo”
thì xin hỏi ông Võ Văn Ái điều mong muốn ấy đã được biểu lộ bằng
lời nói hay hành động nào chưa hay vẫn còn nằm trong dạng “mong
muốn”, và căn cứ vào đâu để biết được cái “mong muốn” này? Nếu
đã biểu lộ ra lời nói thì ở đâu? Có ai trong Hội Thân Hữu Già
Lam tuyên bố không? Nếu có tuyên bố thì ở đâu, bài viết nào,
cuộc đối thoại nào, ai là người nghe, ai là nhân chứng? Trước
quần chúng mà ông Võ Văn Ái dựng chuyện lếu láo như vậy thì có
phải là người có ăn học không? Có phải là phật-tử không?
Ông Võ Văn Ái lại tiếp: “Thành ra vì vậy, lúc đó TT. Thích
Tuệ Sỹ đã viết một cái đơn xin từ chức, và nói rằng cái vai trò
Phó viện trưởng không thích hợp cho ngài, thành ra vì vậy xin từ
chức, nhưng kỳ thực nó có một cái sự bất đồng trong vấn đề chính
kiến của giáo hội.”
Công luận:
Lại dối trá và vu cáo trắng trợn! Xin hỏi TT. Thích Tuệ Sỹ viết
đơn từ chức vào ngày tháng nào? “Công tố viên” có thể nào phổ
biến trước “tòa án nhân dân” và công luận thế giới biết đơn từ
chức với thủ bút và chữ ký của TT. Thích Tuệ Sỹ không? Đơn từ
chức đó gửi cho ai, có nhiều người đọc và biết không hay chỉ là
lời thuật lại từ một người nào đó? Còn nói rằng
“có một sự bất đồng về chính kiến”
phải chăng ông Võ Văn Ái muốn nói GHPGVNTN là một tổ chức chính
trị?
Rồi thì ông Võ Văn Ái say sưa suy nghĩ và nói giùm cho TT. Thích
Tuệ Sỹ và Gs. Lê Mạnh Thát ở phút kế tiếp: “Bởi vì TT. Thích
Tuệ Sỹ cũng như Giáo sư Lê Mạnh Thát nghĩ rằng mình nên thỏa
hiệp với cộng sản. Tôi không nói hai ngài là cộng sản đâu, nhưng
mà hai ngài có một cái luận điểm khác, nghĩ rằng bây giờ mình cứ
tiếp tục đánh cộng sản hoài nó đánh mình chết, tan tành giáo
hội; chi bằng mình thỏa hiệp với nó rồi khi nào mình mạnh lên
mình sẽ quật lại nó. Đó là cái ý thức chính trị của TT. Tuệ Sỹ
và Giáo sư Lê Mạnh Thát, làm cho họ thấy rằng phải nên thỏa hiệp
với cộng sản, và họ lý luận rằng bây giờ đây những cái người đệ
tử và thân hữu của TT. Tuệ Sỹ cũng nói ở hải ngoại rằng 33 năm
rồi tranh đấu mà cộng sản nó vẫn ngồi trên đầu dân; mình tranh
đấu với nó cũng giống như mình đập đầu vào tường vậy. Máu chảy,
bể đầu mình mà cộng sản nó vẫn ngồi yên, thì tại sao mình không
đi một con đường khác, đó là con đường thỏa hiệp.”
Công luận:
Ô hay, công tố viên và tòa án thời nay có thể suy nghĩ giùm cho
bị cáo rồi dựa vào sự suy nghĩ giùm đó để buộc tội bị cáo à! Còn
nếu TT. Thích Tuệ Sỹ và những người đệ tử, thân hữu có tuyên bố
sự suy nghĩ đó ra bằng “lý luận” để trở thành “luận điểm” và
“con đường” rõ rệt rồi thì ở đâu, bài viết nào, cuộc đối thoại
nào, có bao nhiêu người nghe, bao nhiêu người làm chứng, những
người làm chứng có vô tư không tỵ hiềm với bị cáo không?
THAY LỜI KẾT: KẺ SĨ THỜI NAY Ở ĐÂU?
Buổi họp báo còn kéo dài với nhiều câu hỏi gợi ý cho những câu
trả lời tập trung vào việc buộc tội những kẻ vắng mặt, đặc biệt
là TT. Thích Tuệ Sỹ. Ở đây không có thời gian để bàn chi tiết.
Chỉ muốn nói tóm một điều: thực chất những buổi gọi là hội thảo
hay họp báo do VPII VHĐ tổ chức từ những năm gần đây đều là
những buổi đấu tố bất công, phản văn hóa, phi dân chủ, y hệt
cách thức tố tụng của các tòa án man rợ trong lịch sử, nhưng lại
hèn yếu hơn, bởi vì tất cả những phiên tòa này đều vắng mặt bị
cáo, và tất cả những công tố viên hay quan tòa của VPI và VPII
VHĐ không ai đủ tư cách và can đảm để đối mặt, đối chứng với kẻ
tử tù Tuệ Sỹ! Vô úy dũng cảm của những công tố viên này cao lắm
là chạm đến mức nói sau lưng kẻ khác, hùng hổ gán tội khi người
ta không muốn hoặc không có cơ hội để biện hộ. Nói sau lưng một
người trước một người khác đã là hành vi bất xứng của người
trượng phu quân tử, huống gì nói sau lưng một kẻ đang đóng cửa
phiên dịch kinh điển trước hàng ngàn người khác rồi phổ biến
trên báo chí và mạng truyền thông toàn cầu!
Hãy nhìn lại tư cách của những công tố viên và những quan tòa
thời đại. Trong tất cả những người tự chọn những ghế cao quyền
lực của các phiên tòa này, đã có ai có đủ phẩm cách của một kẻ
sĩ, đã có ai từng một lần ngồi tù hoặc sống một ngày trong chế
độ cộng sản để đủ tư cách luận tội, kết tội cộng sản cho người
tử tù Tuệ Sỹ? HT. Thích Hộ Giác đóng kịch theo Đảng và Nhà nước,
chống lại GHPGVNTN để trốn đi vượt biên an toàn năm 1981; Thích
Chánh Lạc xuất dương trước 1975 để tránh tiếng bê bối cá nhân,
là phạm nhân hình sự của tòa án Colorado; ông Giác Đức cao bay
xa chạy trước khi cộng sản chiếm miền Nam, là người bán tăng bán
tục, chuyên môn khoác lác về học vị và thành tích đấu tranh bằng
cái miệng; ông Võ Văn Ái xuất dương từ lâu trước 1975, từng là
kẻ phản chiến chống Mỹ, hoan nghênh sự “thống nhất” đất nước
dưới chế độ cộng sản trong những số Quê Mẹ đầu tiên năm 1976. Và
những tăng sĩ khác như Thích Thiện Tâm, Thích Viên Lý, Thích
Giác Đẳng… lúc còn trong nước có dám mở một lời tố cáo hay chỉ
trích sự tàn ác bất công của cộng sản để bảo vệ người dân thấp
cổ bé họng hay không? Bây giờ, quý vị này đã được an ổn trong
những ngôi chùa nguy nga, được bảo vệ bởi các chính phủ tự do,
dân chủ, lại lớn tiếng buộc tội sau lưng một kẻ đang còn sống
trong chế độ cộng sản, không có hộ khẩu và giấy tờ chính thức
của một công dân, là kẻ chưa từng khiếp sợ cường quyền dù phải
đối diện với cái chết.
Hãy đọc lại một đoạn trong Giác thư của TT. Thích Tuệ Sỹ gửi
chính quyền cộng sản ngày 03 tháng 6 năm 2001, ba năm sau khi
được ra khỏi tù, để thấy những cáo buộc, luận tội, vu hãm của
các ngài trong VPII VHĐ đối với TT. Tuệ Sỹ có giá trị gì hay
không: “Bạo lực không có lương tri và lý trí, cũng không bao
giờ lắng tai nghe tiếng nói của lương tri và lý trí. Vì vậy, tôi
sẽ nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại để phổ biến những
suy nghĩ của tôi đến với tất cả mọi con người, trong cũng như
ngoài nước, mà lương tri chưa bị bôi đen bởi tham vọng đen tối.
Những điều tôi nói đúng hay sai, tôi biết bản thân tôi phải chịu
trách nhiệm, và có thể phải chịu những hình phạt khổ nhục nhất.
Trên hết, lịch sử sẽ không bao giờ tha thứ cho các phần tử trí
thức mà nhân dân đã tốn nhiều công sức bồi dưỡng nhưng vì khiếp
nhược, xu phụ quyền thế, mà phải câm miệng trước những bất công
và thống khổ mà nhân dân phải âm thầm chịu đựng, cho nên, ở đây,
tôi đặt tất cả sinh mạng và phẩm giá của một con người vốn không
có bất cứ sự bảo vệ nào của pháp luật, ngoài nhục hình và sự
chết, trong bàn tay sắt của bạo lực chuyên chính, cũng như nhiều
con người đáng kính và đáng phục khác đã chấp nhận, và đã chết,
để cho lương tri và lý trí của con người Việt Nam còn tồn tại
trong ý nghĩa cao đẹp nhất của dân tộc.” Trước bạo lực
cường quyền thì cứng rắn uy dũng như thế, công khai mượn phương
tiện truyền thông để cáo giác nhà cầm quyền, sẵn sàng chịu chết;
còn đối với người đồng đạo, pháp lữ, không hiểu hoặc cố tình
xuyên tạc công kích mình, TT. Tuệ Sỹ đã giữ sự im lặng. Quý ngài
nghĩ sự im lặng này có ý nghĩa gì? Sợ hãi chăng? Hay là sự nhẫn
nhục, tha thứ?
Chỉ là nói khi cần nói. Đây, hãy nghe TT. Tuệ Sỹ nói với những
người học trò, thật lân mẫn, tha thiết: “Mỗi thế hệ có vấn đề
riêng của nó, do những biến thiên của xã hội chung quanh, do
những biến cố dao động mang tính thời đại. Thế hệ của thầy thừa
hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo
dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn ba mươi tuổi, đã phải
khép lại cổng chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu
sinh lao nhọc như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám, lênh đênh
theo vận nước thăng trầm. Sở học và sở tri cũng cùn mòn theo
tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa có điều gì thất tiết để điếm nhục
tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề
thoái thất, chỉ mong cùng chia xẻ với thế hệ kế thừa.”
(trích Tuệ Sỹ, Tâm Thư gửi Tăng sinh Thừa Thiên Huế, 28.10.2003)
Thật khó có thể tưởng tượng được là ở thời đại ngày nay, trong
một thế giới văn minh, tự do dân chủ, những người mang danh
trong đạo là trưởng tử Như Lai, ngoài đời là những bậc trí thức
mà cái danh luôn được đi kèm với học vị, chức vị như giáo sư
(Ngô Trọng Anh, Lưu Trung Khảo), bình luận gia (Lý Đại Nguyên),
cho đến những phóng viên được bảo đảm hưởng đệ tứ quyền, vân
vân, lại có thể im lặng chấp nhận, biểu đồng tình, hoặc tích cực
phổ biến “bản cáo trạng” của các phiên tòa đấu tố độc tài, phi
nhân, không theo một thể thức tố tụng công minh nào của nhân
loại thời đại.
Tính chất man rợ độc ác của các phiên tòa đấu tố địa chủ trên 50
năm trước tại Bắc Việt là gì? – Là kết tội và giết kẻ khác mà
không cho họ biện hộ, bào chữa. Nhân danh quyền lợi tối thượng
của tổ quốc và nhân dân, người ta luận tội, kết tội và tử hình
kẻ khác một cách bất công. Tính cách bất công ấy mở đường cho
nhiều trường hợp mà nạn nhân bị giết là do tị hiềm cá nhân.
Người ta gay gắt lên án những phiên tòa phi nhân ấy, nhưng có
thể trong vô thức của một số người thời nay, ẩn tàng đâu đó là
bản chất độc tài, cố chấp, độc ác và đố kỵ vẫn còn chảy ở trong
máu, chưa thể gột bỏ được, cho nên mới dễ dàng đồng thuận, hỉ hả
vỗ tay tán thưởng những bất công và vu hãm chụp lên đầu kẻ khác.
Hãy soi lại chính mình, hỡi những sĩ phu, trí thức thời đại. Quý
vị ở đâu, có còn hiện diện trong thời đại nhiễu nhương băng hoại
này không? Quý vị có thể tư tưởng, nghe, thấy và nói lên được
một điều gì cao đẹp và công bằng cho con người trước những bất
công, độc tài, áp chế của các thế lực chính quyền phi nhân, hay
chỉ biết “hú gào tru tréo” (chữ dùng của ông Võ Văn Ái) a dua
theo các phiên tòa rừng rú trá hình bảo vệ đạo pháp và dân tộc?
10.11.2008
Thích Viên Giáo |