THEO
DẤU THIỀN SƯ V (22.04 đến 21.06.2008) : Hoằng pháp Việt Nam
lần thứ ba nhân Đại lễ VESAK 2552 |
Tâm ban
đầu
Tu viện Lộc
Uyển nhìn từ trên cao
Sau một thời gian lui tới tu viện Lộc Uyển để nghe giảng pháp buổi sáng
chủ nhật, hoặc tham dự sinh hoạt cùng tăng đoàn và bằng hữu trong hai
ngày cuối tuần, lần đầu tiên, chúng tôi tham dự trọn vẹn khoá tu học Về
Nguồn dành cho người Việt, suốt 4 ngày, từ chiều thứ tư 10 tới 14 tháng
9, 2008. Xin tường thuật trung thực cùng bạn đọc.
Đây là một khoá tu chỉ gồm toàn người đồng hương, các chỉ dẫn, giảng dạy
đều bằng tiếng Việt; tuy rằng nhóm thanh niên thiếu nữ trẻ tuổi vẫn được
nghe “dịch” qua tiếng Anh để họ hiểu rõ hơn. Nhiều thầy cô Lộc Uyển cho
biết, họ “rất vui” khi được nghe, được nói tiếng Việt thuần túy, lại gặp
toàn “bà con cô bác người mình”. Trong nhiều khoá tu khác tại Lộc Uyển
cũng như tại các tu viện khác thuộc tăng đoàn Làng Mai, nhiều thiền sinh
người Âu Mỹ hơn, nên mọi sinh hoạt đều phải dịch ra nhiều thứ ngoại ngữ
khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý, Hoà Lan...; người nói
tiếng Việt luôn luôn là thiểu số trong khóa.
Trong buổi Pháp thoại hướng dẫn tối ngày 10 tháng 9, hai sư cô Hương
Nghiêm và Trúc Nghiêm đã chỉ dẫn tường tận về các sinh hoạt trong khoá
tu. Mỗi ngày, từ 5 giờ sáng tới 9.30 giờ đêm, chương trình đa số diễn ra
trong im lặng - chỉ trừ giờ Pháp đàm, là thiền sinh được tráo đổi để hỏi
han hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tập. Người mới, người cũ đều được nhắc
nhở về các phương pháp thực tập chánh niệm trong khoá tu, tập cho tâm
quay về với thân khi nghe chuông; thực tập đi, đứng, ngồi, nằm thư dãn
và ăn cơm im lặng trong tỉnh thức, v.v…
“Có thể nhiều người đã đọc sách, đã thuộc lòng những câu kệ hay nghe
giảng nhiều lần về pháp môn thực tập thiền chánh niệm trong mọi sinh
hoạt đó, nhưng khi tham dự khoá tu, họ mới có cơ hội thực tập chung với
tăng đoàn và nhiều ngừơi khác. Năng lượng chung nó mạnh mẽ và mang lại
nhiều kết quả bất ngờ…” Một thiền sinh cho nhà báo biết như vậy.
Ni sư Trung Chính, trụ trì ni viện Trong Sáng, trong buổi pháp thoại đầu
tiên (ngày 11/9) đã giải thích về chủ đề khoá tu Về nguồn. Cô nhắc tới
hai câu thơ của Sư ông Nhất Hạnh: “Gốc rễ tâm linh xin bồi đắp. Suối
nguồn huyết thống nguyện khai thông”. Cô cũng nhắc nhở tới hai phép thực
tập căn bản Áí ngữ và Lắng nghe, để có thể truyền thông tốt đẹp với
người chung quanh. Đó là yếu tố căn bản cho chúng ta “bồi đắp và khai
thông” được gốc rễ tâm linh, suối nguồn huyết thống.
Sư thầy Pháp Dung, trụ trì tăng viện Vững Chãi, nhắc tới hai “em bé”
trong con ngừơi của thầy. Đại ý thầy nói về hai em bé có tánh nết ngược
hẳn nhau, một dễ thương một khó thương; nhưng nếu ta thực tập tỉnh thức
để luôn nhận biết về hai em thì bé khó thương sẽ không có cơ hội lấn
lướt bé dễ thương. Cứ nhận biết hai em bé trong mình, lâu dần, ta có thể
chuyển hoá được, để em khó thương kia ít hoạt động đi, và em dễ thương
lớn lên – và hạnh phúc tự tâm sẽ tăng lên. Thầy Pháp Dung cũng nhắc tới
cái “bệnh” của nhiều người mới thực tập, thường họ hơi quá “hăng hái”.
Khi trở về nhà, họ thường đem những bài mình mới học ra để “chỉnh” ngừơi
thân, trong khi đáng lẽ họ phải thực tập nhìn vào tâm thức để chuyển hóa
chính mình trước. Tu tập không phải để phán xét ngừơi khác, theo lý
thuyết mình mới học được; mà chính là nhận biết những thiếu sót, lỗi lầm
của mình để chuyển đổi.
Theo lời giảng dạy của qúy vị trong tu viện, thì khi ta tới môi trường
tốt để thực tập chung với mọi người (gọi chung là tăng thân), ta tập
cách sống tỉnh thức trong mọi sinh hoạt, để đầu tư cho một cuộc sống an
lạc lâu dài. Khi trở về nhà, hãy nên chú ý về từng lời mình nói, từng
việc mình làm, từng tâm ý mình suy nghĩ. Phương tiện để thực tập là quay
về với hơi thở để có ý thức về từng hơi thở. Đó là phương tiện mà Bụt
Thích Ca và các vị Thầy Tổ, ai cũng dùng, người sơ cơ và người tu lâu
đều phải dùng tới hoài hoài. Nghe qua tưởng là dễ, nhưng khi thực tập
mới hay muốn có ý thức về hơi thở là chuyện rất khó! Nhưng nếu ai kiên
trì thực tập thì từ thói quen ý thức được hơi thở của mình, họ sẽ có
thói quen nhận biết được các cảm thọ và tâm ý. Khi gặp chuyện khó khăn,
họ sẽ biết dừng lại thở, có bình tĩnh và sáng suốt để nhìn sâu vào vấn
đề, có được giải pháp tốt đẹp, hơn là người không thực tập, thường bị
các cảm thọ sân si nắm đầu…
“Chuyện này không dễ và không xảy ra ngày hôm sau hoặc trong một vài
năm, tuy rằng sau khi nghe giảng, ai cũng có thể “Ngộ” ngay – có thể
hiểu đạo tức khắc. Nhưng, từ hiểu đạo tới sống đạo, nó không đơn giản
đâu!...” Một thiền sinh tu đã hơn mười năm tâm sự với nhà báo như vậy.
Đó là lý do mỗi khi có thể thu xếp là vị đó lại về tham dự khoá tu, dù
cũng vẫn chỉ nghe dạy Thở vào biết, Thở ra biết v.v…
“Mỗi lần tham dự khoá tu, tôi lại thấy mình tiến bộ được một chút – vì
vậy, nghe giảng pháp thấm thía hơn, hiểu sâu hơn , và sự an lạc cũng
tăng dần. Tôi biết là mình đi đúng đường, không cần phải đi tìm pháp môn
nào khác nữa…Vấn đề là mình có thực tập để Nhận Biết được con người mình
(cả thân lẫn tâm) hay không? Nếu không thực tập, chỉ nghe giảng thôi,
thì dù có tinh thông nhiều kinh điển, người ta cũng chưa chắc đã chuyển
đổi được những tâm thức tiêu cực, và khó mà có được sự an lạc chân chất
do thiền quán đem lại….”
Trong Pháp thoại ngày 12 tháng 9, sư thầy Pháp Hội đã nói: “Có lẽ ngày
nay, tại đây, nhiều người cảm thấy khó khăn khi muốn tu học, vì có quá
nhiều pháp môn, không biết nên chọn phép thực tập nào cho thích hợp?”.
Theo kinh nghiệm tu tập của thầy (xuất gia trên 12 năm), con đường
chuyển hoá căn bản nhất là Kinh Tứ Niệm Xứ. Thầy Pháp Hội giới hạn trong
buổi giảng, chỉ nói tới một phần kinh, về “Quán cảm thọ” (trong thọ) mà
thôi. Ví ba loại cảm thọ (lạc thọ, khổ thọ, xả thọ, tức vui, buồn hay
không vui không buồn) với những toa xe lửa, trên một con tàu chạy rất
nhanh, thầy Pháp Hội đưa hình ảnh một ngừơi không tu học, là một người
đứng dưới sân ga, chỉ nhìn thoáng thấy con tàu có những khung cửa sổ, mà
không biết các cửa sổ đó ra sao. Các cảm thọ chạy qua đầu chúng ta với
tốc độ rất cao, nếu không tập thở, không có thói quen nhận biết mọi sự
vật bên trong và bên ngoài thì ta không nhận diện được các vui buồn.
Bình thường, ta bị chìm đắm trong các cảm thọ đó. Người thực tập chánh
niệm, thì giống như người lái một chiếc xe chạy song song với đoàn tàu,
họ có thể sẽ nhận biết được các cửa số cảm thọ kia, lờ mờ hay rõ ràng,
tùy vào tốc độ, nghĩa là tuỳ vào năng lượng tỉnh thức nơi họ.
Theo thầy Pháp Hội: Khi vui biết, khi buồn biết, nếu thực tập giỏi,
ngừơi có chánh niệm nhận biết được từng chi tiết của các cảm thọ trong
mình, và hơn thế nữa, họ còn nhìn sâu được vào sinh hoạt phiá trong các
cửa sổ của toa tàu cao tốc kia. Khi tu tập đàng hoàng, ta có thể nhận
diện được các cảm thọ khổ hay vui và cả gốc rễ của chúng nữa. “Năng
luợng Chánh niệm của người tu tập giỏi rất hùng hậu, nó có công năng
chuyển hoá và hàn gắn mọi vết thương, nên các cảm thọ tiêu cực ngày
càng nhỏ đi, thiền giả càng có nhiều Tự Do hơn. Đây là thứ tự do của
ngừơi không vướng mắc, tự do của những con ngừơi giải thoát…”
Buổi tối ngày 12/9, đại chúng được cười rất vui với miếng móp rửa chén
(sponge) mà sư cô Đẳng Nghiêm đã dùng để hướng dẫn phương pháp Làm Mới
của tăng đoàn Làng Mai. (Làm mới: Beginning anew – Reconciliation). Sư
cô giảng về cách giải hòa giữa hai người thân trong gia đình hay trong
các liên hệ khác (bạn bè - đồng nghiệp). Theo sư cô, trước hết, chúng ta
cần phải tự làm mới, làm sạch chính mình, thì mới có đủ năng lượng để
nói chuyện với đối tượng - người mà ta tin là đã gây ra trong ta sự khó
chịu, giận hờn.
Tương tự như ta phải rửa sạch miếng sponge trước khi dùng nó để làm sạch
vật khác. Chúng ta cần thực tập bát chánh đạo, nhất là Chánh
niệm, Chánh kiến, và Chánh tư duy để có thể nhận diện về những tâm hành
tiêu cực, tích cực trong con người mình. Chỉ khi chúng ta đã biết nhìn
cho sâu để hiểu được những lỗi lầm do mình gây ra trong liên hệ đó, thì
mới có thể “làm mới”, tái tạo lại sự truyền thông với ngừơi thân.
Theo cô Đẳng Nghiêm, trong thiên nhiên, cây cỏ và các sinh vật đều di
truyền lại những mẫu mã sẵn có cho các lứa sau. Cây cành nhỏ mang đủ
tánh chất, hình dạng của các cây cành mẹ. Con người cũng vậy, con cháu
là sự tiếp nối của cha mẹ, ông bà. Con cái có huyết thống của cha mẹ nên
mang sẵn trong họ những “pattern” (kiểu mẫu) vui, buồn giống như cha mẹ.
Nhưng các thế hệ con cháu không bị thụ động, phải theo các mẫu mã sẵn
của thế hệ trước, như trường hợp cỏ cây hay súc vật. Đây là sự khác biệt
giữa người và các sinh vật khác: Cỏ cây không tự chủ được sự thay đổi,
chuyển hoá mà thiên nhiên (và nay con ngừơi) mới là yếu tố chỉ huy,
khiến cho chúng đổi thay – như người đã trồng ra các loại trái cây không
hạt, lai giống hai loại đào và mận thành trái nectarine…. Trong khi đó,
con ngừơi, tự họ, có thể thay đổi được những tâm tính do cha mẹ truyền
lại khi họ tu học. Một khi họ chuyển hoá tức là con cháu họ cũng được
chuyển hóa.
Sau nhiều năm tu học, sư cô Đẳng Nghiêm cũng như quí thầy cô khác trong
tăng đoàn Làng Mai, đã từng lắng nghe về bao chuyện khổ đau vì gia đình
thiếu truyền thông. Với những thời khóa thực tập niêm mật và với tri
kiến của của mình, quý thầy cô ngày nay tỏ ra rất kinh nghiệm trong việc
giảng dạy. Nhiều người trong khoá tu này đã chuyển hóa thấy rõ. Như nét
mặt chị Hoàng đổi từ âu sầu sang tươi vui; như hai chị em cô Phan đã ôm
được nhau trong sự cảm thông sau khi giải toả được giận hờn.
Ngay trong buổi giảng về phép Làm Mới, hai cha con em Bo và bác Nguyễn
đã không ngại ngần, lên “làm mới” với nhau trước mặt mọi người. Bác
Nguyễn có việc về Việt Nam một mình mấy tháng, sau khi trở về Mỹ, các
con bác nghi là cha đã có “đào”, tuy không dám nói thẳng điều này ra.
Bác Nguyễn cho biết bác gái rất hiền lành, nhưng cô con gái này thì có
vẻ nghi ngại cha nhiều chuyện, luôn luôn nói tới Sida, thử máu v.v...
Sau khi thực tập phép “tưới hoa” (khen ngợi con hiếu thảo, giỏi giang),
bác Nguyễn hỏi và khuyến khích con gái trả lời cho bác bằng cách gật đầu
hay lắc đầu, để bác biết rõ được cái tâm nghi ngờ của con. Bác là người
rất can đảm và thành thật, đã tả cảnh tả tình những hấp lực của lời nói
và thái độ ngọt ngào nơi các cô gái bên xứ nhà…” Nhưng nhờ sự bảo hộ của
Phật pháp, nhờ mấy khóa tu được thực tập trong tu viện Lộc Uyển đây, nên
ba mới thoát hiểm (!)…Hôm nay, ba có thể nói với con , trước mặt quý
thầy cô và đại chúng đây, là ba không có làm chuyện gì sai trái hết! Ba
đã nhận thức được sự giả dối trong những hành xử và ngôn ngữ ngọt ngào
của mấy người bên kia, không phải là sự thật thà hiền lành giống như má
con…dù đôi khi má con…không ái ngữ cho lắm. Vậy nên ba không bị sa ngã!”
Cuối cùng, hai cha con em Bo đã ôm nhau, cảm thông và hết nghi ngờ. Nhà
báo được biết, sau khi tham dự khoá tu đầu tiên tại Lộc Uyển cách đây 3
năm, em Bo đã thúc dục và ghi danh, đưa được cha mẹ về tu tập hai lần
(dù em phải đi làm, không dự cùng được). Gia đình em từ đó ngày càng
thêm an vui, cha mẹ đỡ gây gổ nhau. Và khoá nay, “em rất vui được cha mẹ
tham dự cùng. Cha là người em rất phục, ông nguyên là sĩ quan quân đội
VNCH, nhưng ông đi VN lâu quá nên cả nhà nghi ngờ…cho tới bữa nay thì
hết! Em rất sung sướng nghe ba nói… ”
Hai buổi pháp thoại chót là bài giảng của thượng tọa Phước Tịnh. Thượng
toạ giảng về Tự Tánh Niết Bàn có sẵn trong tâm thức mỗi ngưòi. “Về nguồn
là trở về với Bản lai diện mục, về với Phật tánh, Chân tâm v.v…Chánh
niệm hay cái biết của mình chính là nguồn linh tánh giác, là nguồn gốc
của thọ mạng vô sinh”. Thượng toạ cũng cho rằng Hạnh phúc là một sinh
vật khó nuôi, khó dưỡng, mà ta lại dễ bị đánh mất; dù rằng Hạnh phúc là
điều sẵn có, vũ trụ đã cài sẵn trong tâm chúng ta rồi… Trong khi đó, nỗi
đau khổ, như những viên độc dược, có thể tàn hại thân tâm, cắt ngắn sinh
mạng, thì lại là thứ được chúng ta cất giữ kỹ càng, lâu lâu đem ra xài
lại!... Theo thượng toạ, người tu là người nhận biết những cảm thọ,
những tiếng nói thì thầm trong tâm mình. Người tu biết tự chăm sóc cái
thân, biết chạm tay vào giác tánh đang nằm ngủ trong mình. Họ cũng coi
những cảm thọ, tư duy của họ chỉ như khách vãng lai, đến rồi đi, trong
khi sự nhận biết của ta mới là ông chủ, là Phật tánh. Sống được với sự
nhận biết thường trực, người Phật tử nhập được vào dòng Dự lưu của thánh
quả.
Trong một bài pháp thoại tháng trước, thượng toạ Phước Tịnh nói tới
những thuận duyên mà tu viện Lộc Uyển dành cho các Phật tử khi họ về đây
tu học: ngoài không gian bao la, đẹp đẽ của núi rừng, còn có năng lượng
thanh tịnh của qúy tăng ni tu học nghiêm túc nơi đây. Chỉ nhìn các thầy
cô đi đứng, làm việc trong chánh niệm, là mình có bao cảm hứng để thực
tập rồi. “Vì thế bài pháp thoại không quan trọng lắm đâu!”. Thượng toạ
nói như muốn nhấn mạnh tới sự thực tập.
Trong buổi văn nghệ đêm Trung thu tại thiền đường Thái Bình Dương, vào
tối thứ bảy
13/9/2008,
các “gia đình” (nhóm) Tiá Tô, Mồng Tơi, Kinh Giới. Thià là, Khoai mì vv…
đua nhau trổ tài múa, hát và diễn kịch. Tuy thì giờ tập dượt không có
bao nhiêu, nhưng các nghệ sĩ nghiệp dư (gồm cả một số tăng, ni) đã khiến
cho khán giả thật vui, nhiều khi cười nghiêng ngửa. Bánh trung thu và
nước nóng thơm mùi xả tô điểm thêm cho đêm văn nghệ. Sau khi chương
trình văn nghệ chấm dứt, các thiền sinh lớn nhỏ cùng rước đèn ngắm
trăng. Trên con đường làng ở Lộc Uyển, xa hẳn đèn điện, mọi người ngồi
xuống và dưới ánh trăng rằm Trung thu vằng vặc, hai nhóm thi đua với
nhau, hát hò cho tới khuya.
Nhà báo được biết, một số thiền sinh mới đã chuyển hoá được niềm đau nỗi
khổ của họ. Một số xin quy y ngũ giới và một số đi tìm các nhóm tăng
thân để có bạn tu học theo, sau khi rời tu viện. Riêng chị PUN thì rất
đắc ý về bài hát Tâm Ban Đầu mà chị đã cùng các bạn chị đặt lời cho một
tình khúc nổi tiếng của cố nhạc sĩ Lê Uyên Phương. Chị PUN cho biết, sau
rất nhiều khoá tu học với tăng đoàn Làng Mai từ thập niên 1980 tới nay,
chị vẫn cảm nhận được những điều mới lạ mỗi khi về tu viện thực tập.
Khoá này chị nhất định thực hành nghiêm chỉnh, tham dự tất cả mọi sinh
hoạt – như lần đầu tiên. Với cái tâm ban đầu,
chị được hưởng nhiều an lạc hạnh phúc, hơn hẳn những khoá tu
trước,
vì trong đầu chị không có sự so sánh và đòi hỏi nào cả, cũng không có
tiếng thì thầm trong đầu “biết rồi, khổ lắm nói mãi”. Chị thấy bài giảng
nào cũng lợi lạc như bài học mới vì chị thực sự chưa thực tập chuyên cần
đủ. Thay vì “Xin yêu như yêu lần đầu”, lời bài hát được đổi cho
hợp với việc tu tập của khoá tu Về Nguồn – và tựa đổi là
Tâm Ban Đầu:
“Xin
tu như tu lần đầu
Xin tu mãi mãi về sau
Dù công phu chưa được sâu
Xin giữ mãi tâm ban đầu.
Xin
tu như tu lần đầu
Tu như chưa tu lần nào
Từng bước ta tập đi với nhau.
«Khi
tu thân em nhẹ nhàng
Khi tu tâm luôn bình an
Trời cao mây xanh thật xanh
Chim hót líu lo trên cành
Xin
tu như tu lần đầu
Tu như chưa tu lần nào
Nhận biết bao tình thương ngọt ngào.
Ngày xưa mê say phồn hoa
Mê áo gấm sáng lóng lánh
Tâm phán xét, không yêu thương
Tâm khép kín, không bao dung được người
Niềm vui hôm nay trào dân
Cánh hoa dù mong manh
Cũng đem lại niềm tin vững vàng…
Từng
bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|
|
ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT
CHUYÊN MỤC :
PHẬT SỰ
VU LAN 2551
VESAK 2552 (2008)
VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN
ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA
THEO DẤU THIỀN SƯ
3
|
4
|
5
|