.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                          TRANG CHÍNH

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

BBC NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH

Thích Thích Nhất Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một  văn nhân, một thi nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán chạy nhất“ (bestsellers)  như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự  Tỉnh thức (The Miracle of Mindulness), Chúa  ngàn  đời, Bụt ngàn đời (Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger)

Thầy Thích Nhất Hạnh  sanh năm 1926, Thầy xuất gia năm 16 tuổi. Chỉ 8 năm sau Thầy dựng lên Trung tâm  Phật giáo  Ấn quang (An Quang Buddhist Institute) tại Sài Gòn. Năm 1961 Thích Thích Nhất Hạnh -người được những  môn đồ  gọi là Thầy- đã xuất ngoại du học tại Hoa Kỳ và giảng dạy môn Tôn giáo đối chiếu tại các đại học Columbia và Princeton. Hai năm sau Thầy quay trở về quê hương để góp phần hướng dẫn  nỗ lực hòa bình của Phật giáo.

Rằm tháng hai năm 1964 Thầy thành lập Dòng tu Tiếp hiện (the Order of Interbeing), vào đúng giai đoạn chiến tranh leo thang khốc liệt tại Việt Nam, lúc mà  giáo lý của Đức Thế Tôn cần thiết vô cùng để đối đầu lại với hận thù, bạo động và chia rẽ đang bao phủ khắp quê nhà. Vào giai đoạn này. Dòng tu bao gồm một số nhỏ những thành viên chí nguyện dấn thân vào những công tác xã hội và hành trì theo lý tưởng của Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời. Dòng tu được xây dựng trên căn bản của 14 giới Tiếp Hiện, cũng còn được gọi là những phương pháp thực tập chánh nhiệm. Cũng trong năm ấy với một nhóm những giảng sư và sinh viên đại học tại Việt nam ngài thành lập nên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo những nhóm tác viên trẻ tuổi dấn thân vào những làng mạc xa xôi giúp xây cất  những trường học, những bệnh xá và gầy dựng lại những thôn xóm đã bị hủy diêt vì đạn bom. [ Tháng 2 năm 1964 Thầy thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học tại Sài Gòn, và chỉ non 14 tháng sau nó được Thầy nâng lên thành Viện đại học Vạn Hạnh (bổ túc của Phù Sa) ].

Hai năm sau, vào năm 1966, Thầy rời Việt nam ra xứ ngoài để vận động kêu gọi hòa bình. Nhà cầm quyền  đương thời vì thế cấm cửa không cho phép Thầy  hồi hương. Năm 1967 khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy, ông Martin Luther King đã phát biểu:  "Ông Thầy tu mãnh khảnh xuất thân từ Việt nam này, ngài là một học giả uyên thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng nên một tượng đài cho tinh thần  hòa đồng, tình huynh đệ  và nhân bản".

Năm 1969 Thầy hướng dẫn Phái đoàn Hòa bình Phật giáo tham dự Hội nghị Hòa bình Paris và thành lập Unified Buddhist Church (UBC) tại Pháp quốc. Lúc khởi đầu Giáo hội đặt cơ sở tại Thiền Đường Sweet Potatoes năm 1975. Pháp Từ của Thầy được truyền bá mỗi lúc một rộng rãi và tăng đoàn phát triển mạnh mẽ. Năm 1982 Làng Mai (Plum Village) được thành lập. Tọa lạc tại miền nam nước Pháp, Làng Mai là một Trung tâm Thiền tập và là cơ sở của Dòng tu Tiếp hiện. Mỗi năm hàng ngàn người khắp nơi trên thế giới từ những truyền thống tâm linh khác nhau khắp nơi đổ về Làng Mai để nghe pháp thoại và tu tập. Đây là trú xứ thường xuyên của Tăng đoàn (đoàn thể của những người tu tập) gồm khoảng 150 các Thầy, các sư cô cùng các cư sĩ thường trú (Số thiền sinh gia tăng theo thời gian, tính đến nay thì đã vượt xa con số 150 / PS bổ túc).

Điểm nổi bật của pháp môn Thầy Thích Nhất Hạnh trao truyến là việc nhấn mạnh đến yếu tố hạnh phúc, hạnh nguyện  dấn thân vào đời và áp dụng được phương pháp thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Chánh niệm là có mặt trong phút giây hiện tại để có thể có thể nhận diện được những gì đang xẩy ra trong thân, trong tâm ta và cả trong thế giới chung quanh ta. Pháp môn Thầy dạy chú trọng đến thực tập hơi thở và tỉnh thức đầy chánh niệm từng hơi thở một. Thầy vẫn thường nhắc nhở đệ tử, bất cứ một việc gì xẩy ra đều có thể là cơ hội ngàn vàng để ta có thể tiếp xúc được với thực tại nhiệm mầu, cả đến như chuyện rửa bát hay lái xe. Thầy dạy chúng ta cần nên chấm dứt cuộc nội chiến trong tâm mình, lắng dịu lại cái bung xung trong tâm mình và trở về với giây phút hiện tại. Khi ta được an lành, khi ta hạnh phúc thì ta có thể mỉm nụ cười và ai ai trong gia đình, trong toàn thể xã hội quanh ta đều được hưởng lợi lạc từ niềm an lành của ta. Nhờ thế ta có thể  thực chứng ý nghĩa câu "Không có con đường đẫn tới hạnh phúc – Hạnh phúc là Con đường".

thichnhathanh.shtml

 

 THEO DẤU THIỀN SƯ V

 

Thiền Làng Mai

  • PSN - 7.11.2008

LTS: Được bắt nhịp và bám rễ trên mảnh đất Tây phương từ khá sớm, phương pháp thiền do Thiền sư Nhất Hạnh hướng dẫn đã tạo nên một ảnh hưởng rất lớn trong xu hướng tu tập của nhiều giới, nhiều người. Trong khuôn khổ phác thảo một bức tranh chung về Thiền học Việt Nam đương đại, NSGN xin trân trọng giới thiệu cuộc phỏng vấn với Thiền sư Nhất Hạnh xoay quanh chủ đề về Thiền phái mà Thiền sư chính là người khai phát thành công tại Tây phương và nhiều quốc gia trên thế giới. NSGN

Xin Thiền sư cho biết, nhân duyên nào khiến Thiền sư chọn pháp môn tu Thiền trong đường hướng tu tập của mình?

Hồi còn là học Tăng, tôi đã có dịp thực tập các phép Chỉ và Quán của thầy Trí Giả, các pháp quán Ngũ Ðình Tâm, và phép niệm Phật, nhưng một phần vì sự học hỏi còn chưa được sâu sắc, một phần vì sự hướng dẫn của các vị thầy y chỉ lúc ấy còn sơ sài, nên kết quả không có gì đáng kể. Lớn lên, tôi có dịp nghiên cứu về Thiền Tổ Sư, Thiền Công Án, Thiền Mặc Chiếu, và cũng đã cố gắng đem ra thực tập, nhưng cũng không đạt được những kết quả mình mong muốn. Mãi đến khi phải đối diện với các tình trạng chiến tranh, đất nước chia đôi, mẹ mất, sa sút tinh thần, mất ngủ, tôi mới quyết liệt nắm lấy pháp môn An Ban Thủ Ý mà thực tập để sống sót. Nhờ đem thiền Ðông độ trở về tắm ở dòng suối của Phật giáo Nguyên thỉ nên tôi mới tinh lọc được giá trị chân thật của Phật giáo Ðại thừa. Những thiền kinh căn bản của Nguyên thỉ như Niệm Xứ, Niệm Thân, An Ban Thủ Ý, A Lê Xá, An Nan Thuyết v.v... trong Hán tạng cũng như trong Pali tạng đã được tôi nghiên cứu kỹ lưỡng để đem ra thực tập. Giáo nghĩa hiện pháp lạc trú, các phép điều thân, điều tức, nhận diện cảm thọ, cảm xúc, quán chiếu tự tính các pháp v.v... hiện ra như một bó đuốc soi đường. Lúc bấy giờ tôi mới thấy được tính cách thiết dụng các kinh điển đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cương, và tính cách nhất trí giữa hai truyền thống Nguyên thỉ và Ðại thừa. Tác phẩm nhỏ bé Bông Hồng Cài Áo là hoa trái đầu tiên của sự thực tập ấy. Tác phẩm Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức, xuất bản lần đầu tại Việt Nam và Hoa Kỳ năm 1974 là chứng tích của sự thực tập, 1956-1972 là giai đoạn thai nghén và hình thành Thiền Làng Mai.
 

Thưa, quan điểm về Thiền của Ngài là gì, và nền tảng lý luận về phương pháp ấy?

Tôi nghĩ, bất cứ pháp môn nào có sử dụng năng lượng của Niệm và của Ðịnh đều mang tính chất thiền, kể cả các pháp môn Niệm Bụt và Trì Chú. Niệm và Ðịnh nếu thực sự có mặt thì sẽ đem tới Tuệ. Tuệ luôn luôn làm phát khởi Từ và Bi. Chính Tuệ sẽ tháo gỡ được những khó khăn của bản thân và giúp tháo gỡ những khó khăn của những người khác. Thiền có công năng chuyển hóa và trị liệu cho mình và cho người. Giải thoát trước hết là vượt thoát các tâm hành giận hờn, bế tắc, lo lắng, sợ hãi, tuyệt vọng, những khó khăn trong nội tâm và trong hoàn cảnh, giải tỏa được hiểu lầm, thực hiện được hòa giải và tha thứ. Vì vậy, thiền phải có tính cách thực dụng. Mình tháo gỡ được cho mình rồi mình mới có khả năng giúp người khác tháo gỡ. Công phu cũng như thành quả phải tập trung cả vào giờ phút hiện tại. Ðọc lại Lâm Tế Lục, mình mới thấy được rõ ràng cái quan trọng của giây phút hiện tại: tùy xứ tác chủ, lập xứ tắc chân, phép lạ là đi ngay trên mặt đất. Vì lý do đó cho nên Thiền có thể đi đôi tuyệt hảo với Tịnh: nếu tâm có Niệm và Ðịnh thì Tịnh Ðộ hiện tiền, không cần đi tìm Tịnh Ðộ ở tương lai và ở một nơi nào khác. Giáo lý Duy Tâm Tịnh Ðộ đã cung cấp nền tảng cho sự thực tập này: nếu tâm tịnh là độ tịnh, ở đâu mình cũng có thể ngồi ở tịnh độ, đi trong tịnh độ. Có tịnh độ bây giờ thì chắc chắn cũng có tịnh độ trong tương lai. Vì vậy người tu thiền cảm thấy thoải mái khi trì tụng bài sám: Nương tựa A Di Ðà, trong bản môn mầu nhiệm (Nhật Tụng Thiền Môn 2000). Các vị tổ sư như Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều có nói: Di Ðà là tự tính, là pháp thân của chính ta, không phải là một thực tại nằm bên ngoài.


Một khóa tu ngắn ngày tại Đà Nẵng năm 2007
 

Nếu như có thể, xin khái quát phương thức tu tập căn bản của dòng Thiền mà Thiền sư hướng dẫn - bao gồm những gì, quá trình tu tập và cùng những ích lợi cụ thể thiết thực của nó trong đời sống hiện đại?

Sự thực tập của giới xuất gia và cả của giới không xuất gia là nắm cho vững hơi thở, bước chân và an trú trong giây phút hiện tại để nhận diện tất cả những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống để được nuôi dưỡng, nhận diện những khổ đau để làm vơi nhẹ và cuối cùng để chuyển hóa và trị liệu: năng lượng để làm các công việc này là Niệm và Ðịnh. Mỗi giây phút của sự thực tập hằng ngày là để chế tác Niệm và Ðịnh. Niệm và Ðịnh đưa tới hiểu (Tuệ) và thương (Từ và Bi). Chính cái vốn liếng hiểu và thương ấy giúp mình tháo gỡ được những khó khăn cho mình và cho người. Các khóa tu tổ chức hoặc 90 ngày, 21 ngày, 7 ngày, 5 ngày, 3 ngày hay 1 ngày đều là để thực tập chế tác niệm, định và tuệ; những giờ ngồi thiền, đi thiền, chấp tác, pháp đàm, địa xúc, làm mới, xướng tụng... đều nhắm vào mục đích ấy. Phương pháp lắng nghe và ái ngữ giúp mình điều chỉnh tri giác sai lầm, giúp người khác điều chỉnh tri giác sai lầm, phục hồi tình huynh đệ, nuôi dưỡng hiểu và thương. Những khóa tu như thế đã được tổ chức khắp nơi, thường thường phải thuê các trường Ðại Học trong dịp Hè mới có đủ chỗ cho cả ngàn thiền sinh về tu tập trong nhiều ngày. Năng lượng hùng hậu của một tăng thân có tu có học lâu ngày rất cần thiết cho sự thành công của những khóa tu lớn như thế. Ít nhất phải có một tăng thân gồm có 60 vị vừa xuất gia vừa tại gia mới hướng dẫn được một khóa tu như thế. Khóa nào cũng chứng kiến sự chuyển hóa của những cặp vợ chồng, cha con, mẹ con, đem lại hòa giải, tha thứ, hạnh phúc. Sau những khóa tu như thế ai cũng muốn khi trở về địa phương thành lập một tăng thân để tiếp tục nuôi dưỡng sự thực tập cho bền bỉ. Hiện có cả hàng ngàn tăng thân như thế tại các nước Âu, Mỹ, Á và Úc. Các thành phố lớn như New York, London, Los Angeles đều có ít nhất mười tăng thân. Tăng thân là những nhóm người thực tập theo pháp môn Làng Mai, thường được gọi là Communities of Mindful Living. Từ Ðiển Làng Mai cũng như các web sites trang nhà liên hệ tới Làng đều cung cấp địa chỉ của những tăng thân như thế để mọi người có thể tìm tới tham dự.


Hàng vạn đồng bào định tâm niệm danh hiệu đức Bồ tát Quan Thế Âm
trước khi nghe Thiền Sư nói Pháp thoại trong lễ hội đức Bồ Tát 2007 ở Đà Nẵng.

Thiền sinh thực tập theo pháp môn Làng Mai đều thọ trì Năm Giới và Giới Tiếp Hiện. Trong pháp tu Làng Mai, Niệm là bản chất của Giới. Cho nên vị nào thực tập Năm Giới và Mười Bốn Giới và các Uy Nghi cho vững vàng thì vị ấy sẽ dễ thành công hơn trong công phu thiền tập. Có những khóa tu được tổ chức cho những giới chức nghiệp đặc biệt như các vị chuyên về Tâm Lý Trị Liệu, các vị Giáo Chức, các vị chuyên về Bảo Hộ Sinh Môi, các vị chuyên về ngành An Ninh, các vị Văn Nghệ Sĩ, Diễn viên và Sản xuất Ðiện Ảnh, các vị Doanh Nhân, các vị Dân Biểu Quốc Hội v.. v... Trước khi mở những khóa đặc biệt như thế, mình phải học hỏi về những khó khăn và khổ đau của họ để có thể đưa ra những pháp môn thực tập thích hợp và hữu hiệu.


Phương pháp tu Thiền mà Thiền sư đang hướng dẫn có thể gọi là gì?

Làng Mai chưa từng có ý đặt tên cho sự thực tập của mình. Các bạn thiền sinh Tây phương khi viết và nói về Làng Mai hay dùng danh từ “Thiền Làng Mai” hoặc “In the tradition of Thích Nhất Hạnh”. Có một hôm nhìn lại tôi bỗng ngạc nhiên thấy sao mà pháp môn Làng Mai đi đúng con đường Thiền Sư Tăng Hội đã vạch cách đây 18 thế kỷ quá: sử dụng các kinh thiền nguyên thỉ làm nền tảng cho sự thực tập, nhưng với tinh thần của Phật giáo Ðại Thừa! (Thiền Sư Tăng Hội có nói : An Ban là đại thừa của chư Phật, có mục đích cứu độ chúng sanh). Tôi cũng thấy sao mà pháp môn tu tập Làng Mai trung thực với tinh thần Lâm Tế Lục một cách không ngờ được như thế! Ðây là tình cờ hay là có chủ ý? Có chủ ý thì tôi thấy mình chưa bao giờ có chủ ý, nhưng tình cờ thì tôi không tin là tình cờ được. Không có cái gì tình cờ. Phải có những động lực nào thúc đẩy trong chiều sâu tâm thức. Tôi nghĩ đó là năng lượng dẫn dắt của chư vị tổ sư.


Xin Thiền sư cho biết sự phát triển hiện nay của dòng Thiền do thiền sư hướng dẫn, trên thế giới và Việt Nam?

Cho đến ngày 06.08.2008, chúng tôi đã độ được 515 người xuất gia của 31 quốc tịch, và đào tạo được suýt soát 300 vị giáo thọ vừa xuất gia, vừa tại gia. Số lượng này còn quá ít không thể thỏa mãn được những nhu cầu khắp nơi. Có những trung tâm tu học đã được thiết lập tại Tây Phương : Các Tu Viện Bích Nham (Nữu Ước), Lộc Uyển (Cali), Rừng Phong, Thanh Sơn, (Vermont), Mộc Lan (Mississipi) ở Hoa Kỳ, Làng Cây Phong ở Canada, Làng Sen Búp, Làng Trúc Xanh ở Úc, các trung tâm Từ Thị ở Bavaria, Trung Tâm Suối Thương ở Berlin (Ðức). Pháp môn Làng Mai hiện đang được thực tập ở ít nhất là 50 quốc gia. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu (The European Institute of Applied Buddhism) gọi tắt là EIAB vừa được thiết lập ở Ðức để góp phần đào tạo thêm các vị Giáo Thọ.


Liên hệ giữa Thiền và Giáo như thế nào trong pháp môn Làng Mai ?

Nhìn vào cách học và thực tập ở Làng Mai ta có thể thấy được sự nhất trí của Thiền và Giáo một cách rõ ràng. Các kiến thức về Duy Biểu do các tác phẩm Duy Thức Học cung cấp, các kiến thức về A Tỳ Ðạt Ma do các bộ Luận như Câu Xá, Thành Thật, Thanh Tịnh Ðạo, Giải Thoát Ðạo v..v.. đều có ích lợi cho sự thực tập Thiền bởi vì chúng giúp cho hành giả biết rõ hơn về cách vận hành của tâm thức. Thiền sư Thường Chiếu ngày xưa đã nói: “Biết rõ về cách vận hành của tâm thức thì sự thực tập trở nên dễ dàng hơn”. Các kinh điển lớn của Ðại Thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Pháp Hoa đều đóng một vai trò quan trọng trong thiền tập. Khi học các kinh này, thiền sinh luôn luôn phải đặt câu hỏi: Những giáo lý uyên thâm trong kinh này phải được áp dụng như thế nào để tháo gỡ những khó khăn nội tâm mà hành giả đang mắc phải ? Cho nên giữa cái học và cái hành có một liên hệ rất thân thiết. Sách Nhật Tụng Thiền Môn có một buổi Công Phu Niệm Bụt với màu sắc Tịnh Ðộ Tông và một buổi Công Phu Thí Thực có màu sắc Mật Tông. Hành giả cảm thấy thoải mái với cả hai truyền thống này. Chắc quý vị còn nhớ là năm 2007 các thiền sinh Làng Mai đã tham dự các Ðại Trai Ðàn Chẩn Tế Bình Ðẳng tại Ba Miền Việt Nam với rất nhiều thoải mái trong có các buổi thiền tọa, thiền hành, pháp thoại... Các kiến thức về khoa sinh học mới, nhất là về khoa thần kinh não bộ, về khoa lượng tử học cũng như kinh nghiệm của các trường phái tâm lý trị liệu Tây Phương cũng đóng góp rất nhiều cho sự giảng dạy và thực tập ở Làng Mai. Thiền Làng Mai không có tính trừu tượng, trái lại rất cụ thể: thiền sinh nào cũng đều thực tập thiền hướng dẫn một thời gian mới có thể tự quán chiếu một mình; Các sách tập thiền căn bản như Sen Búp Từng Cánh Hé, Phép Lạ của sự Tỉnh Thức, Từng Bước Nở Hoa Sen, Chỉ Nam Thiền Tập cho Người Trẻ v.v... đều có thể được sử dụng như những thiền phổ cho người mới bắt đầu thực tập. Viện Phật Học Ứng Dụng Châu Âu với các khuôn viên của Viện ở Ðức, Pháp, Hoa Kỳ v.v... có mở những khóa tu thiền rất thực tiễn cho thiền sinh như những khóa tu dành cho những người đang khổ đau vì mất người thân, cho những người vừa khám phá ra rằng mình có bệnh nan y, cho những cặp cha con vợ chồng đang có khó khăn trong việc truyền thông, cho những cặp nam nữ đang có dự tính kết hôn v.v... Những khóa tu ấy rất thực dụng và đều đi về hướng Ðạo Phật Nhập Thế, ai cũng có thể ghi tên theo học và thực tập mà không nhất thiết cần phải là Phật tử.


Thiền sư nhận định gì về tình hình tu tập ở Việt Nam hiện nay? Phương pháp tu hành của Ngài đóng góp như thế nào cho vấn đề tu tập ấy và tương lai của nó?

Cái học của chúng ta hiện rất từ chương. Tôi rất mong Phật giáo Việt Nam sớm đi về hướng nhập thế và thực dụng để có thể đóng góp cụ thể cho hạnh phúc dân tộc và đất nước. Cái học và cái hành phải đi song song (hành giải tương ưng). Rất mong tại các Viện Phật Học, các vị giáo thọ và các học tăng được thực tập với nhau, sống với nhau, ngồi thiền, bái sám, đi thiền hành, ăn cơm chánh niệm, chấp tác với nhau... như trong truyền thống các tu viện ngày xưa. Có như thế người học tăng mới tiếp nhận được từ kinh nghiệm và phong cách của các bậc thầy của mình. Hy vọng pháp môn Làng Mai có thể đóng góp một phần nhỏ vào hướng đi ấy. Chúng ta có thể tổ chức cho các vị giáo thọ và sinh viên các Viện Phật Học, thỉnh thoảng về các tu viện Làng Mai tại Âu Mỹ hay tại Việt Nam để thăm viếng, cắm trại và quán sát cách học, cách tu của những nơi này. Có thể đó là một trong những phương thức vui tươi nhất để tìm hiểu và đối thoại mang ích lợi cho cả hai phía truyền thống.


Chúc Phú - Quảng Kiến thực hiện
Theo, Nguyệt San Giác Ngộ số 150 tháng 9/2008

 

Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen!

 THEO DẤU THIỀN SƯ IV từ tháng 6/2007 đến tháng 5/2008
 >>Xem tiếp THEO DẤU THIỀN SƯ III>> 3. Hà nội - Ninh Bình - Vĩnh Phúc - Hokong - Thái Lan
 >>Xem tiếp THEO DẤU THIỀN SƯ III>>  2. THỪA THIÊN - HUẾ,   ĐÀ NẴNG,  NHA TRANG
 >>Xem tiếp THEO DẤU THIỀN SƯ III>>  1. SÀI GÒN,   LÂM ĐỒNG,   BÀ RỊA - VŨNG TÀU

ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT

CHUYÊN MỤC :

PHẬT SỰ

VU LAN 2551

VESAK 2552 (2008)

VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN

ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA

THEO DẤU THIỀN SƯ 3 | 4 | 5

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.