Những con đường đi vào
huyền thoại
(thư gửi các con của Thầy khắp nơi, nhân dịp cuối năm)
Thất Ngồi Yên, 05.12.08
Hôm nay có nắng ở xóm Thượng. Thầy đi thiền hành xuống chùa Sơn Hạ qua
con đường Tùng. Từ thất Ngồi Yên tới đường Tùng, thầy đi qua những vùng
có thảm lá sồi bao phủ, nhất là đoạn đường đi qua thất Phù Vân của thầy
Giác Thanh. Thảm lá sồi dày lắm, có nhiều chiếc lá còn giữ được màu
tươi, màu y của các vị khất sĩ Nam Tông. Cây trút lá làm cho đất thêm
màu mỡ, đất và cây nuôi nhau, điều này thấy rất rõ. Thầy đi chậm để mỗi
bước chân có thể tiếp xúc được với bản môn, nghĩa là với thời gian vô
cùng và không gian vô biên. Đi cho mình mà cũng là đi cho cha mẹ, cho
thầy tổ, cho Bụt, cho các con. Thầy cảm thấy không có sự ngăn cách nào
giữa mình với cha mẹ, thầy tổ, Bụt và các con. Tất cả đều có mặt trong
những bước thiền hành. Bài kệ “để Bụt thở, để Bụt đi” hay lắm,
càng thực tập càng thấy hay, cho nên thầy rất thường trở về với bài ấy.
Bài ấy cũng có thể được thực tập trong những tư thế khác như “để Bụt
thở, để Bụt ngồi” hay “để Bụt thở, để Bụt làm”, hoặc “để
Bụt thở, để Bụt chải răng”. Sự thực tập này giống y như là sự thực
tập niệm Bụt, Bụt đây không chỉ là một danh hiệu mà là cả một con người
thật, đang thở, đang đi, đang rửa bát, đang lau nhà…
Thầy nhớ trong chuyến đi Ấn Độ vừa rồi, thầy đã thực tập “đây là Ấn
Độ, Ấn Độ là đây”, thay vì “đây là Tịnh Độ”… Hôm đi thiền
hành tại đại lộ Rajpath ở thủ đô
New Delhi,
thầy đã thực tập theo bài ấy và cũng thực tập đi cho cha mẹ, cho thầy
tổ, cho các con. Thầy thực tập “Bụt đang tản bộ, Bụt đang rong chơi,
Bụt đang hạnh phúc, Bụt đang thảnh thơi, mình đang tản bộ, mình đang
rong chơi ...”. Rồi “Cha đang tản bộ, cha đang rong chơi...”.
Khi thực tập cho các con, thầy cũng mời các con đi bằng chân của thầy,
“Con đang tản bộ, con đang rong chơi ...”. Các con đã có mặt với
thầy trong suốt chuyến đi Ấn Độ ấy.
Các con là những người xuất sĩ, các con cũng là những người cư sĩ. Xuất
là đi ra, không phải để làm quan, mà để gia nhập vào tăng đoàn những
người xuất gia. Tăng thân cần mình đi đâu thì mình đi đến đó, mình không
có một trú xứ duy nhất. Cư là ở lại, cư sĩ cũng có nghĩa là xử sĩ, các
con chưa xuất gia (tiếng Anh là going forth) vì đang có bổn phận với gia
đình với cha mẹ, nhưng vẫn có cơ hội để tham dự vào những sinh hoạt tu
tập; có mặt các con thì mới có được tứ chúng (the fourfold community,
the fourfold Sangha). Các chúng xuất sĩ và cư sĩ nương vào nhau, yểm trợ
cho nhau, tu tập chuyển hóa và độ đời. Tăng thân là một đoàn thể đẹp, có
đủ bốn chúng nam xuất gia, nữ xuất gia, nam tại gia, nữ tại gia.
“Tăng là đoàn thể đẹp, cùng đi trên đường vui, tu tập giải thoát, làm an
lạc cuộc đời”. Nhà tranh đấu cho Nhân quyền Martin Luther King rất
ao ước xây dựng một đoàn thể đẹp như thế, một đoàn thể sống có hạnh
phúc, có tình huynh đệ và có khả năng tranh đấu cho đời. Ông gọi tên
đoàn thể ấy là “The Beloved Community”, mình tạm dịch là “Tăng thân
yêu quý”. Rất tiếc là ông đã bị ám sát năm 39 tuổi tại Memphis, cho
nên giấc mơ đẹp ấy chưa thực hiện được. Thầy trò mình may mắn hơn. Thầy
trò mình đã xây dựng được Tăng thân khắp chốn, để rồi nơi nào cũng trở
thành quê hương (Tăng thân khắp chốn, quê hương nơi này). Mình đã tiếp
nối được chí nguyện của Martin Luther King và công phu tu tập hằng ngày
của mình là để chế tác tình huynh đệ, niềm vui sống và khả năng giúp
người độ đời. Đó là những thực hiện và tiếp nối cụ thể cho giấc mơ ấy.
Thiền hành Paris (Pháp)
Thầy nhớ lần cuối thầy gặp mục sư King tại Thụy
Sĩ, trong một hội nghị do Hội đồng Thế giới của các Giáo hội (World
Council of Churches) tổ chức, lấy tên là Pacem in Terris (Hoà
bình trên Trái đất). Mục sư ở với các vị phụ tá trên lầu thứ 11 của một
khách sạn lớn trong đó hội nghị đang xảy ra. Thầy ở tầng trệt và chỉ có
một vị phụ tá cư sĩ. Đó là năm 1968. Mục sư đã mời thầy lên ăn sáng để
đàm đạo; vì bận họp báo nên thầy lên trễ nửa giờ. Ông đã giữ thức ăn
sáng cho nóng. Trong buổi gặp gỡ này thầy đã có dịp nói với ông là: các
bạn ở Việt
Nam
rất yểm trợ ông và xem ông như một vị Bồ tát sống. Ông rất hoan hỉ khi
nghe như thế và sau này mỗi khi nghĩ tới buổi họp mặt ấy, Thầy lại thấy
hài lòng vì đã nói được với ông câu ấy, bởi vì chỉ mấy tháng sau ông bị
ám sát.
Con đường Tùng đưa thầy xuống chùa Sơn Hạ là một trong những con đường
thiền hành đẹp nhất ở Làng. Các con đã từng đi với thầy trên con đường
ấy chưa? Thông được trồng thành rừng, thành hàng, đứng thẳng bên nhau
như một Tăng thân, quanh năm xanh tốt. Có thể có tới 8.000 cây thông
trong khu rừng ấy. Vào mùa khô ráo, thầy hay dừng lại giữa đường Tùng,
ngồi xuống trên thảm lá thông. Nếu có thị giả đi theo thì thầy trò cùng
uống trà trước khi đứng dậy đi tiếp. Cái thất ở chùa Sơn Hạ, nơi thầy
hay đốt lửa trong lò sưởi để tiếp các vị Tôn túc về dự Đại Giới Đàn
trong các khóa tu Kiết Đông, ngày xưa là nhà ở của
gia đình tá điền. Bề ngoài ngó xấu xí nhưng bên trong đã được sửa sang
lại rất xinh xắn và có đầy đủ tiện nghi, nhất là có lò sưởi đốt bằng củi
nơi phòng khách. Phía trên lò sưởi có bức thư pháp “bois ton thé”
nghĩa là “Uống trà đi con”, hoặc là “Uống trà đi thầy”. Đã
có những ngày tuyết lạnh, thầy trò mình, đôi khi có tới hai ba chục
người, quây quần bên lò sưởi ấy uống trà và kể chuyện bốn phương tám
hướng cho nhau nghe, bởi vì mỗi người đã từ một phương trời đi tới.
“Chúng ta là chim, bốn phương bay về đây...”
Thiền hành tại Roma (Ý)
Cái thất ở Sơn Hạ ấy, thầy định đặt cho nó một cái tên, bề ngoài có thể
không chải chuốt, nhưng bề trong lại rất hay. Đó là cái tên “Thất Da
Cóc”. Đúng rồi da của con cóc, peau de grenouille, hay là
frog skin. Da cóc thì xù xì ngó không đẹp mấy, nhưng bên trong có
thể là rất đẹp. Chú Dũng, ba của thầy Pháp Đôn, lần đầu được thầy đưa
vào thất đã khen: “Ngoài da cóc, trong ngọc vàng”. Các con có
biết câu ấy không? Đó là vế đầu của câu đố: Ngoài da cóc, trong ngọc
vàng, đi ngoài đàng, thơm lừng lựng. Đó là trái gì? Đó là trái mít
chín. Bên ngoài thì da mít xù xì như da con cóc. Nhưng bên trong có
những múi mít chín vàng rực thơm lừng, đó là ngọc là vàng, và khi đi qua
một quãng đường có một trái mít chín thì mình nghe “thơm lừng lựng”.
Câu đó có thể đã xuất phát từ miền Huế, tại vì có ba chữ “thơm lừng
lựng”.
Vậy thì cái thất của thầy ở Sơn Hạ, ngoài thì là da cóc, trong thì là
ngọc vàng, đó là công phu của anh Hiếu, anh ruột của thầy Pháp Quán. Anh
đã để ra mấy tuần lễ để trang điểm lại cho ngôi nhà, vốn là nhà của một
vị tá điền nghèo khổ. Thầy đã bắt đầu ưa cái tên thất Da Cóc rồi đó, các
con có thấy buồn cười chưa. Chuyện đời xưa: một chàng trai đi trên bờ
ruộng thấy một con cóc liền bước qua. Vừa mới bước qua thì nghe sau lưng
có tiếng đằng hắng rất thanh tao của một thiếu nữ. Chàng quay lại nhìn
và ngạc nhiên thấy trước mặt mình một nàng công chúa diễm lệ. Cố nhiên
là chàng trai đã cùng cô công chúa ân cần trò chuyện và sau hết, mời cô
công chúa về nhà mình để giới thiệu với bố mẹ, và chàng đã không quên
nhặt chiếc vỏ da cóc bỏ vào túi và đêm ấy đã xé nát cái da cóc đó, để
nàng công chúa đẹp tuyệt trần kia không chui lại được vào cái vỏ da cóc
xù xì kia nữa.
Thầy có cảm tưởng thầy cũng may mắn như chàng trai kia và trên bước
đường thầy đi, thầy đã từng gặp bao nhiêu con cóc xù xì. Nhưng tất cả
những con cóc ấy sau khi trút bỏ ra được cái vỏ da cóc của mình đã trở
nên những vị Hoàng tử tuấn tú, những cô Công chúa đẹp tuyệt trần. Mỗi
khi trái tim Bồ đề của mình biểu hiện thì mình trở nên đẹp như một nàng
Công chúa hay một vị Hoàng tử. Và khi Tăng thân của mình leo đồi thế kỷ
thì cảnh tượng mầu nhiệm vô cùng.
Có những con đường thiền hành thân thương đã đi vào giấc ngủ của thầy. Ở
Tổ đình Từ Hiếu những con đường thầy đã đi thời còn làm Sadi, và đã trở
thành những con đường của huyền thoại, lâu lâu lại có mặt trong những
giấc mơ tìm về tới quê nhà. Các con của thầy ở Bát Nhã cũng đã tạo dựng
được những con đường thân thương như thế và sỏi đá trên đường đã trở nên
quen biết dưới những bước chân chánh niệm của các vị Hoàng tử, của các
nàng Công chúa. Phương Bối ngày xưa cũng đã có những con đường như thế,
Phương Vân am cũng đã có những con đường như thế, Lộc Uyển cũng đã có
những con đường như thế, và hiện giờ tại Bích Nham, các con của thầy
cũng đã dùng bước chân chánh niệm vạch ra những con đường như thế. Những
con đường thiền hành ngày xưa tại Thanh Sơn và Rừng Phong cũng mầu nhiệm
không kém, chúng đã đi cả vào thi ca. “Cùng nhau ta sẽ đi, sẽ đi thăm
Thanh Sơn, leo đỉnh trời bao la. Ta sẽ qua nhà trà, sẽ đi quanh bờ hồ,
sẽ đi lên Phật đường…” Tịnh độ chúng ta chắc chắn là có những con
đường như thế mà ai đi xa cũng nhớ. Các con có nhớ con đường thiền hành
bờ suối đi ngang qua rừng trúc ở nội viện Phương Khê?
Thiền hành New Delhi (Ấn Độ)
Chiều hôm nay, lúc năm giờ chiều ngồi thiền ở thiền đường Nước Tĩnh,
thầy đã mời đức Thế Tôn thở bằng hai lá phổi của thầy. Thầy nói: đây là
phổi của con, nhưng cũng là phổi của Ngài. Xin Ngài thở cho
khoẻ, phổi còn tốt lắm không sao đâu; và đức Thế
Tôn thở rất hạnh phúc, hai thầy trò đã thở rất hạnh phúc.
Chùa Sơn Hạ được bao bọc bởi những khu rừng mà phần lớn là rừng thông.
Sơn Hạ có suối và có hồ. “Sơn hạ hữu tuyền, trạc chi tắc dũ” là
một câu văn trích trong bài tựa của kinh Thủy Sám,
có nghĩa là “Dưới chân núi có dòng suối, lấy nước suối ấy mà rửa thì
vết thương sẽ lành”. Chùa Sơn Hạ là chùa dưới chân núi. Có một cây
cầu bắc qua suối, đầu cầu có tảng đá trên đó có khắc dòng chữ “Sơn hạ
hữu tuyền…” bằng chữ Hán. Núi đây là núi Thệ Nhật, trên đó có chùa
Pháp Vân, tức là xóm Thượng - Làng Mai. Thầy Nguyện Hải là trú trì chùa
Pháp Vân, nhưng vì thầy đang đi dạy ở Việt
Nam
nên thầy Pháp Đôn hiện thời thay thế. Còn chùa Sơn Hạ thì do thầy Pháp
Sơn làm trú trì; thầy là người Tây Ban Nha, thầy cũng có quốc tịch Anh
và ngoài tiếng Tây Ban Nha, thầy còn nói tiếng Anh và tiếng Pháp rất
giỏi. Thiền sinh rất thích cảnh trí chùa Sơn Hạ. Mùa Đông này có 18 vị
cư sĩ đang an cư với các thầy và các sư chú ở đấy.
Năm ngoái, trong mùa Kiết Đông an cư, có một lần thầy đóng vai người
hướng dẫn viên đưa một cặp du khách đi từ Sơn Hạ lên chùa Pháp Vân, theo
con đường Tùng. Cặp du khách này đâu phải ai xa lạ, đó là giáo sư Hoàng
Khôi - Chân Đạo Hành và phu nhân Chân Tuệ Hương, cả hai đều là đệ tử
giỏi của thầy. Mùa đông năm ngoái, hai vị đã từ Sydney tới tham dự an cư
Kiết Đông ở Làng Mai và cư trú ở xóm Thượng. Hai vị cư sĩ này đều đã là
giáo thọ, đã từng phiên tả và biên tập nhiều sách của thầy bằng tiếng
Việt; những cuốn sách như: Hạnh Phúc Mộng và Thực, Truyền sống
sinh động của thiền tập v.v… đều là do các vị này thực hiện.
Sau khi mời các vị uống trà ở thất Da Cóc - Sơn Hạ, thầy đưa các vị lên
xóm Thượng theo con đường Tùng. Thầy nói: các vị hãy tưởng tượng mình
mới tới Pháp Vân lần đầu và tôi là người sẽ đưa quý vị lên gặp vị Thiền
sư trên am lá, thất Ngồi Yên, ở mé rừng phía Đông núi Thệ Nhật, gần chùa
Pháp Vân. Và nếu biết đi từng bước lên núi với chánh niệm thì quý vị sẽ
có cơ hội được gặp vị thầy ấy nhiều hơn, bởi vì thầy thường hay đi thiền
hành một mình vào núi, có khi đi hái rau rừng, có khi đi hái thuốc (Sư
thê dược khứ) và có khi thầy ngồi cả ngày trong rừng, không ai biết thầy
ngồi đâu, kể cả vị sa di thị giả…
Hôm ấy trời mưa mới tạnh, tuy nắng lên rất đẹp nhưng cành lá còn mang
những giọt nước mưa đọng long lanh như những hạt ngọc, phản chiếu mầu
nhiệm ánh nắng ban mai. Thầy đã dừng lại đưa cánh tay ra hứng lấy một
giọt nước từ trên lá thông và giọt nước đang long lanh như một viên ngọc
đã được chuyền xuống ngón tay thầy nguyên vẹn. Thầy bảo giáo sư Chân Đạo
Hành đưa bàn tay ra để nhận lấy viên ngọc và trút viên ngọc ấy xuống bàn
tay của ông. Bàn tay để trong túi áo nên còn khô và ấm lắm cho nên viên
ngọc gieo xuống vẫn lăn tròn nguyên vẹn. Thầy cũng “hái” cho cô Chân Tuệ
Hương một viên ngọc như thế. Đất trời thật mầu nhiệm, mỗi phút giây là
một viên ngọc quý, tóm thu đất nước trời mây và chỉ cần một hơi thở nhẹ
có ý thức, thì hết bao nhiêu phép lạ hiển bày.
Lễ hội Quan Âm - Đà Nẵng (Việt
Nam)
Đi thiền hành là như thế, mỗi bước chân là khám phá, mỗi bước chân là
niềm vui, mỗi bước chân là nuôi dưỡng và trị liệu. Đến một khúc lên dốc,
thầy dừng lại, chỉ lên một góc núi và nói với hai vị: đi một đoạn đường
nữa, quý vị sẽ thấy thất Ngồi Yên hiện ra. Có thể là thầy đang ngồi trên
ấy. Và khi thất Ngồi Yên hiện ra, thầy cũng dừng lại chỉ cho hai người
thấy, và mời hai vị thở và mỉm cười. Thật ra hai vị đã từng thấy thất
Ngồi Yên nhiều lần rồi, và cũng đã từng uống trà với thầy trong thất ấy,
nhưng lúc này đây các vị đang dùng một cặp mắt mới để nhìn và để khám
phá một cái gì mới. Cả ba người như đang sống trong một huyền thoại là
họ đang đi tìm vị thiền sư trên núi, mà không biết có cơ duyên được gặp
hay không. Thiền sinh về xóm Thượng đã có hàng vạn người, tới từ bao
nhiêu nước, nhưng có mấy ai đã được ông Đạo tiếp ở thất Ngồi Yên? Cũng
như mấy ai đã được ông Đạo tiếp ở thất Lắng Nghe ở tổ đình Từ Hiếu?
Năm ngoái trong mùa an cư Kiết Đông, sư chú Pháp Tri đã làm thị giả cho
thầy ở thất Ngồi Yên với sự hướng dẫn của thầy Mãn Tuệ. Sư chú đi học
lớp uy nghi về, không thấy thầy đâu, đang chuẩn bị vào núi để tìm. Ngay
lúc ấy, thầy với hai vị khách cũng vừa tới; thầy vẫn đóng vai người
hướng dẫn khách hành hương, hỏi sư chú: “Thầy có ở nhà không hả sư
chú?” Sư chú bỡ ngỡ, chưa biết trả lời làm sao thì thầy hỏi tiếp:
“hay là thầy đang bận hái thuốc trong núi chưa về?” Bây giờ thì sư
chú đã hiểu, sư chú trả lời: “Thưa quý vị, thầy con vào núi chắc cũng
sắp về tới, xin mời các vị vào thất dùng trà trong khi đợi thầy”. Ở
chùa Việt Nam, Los Angeles, có treo một bức thư pháp của thầy tặng
Hòa thượng Mãn Giác, bản dịch một bài thơ của thi
sĩ Giã Đảo đời Đường: Bên cội tùng, chú bảo: thầy vừa đi hái thuốc,
chỉ nội núi này thôi, mây mù không thấy được. Thật ra là vị thị giả
dư biết thầy mình đang ngồi ở mé núi nào, nhưng vì không muốn thầy mình
bị quấy rầy bởi ông khách nên trả lời như thế để mình khỏi đi tìm thầy,
và để cho thầy được ngồi yên, thế thôi. Thệ Nhật Sơn thỉnh thoảng cũng
có sương mù bao phủ, nhưng sương mù không nhiều bằng ở tu viện Kim Sơn
miền Bắc California.
Con đường Tùng của thầy đã đi vào huyền thoại, các con thấy chưa? Nhưng
con đường nào mà thầy trò mình đã đi lại không đi vào huyền thoại? Như
con đường thiền hành xuống suối ở Bát Nhã đó. Thầy trò chúng ta đã đi
trên con đường ấy nhiều lần với những bước chân như thế, các con nhớ
không? Con đường lên núi Vạn Thạch Liên ở Lộc Uyển, thầy trò mình đã leo
lên biết bao nhiêu lần? Và đã bao nhiêu lần thầy trò mình từng ngồi trên
những tảng đá trên đỉnh núi nhìn xuống thung lũng Escondido sương mù phủ
kín? Con đường mà thầy trò chúng ta đi khởi sự từ sân Phật đường Từ
Hiếu, xuống hồ Bán Nguyệt, quanh hồ Sao Mai, vượt cổng tam quan, lên đồi
Dương Xuân hay đi về Lăng Viện, con đường ấy đã đi vào huyền thoại, đã
đi vào những giấc mơ của thầy trong gần bốn mươi năm xa cách quê hương.
Những con đường thiền hành ở xóm Hạ và xóm Mới cũng đã mang dấu chân của
thầy trò chúng ta cả mấy chục năm nay và mỗi khi đi xa, thầy trò mình
đều rất nhớ. Chúng ta đã từng đem dấu chân của Bụt in xuống trên những
con đường thiền hành ở công viên Estes trên dãy Rocky Mountains, ở khuôn
viên trường đại học Stonehill, trường đại học UC Santa Barbara, ở công
viên Mc. Arthur tại Los Angeles, trên những đại lộ của các thành phố lớn
như Frankfurt, Rome, Amsterdam, Paris, New York, New Delhi, Hà Nội,
v.v... Thầy nhớ hôm đi thiền hành bên hồ Hoàn Kiếm, là một Tăng thân
xuất gia và tại gia tới từ 41 quốc gia, chúng ta đã bước những bước chân
an lạc thảnh thơi bên bờ hồ, qua cầu Thê Húc, vào đền Ngọc Sơn… Dân
chúng thủ đô đã ngạc nhiên thấy đoàn người đi một cách thảnh thơi như
những người vô sự, trong khung cảnh của một thành phố rộn ràng mà ai nấy
đều có vẻ bận rộn, gấp gáp. Thấy một đoàn người đi như thế, có người bảo
là đã tìm ra lại được gốc gác văn hóa và quê hương
đích thực của chính mình.
Chúng ta cũng đã được đi như thế ở Trung Hậu, Đồng Đắc, Bằng A, Sóc Sơn,
Văn Miếu, Hoa Lư, Phát Diệm, Diệu Đế, Thuyền Tôn, Linh Mụ, Linh Ứng, Tam
Thai, Chúc Thánh, Mỹ Sơn, Cam Ranh, Thập Tháp, Nguyên Thiều, Giác Viên,
Giác Lâm, Ấn Quang, Hoằng Pháp, Pháp Vân… Ở đâu đối với chúng ta cũng là
thánh địa; chỉ cần biết dừng lại, chỉ cần có ý thức thì mảnh đất nào
cũng là quê hương.
Khóa tu chùa Bằng - Hàn Nội
(VN)
Chỉ còn mấy tuần lễ nữa là hết năm 2008, ngồi viết thư cuối năm cho các
con, thầy cảm thấy ấm áp như đang ngồi chơi với tất cả các con. Năm nay
xóm Mới sẽ tổ chức lễ Giáng Sinh, xóm Hạ tết Dương lịch và xóm Thượng
tết Kỷ Sửu. Năm nay trong Đại Giới Đàn Mùa Sen Mới sẽ có khoảng 27 vị
được truyền đăng trong đó có thầy Pháp Hữu. Bé Huỳnh Thế Nhiệm đã tới
Làng lần đầu năm 7 tuổi và sau đó đã trở lại nhiều lần. Nhiệm đã được
xuất gia năm 12 tuổi vào tháng Giêng năm 2009, Nhiệm sẽ được truyền đăng
làm giáo thọ. Đó là thầy Chân Pháp Hữu. Trong khóa
an cư Kiết Đông này, Pháp Hữu làm y chỉ sư cho bảy vị thiền sinh Tây
phương. Họ hạnh phúc lắm với một vị y chỉ sư trẻ như thế. Các baby monks
của thầy bây giờ lớn hết rồi, bên cạnh đó là Pháp Chiếu, Mật Nghiêm, Đàn
Nghiêm và Mẫn Nghiêm cũng đang làm y chỉ sư cho các thiền sinh. Mẫn
Nghiêm đã được truyền đăng năm ngoái trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa
để trở thành vị giáo thọ trẻ nhất của Làng Mai. Sư cô Mẫn Nghiêm gặp
thầy lần đầu hồi còn 5 tuổi; 12 tuổi qua Làng xin xuất gia. Hạ Dương
Quyên là tên đời, năm 16 tuổi cô đã đọc “Nói với tuổi hai mươi”
của thầy và lòng dặn lòng sẽ viết một cuốn sách tặng thầy năm thầy 80
tuổi, với đề sách là “Nói với tuổi tám mươi”. Và đến năm tròn 20
tuổi, Quyên đã viết được cuốn sách ấy, 300 trang, hiện giờ thầy còn giữ
ở nội viện Phương Khê. Chỉ một mình thầy được đọc thôi, Mẫn Nghiêm đã
dặn như thế.
Pháp Hữu cũng sẽ là một vị giáo thọ rất trẻ. Mười năm ở với thầy, thầy
trò chưa bao giờ giận nhau, truyền thông giữa hai người rất tốt. Pháp
Hữu đã là một trong những vị thị giả giỏi nhất, ý tứ nhất, không thua gì
sư anh Pháp Niệm, rất chu đáo, biết thầy cần gì, không cần phải đợi thầy
nói lên. Có lần thầy nói với Pháp Hữu: “Ngày xưa thầy Anan làm thị
giả cho Bụt cũng chỉ giỏi như con đang làm thị giả cho thầy bây giờ là
cùng”. Nhiệm khiêm cung trả lời: “Nhưng con đâu có trí nhớ siêu
việt như thầy Anan?” Thầy cười: “Con không cần trí nhớ của thầy
Anan tại vì con đã có một chiếc iPod, để trong túi kinh của thầy”.
Và hai thầy trò nhìn nhau cười rất tâm đắc.
Rừng sồi sườn núi Thệ Nhựt -
Xóm Thượng - Làng Mai (Pháp)
Viết tới đây thầy bỗng nghĩ đến tuyết, tuyết đang rơi ở Waldbröl nơi
Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu. Tuần trước, sư cô Song Nghiêm điện thoại
qua, nói tuyết đã rơi và đã cao lên tới 10 phân, cảnh tượng ở Waldbröl
đang đẹp diệu kỳ và mời thầy sang bên ấy để chơi với các con của thầy.
Thì thầy đang ở bên ấy, các con không thấy hay sao? Thầy cũng đang ở
Bích Nham, Lộc Uyển, Cây Phong, Sen Búp, Mộc Lan, Bát Nhã, Từ Hiếu,
Hohenau, Suối Thương và nhiều nơi nữa! Phải thấy thầy nơi mình đang
ngồi, đang đứng. Các sư em ở Bát Nhã có nhớ bài thi đố của sư anh Pháp
Lâm không? Thầy không phải đang ở Ấn Độ mà thôi đâu. Đã nghe Thiền sư Vô
Ngôn Thông nói: “Đây là Ấn Độ, Ấn Độ là đây” (Tây thiên thử độ,
thử độ tây thiên) chưa? Thầy nhớ tới chiếc võng treo ở rừng cây phía sau
Học viện. Trước khi qua, thầy đã viết thư cho các con của thầy ở bên
Đức. Thầy nói có vị nào có võng mang tới cho thầy mượn. Thầy sẽ treo
võng ngoài vườn và sẽ ngồi võng chơi với các con, ăn mừng Trung Tâm mới.
Không biết vị nào đã chuyền lá thư ấy đi và hôm thầy tới, 14.09.08, thì
các vị thị giả báo cáo là có tất cả 149 cái võng đã được mang tới. Mùa
hè tới thầy trò mình sẽ tha hồ thực tập thiền võng ở bên ấy.
Viết thư cho các con của thầy, viết mấy cho đủ, thầy tạm dừng ở đây.
Thầy sẽ gặp lại các con trước giờ giao thừa năm Kỷ Sửu trong buổi bình
thơ cuối năm. Thầy chúc tất cả các con của thầy thật hạnh phúc và chế
tác được rất nhiều tình huynh đệ.
(Trích Lá thơ Làng Mai số 32 ra ngày 01.01.2009)
Từng
bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen! |
|
|
ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT
CHUYÊN MỤC :
PHẬT SỰ
VU LAN 2551
VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN
ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA
THEO DẤU THIỀN SƯ
3
|
4
|
5
|