Tiễn anh
một đoạn đường
-
PSN 6.10.2011 |
Chân Tính Hải
Mắt
trong nhận rõ trời phương ngoại
Lối về Sen nỡ đẹp quê hương.
(Tứ chúng Mai Thôn, Lộc Uyển và Bích Nham cầu nguyện và tiển đưa Giáo
thọ Chân Tịnh Nhãn).
Hai câu kệ của Sư ông Làng Mai được một thiền sinh Tây phương vội vã
mang về từ tu viện Lộc Uyển cho kịp tiễn đưa Anh. Anh sanh ngày 20
tháng 8 năm 1929 và mất ngày 5 tháng 9 năm 2011, thọ 82 tuổi.
Thưa anh Chân Tịnh Nhãn Nguyễn Văn Kỷ Cương,
Duyên may được chị và gia đình cho phép em có mấy lời cùng anh. Đây
không phải là lời chia tay, cũng không phải là lời chia buồn cùng gia
đình, điều này anh rõ nhất. Đây là lời tâm tình cùng anh. Được biết
anh đi vào giấc ngủ rất nhẹ nhàng thanh thoát, điều báo trước anh đang
thênh thang về cõi vô ưu vô sự. Lúc anh còn biểu hiện anh em mình đã
cùng nhau nguyện đi trên con đường vui cho nên cũng có nhiều kỷ niệm
nho nhỏ nhưng đáng nhớ và thật vui. Thực ra em biết anh từ lâu khi còn
ở quê hương. Những năm 1956, 57, 58 của thế kỷ trước, học sinh trung
học không ai không biết đến giáo sư Nguyễn Văn Kỷ Cương chuyên giải
toán thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp từ cuốn sách toán của Le Bossé. Cuốn
sách này gồm 4 hay 5 trăm đề thi Trung học ở Pháp, nó cũng có những
bài là đề thi ở Việt Nam. Em không phải là học trò trực tiếp học với
anh nhưng em cũng nghiền ngẫm nhiều bài giải của anh. Có nhiều bài anh
giải hay hơn trong sách Le Bossé cho nên học trò rất thích. Hồi đó
sách giải toán Le Bossé của anh là sách gối đầu giường của học trò
chuẩn bị thi Trung Học Đệ Nhứt Cấp.
Qua đây tình cờ được gần anh chị em gọi anh bằng Thầy nhưng anh bảo cứ
gọi anh em cho thân thiện, hơn nữa anh em mình cùng là học trò của Sư
Ông Nhất Hạnh, anh nói như vậy. Gần anh mới biết anh có một tâm hồn
trẻ hơn tuổi, bình dị. Vì vậy mỗi lần gặp anh em hay gợi chuyện để cho
anh kể. Cách kể chuyện của anh lôi cuốn người nghe vì toàn là chuyện
thật không chút thêm thắc cho hào hứng, hay đề cao mình. Chuyện anh du
học ở Pháp, chuyện anh gặp chị. Tại sao anh gặp chị mới là hay. Trong
một kỳ thi chị bí một cái gì đó, hỏi anh anh không nghe rõ cứ dạ, hỏi
mấy lần cũng cứ chỉ dạ. Giờ thi gần hết mà cứ dạ hoài. Em đùa với anh
cũng nhờ dạ hoài cho nên chị thương anh đó. Khi anh chị về lại quê
hương ngoài sự thành đạt (vinh danh bái tổ) anh chị còn tay nách tay
bồng về cho nội ngoại đến ba đứa cháu. Thật là tiểu và đại đăng khoa
vẹn toàn.
Anh con người thực và khiêm cung. Anh cho biết anh là người nhiều may
mắn chứ chẳng tài cáng gì bao nhiêu. Đó là lời anh nói. Chuyện anh trở
thành Thượng nghị sỹ thời Đệ Nhị Cộng Hòa mới là vui. Với người khác
có tham vọng chính trị đây là một may mắn rất lớn. Nhưng với anh của
không trông mà đem tròng vào mình. Một buổi chiều anh đang ngồi chuyện
gẫu với bạn bè thì một chiếc xe jeep dừng ngay trước cửa, một người
lao vào hỏi tìm anh và lôi anh về văn phòng của liên danh ứng cử Bông
Sen của cụ Hà Thúc Ký. Anh không biết ất giáp gì thì cụ bảo cụ để tên
anh vào danh sách ứng cử viên vì giờ chót có người rút lui. Cần tên
chứ anh không cần làm gì hết. Anh sợ sệt thoái thác nhưng không được
vì ngay chiều hôm đó là giờ chót phải nộp danh sách ứng cử viên lên uỷ
ban bầu cử. Biết làm sao bây giờ. Cuối cùng liên danh Bông Sen của cụ
Hà Thúc Ký trúng cử. Anh chễm chệ là một nghị sỹ không hề vận động
tranh cử, không hề biết gì về chính trị. Vẫn chưa hết, vào nghị trường
anh ở Tiểu Ban Giáo Dục thì phải, cứ mỗi ba năm thì 1/3 nghị sỹ phải
hết nhiệm kỳ và phải tái ứng cử. Cái tiểu ban của anh thuộc 1/3 chót
mới hết nhiệm kỳ cho nên anh nghiễm nhiên tự tại ở Thượng viện suốt ba
nhiệm kỳ cho đến năm 1973.
Cái may mắn đời tỵ nạn lý thú hơn. Anh nộp đơn xin dạy Toán ở trường
Trung học tư nói tiếng Pháp, Toronto. Cùng lúc một bà giáo sư người
Pháp từ Pháp qua cũng nộp đơn. Anh tiu nghĩu đi về vì biết chắc rằng
họ sẽ nhận bà đó. Vì bà là dân Pháp dạy trường Pháp thì chắc chắn được
nhận rồi. Anh yên chí về tiếp tục đi câu cá. Chuyện câu cá của anh
không kém hấp dẫn. Chính anh kể lại cho Sư Ông và thiền sinh trong một
khoá tu 5 ngày năm 1989, làm mọi người cười lăn vì cái lối kể chuyện
thực thà không thêm bớt. Anh có tay sát cá đến kỳ lạ. Lần nào anh đi
câu cũng đầy cá trong khi bạn bè cùng đi với anh về tay không, hoặc
vài con lèo tèo. Bạn bè ngồi câu bên anh thấy anh giựt lên lia lịa
trong lúc họ ngồi mõi cả tay không được mống nào. Họ đòi đổi chỗ, anh
đồng ý. Sau khi yên vị đâu vào đó anh tiếp tục giựt lên những con cá
to tướng. Bạn ngồi chỗ anh lúc trước đành trố mắt nhìn. Khóa tu năm đó
anh thọ năm giới với Sư Ông và hứa bỏ câu cá. Và anh bẽ cần từ đó.
Đùng một cái mấy tháng sau trường gọi anh, mời lên nhận anh. Bà giáo
sư không kham nỗi lũ học trò nghịch ngợm phần lớn là con nhà giàu có
địa vị trong xã hội, xin rút lui. Anh vào thay. Ngày đầu tiên vào lớp.
Không phải là lớp nữa. Anh thấy một đám học trò cả gái và trai ngồi
trên bàn giáo sư đang hò hét. Còn lại thì đứa gát chân lên bàn đứa ôm
nhau. Máu nóng trong anh đùng đùng nỗi lên, anh ném cái cặp lên bàn
thật mạnh, trừng mắt nhìn đám học trò ngỗ nghịch. Chúng cũng ngỡ ngàng
không ít vì từ trước đến nay chúng chưa hề gặp một ông thầy nào xử lý
với chúng như vậy.
Con người chuyển hóa
Anh cực khổ buồn bực với đám học trò như vậy. Kèm theo nhiều đứa học
dỡ làm toán không được mỗi lần chấm bài là anh nỗi nóng gạch rách toạt
cả giấy. Điệu này chắc không kham nỗi. Duyên may gặp Thầy Nhất Hạnh.
Khóa tu đầu tiên ở Camp des Sommets gần Montreal chúng em gặp anh chị.
Và sau đó nhiều khoá tu khác. Ngày đầu tiên sau khóa tu anh trở lại
lớp, bước từ từ, đặt cái cặp nhẹ nhàng lên bàn xoay người từ từ nhìn
học trò và im lặng, mĩm cười chào. Học trò ngạc nhiên thì thầm với
nhau “Henry hôm nay bệnh rồi”. Anh bắt đầu đem thiền vào lớp. Dạy học
trò thở, đi đứng ngồi, học hành trong phong cách chánh niệm. Kết quả
không ngờ, cả thầy trò đều được chuyển hóa. Kể từ đó về sau thầy trò
trước khi bắt đầu buổi học là tập thở chánh niệm. Mấy tháng sau có một
vài phụ huynh học sinh đến trường tìm hiểu về giáo sư Henry là ai mà
con cái về nhà không còn như xưa, học hành chăm chỉ chơi giỡn chừng
mực. Ngày sinh nhật của anh bước vào lớp thấy một tấm hình vẽ Đức Bụt
với hàng chữ Happy Birthday Henry. Một phần thưởng vô giá cho anh. Anh
được chuyển hóa cho chính anh và cho đám học trò. Anh yêu đời yêu nghề
yêu học trò.
Mùa hè năm 1994 anh chị rũ chúng em đi qua Làng Mai (lúc đó còn quen
gọi là Làng Hồng). Năm đó anh được Sư Ông chấp thuận cho anh nhận đèn
làm Giáo thọ. Anh “năn nĩ” chúng em tham dự để hộ tống anh trong cái
lễ truyền đăng. Hai em đồng ý và anh vui thấy rõ. Anh đến Làng trước
vài ba ngày vì chúng em còn lang thang rong chơi mấy nước. Khi thấy
chúng em về Làng anh thở phào vì tưởng hai đứa đổi ý không biết tìm ai
thay. Gần đến cái đêm truyền đăng cho anh cả ngày hôm đó em quan sát
anh lúc nào trên tay cũng có cây viết và tờ giấy. Anh ngồi hết chỗ này
đến chỗ khác, mắt đăm đăm nhìn xa xăm. Cúi xuống ghi ghi chép chép
gạch gạch xóa xóa và nhất là để ý không ai đến gần. Em hiểu là anh
đang nặn óc làm kệ kiến giải trình lên Sư Ông tối nay. Biết ý em để
anh một mình. Sau khi ăn cơm trưa xong anh nắm tay em dắt ra một gốc
mận trong vườn sau thiền đường Xóm Hạ. Vườn mận năm đó cây còn non,
thấp chỉ quá đầu người. Lá thì thưa trời thì nắng nóng. Em hiểu ý anh
muốn cho em biết bài kệ kiến giải của anh sẽ đọc tối nay. Chỉ có vườn
mận là không có người qua lại cho nên hai anh em chịu khó một chút
nắng nóng. Ý! bài kệ của anh là phải giữ kín chỉ được dọc cho Sư Ông
trước mọi người. Không sao, anh muốn em góp ý. Bài kệ em không còn nhớ
từng câu nhưng đại ý là: khi tôi về với hơi thở chánh niệm tôi thấy
tôi rất rõ. Tôi thấy tôi có mặt khắp nơi và muôn nơi có trong tôi.
(Tôi là tất cả, tất cả là tôi). Em nhớ là em không sữa gì hết. Nguyên
ngày hôm đó anh sống tuổi học trò, trông anh vừa vui vừa lo vừa hồi
hộp.
Thiền đường Xóm Thượng đầy bốn chúng xuất sĩ thiền sinh khắp nơi trên
thế giới, không còn chổ ngồi trống. Ba anh em ngồi trong nhóm người
sắp sữa nhận đèn. Cái im lặng trang nghiêm có lẽ làm anh tăng thêm
căng thẳng.
Đã đến phiên. Thầy gọi tên anh. Anh đi trước, em cầm đèn vợ em cầm bài
kệ của anh cuộn tròn có thắc nơ đỏ trịnh trọng. Ba anh em quì trước
mặt Sư Ông đang ngồi trên bục. Thầy trò im lặng thở. Một tiếng chuông
vang nhẹ biết là lúc anh trình đọc kệ kiến giải. Vợ em trao cho anh
bài kệ. Với giọng to chậm rãi anh đọc lên. Thầy mĩm cười khẻ gật đầu
tỏ vẽ bằng lòng. Anh đưa tay về phía sau như bảo em trao cây đèn cho
anh. Nhưng chưa phải lúc. Em nói khẻ chưa. Anh không nghe và tiếp tục
đưa tay về phía sau cố lấy cho được cây đèn. Đến lúc này Sư Ông cười
và bảo với anh là chưa. Vì sau khi nghe bài kệ của anh Sư Ông đọc cho
anh bài kệ của Sư Ông:
Chân
thân là Phật độ
Tịnh Nhãn
chuyển ta bà.
Trên bùn sen ngọc nở,
Bến giác chở người qua.
Em trao cái đèn cho anh để anh đệ lên Sư Ông. Tiếp nhận chiếc đèn Sư
Ông châm ngọn lửa lấy từ cây đèn của Sư Ông và tiếp tục xướng lên một
bài kệ khác đại ý là Sư Ông hôm nay làm nhiệm vụ của lịch đại tổ sư
trao cho Sư Ông tiếp tục nối ngọn đèn pháp cho đệ tử của mình. Thiền
đường im vắng, những ngọn bạch lạp chập chờn trong bóng tối, tiếng
xướng kệ hùng tráng rõ ràng từng chữ làm tăng thêm vẽ linh thiêng.
Anh thở phào nhẹ nhõm. Sau này nghe sư cô Chân Không nói lại Thầy khen
bài kệ của anh.
Thưa anh, Em dài dòng kể lại những mẫu chuyện vui của anh như một món
quà anh để lại cho tất cả người thân, bạn bè đang có mặt hôm nay.
Riêng phần em, em đã nhìn được ở anh con người thật không đeo một cái
mặt nạ nào. Anh là con người tự do, con người Vô Sự của tổ Lâm Tế.
Hôm nay em trịnh trọng kể lại cho anh những gì anh em mình tâm sự hàn
huyên. Em cũng đang thấy rõ anh không đi đâu hết bởi vì trước mặt em
giòng máu của anh vẫn đang lưu chuyển trong thân thể con cháu anh. Hơi
thở của anh đang tiếp nối đến con cháu anh. Những kiến thức của anh
đang tiếp tục biểu hiện qua nhiều thế hệ học trò từ trong nước đến
ngoài nước. Tăng thân tu học bạn bè đang nghĩ đến anh. Ngày hôm kia
chúng em nhận được điện thoại của sư cô Thông Nghiêm từ Lộc Uyển hỏi
tình hình anh bởi vì sư cô thấy trong các thiền đường đều có thông báo
về sự ra đi của Giáo thọ Chân Tịnh Nhãn. Và Sư Ông cũng đang có mặt
tạì Lộc Uyển. Rõ ràng bài kệ năm xưa của anh đang thể hiện. Cái thấy
của anh đang biểu lộ: Tôi là tất cả tất cả đang có trong tôi.
Anh đang thênh thang trên con đường vui anh chọn.
Em xin mượn bài kệ khai thị sau đây để tiễn anh một đoạn đường.
Thân này không phải là tôi
Tôi không kẹt vào nơi thân này
Tôi là sự sống thênh thang
Tôi chưa bao giờ từng sinh
Mà cũng chưa bao giờ từng diệt
Nhìn kia biển rộng trời cao
Muôn ngàn tinh tú lao xao
Tất cả đều biểu hiện tôi từ nguồn linh tâm thức
Tự muôn đời tôi vẫn tự do
Tử sinh là cửa ngõ ra vào
Tử sinh là trò chơi cút bắt
Hãy cười cùng tôi. Hãy nắm tay tôi
Hãy vẫy tay chào để rồi tức thì gặp lại.
Gặp lại hôm nay. Gặp lại ngày mai
Chúng ta đang gặp nhau nơi suối nguồn
Chúng ta đang gặp nhau từng phút giây trên muôn ngàn nẽo sống.
Vẫy tay chào Anh…
Chân Tính Hải
Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen |
|