Vài ý niệm về
Công án thiền Bát Nhã
Đạo
Phật là đạo tỉnh thức. Tỉnh thức do tuệ giác mà ra. Tuệ giác chỉ có
thể chế tác được bằng quán chiếu nhìn sâu, nghe rõ, thực tập miên mật,
tinh chuyên, chứ không phải do kiến
thức.
Tuệ giác không phải là kiến thức, kiến thức có thể là trở lực, (sở tri
chướng) ngăn cản sự khai phá ra chân tướng của thực tại.
Có nhiều
hàng trí thức có khả năng lớn trong lãnh vực Phật học nhưng đó mới chỉ
là kiến thức, lý thuyết về Phật pháp mà không phải là tuệ giác. Vì
chưa có tuệ giác nên khó nắm bắt được Công án. Công án chỉ có thể giải
quyết bằng năng lượng của Định và Tuệ, mà muốn có được hai năng lượng
này trước hết phải đạt được công phu Chánh niệm. Nếu không, mọi nhận
xét, phân tích, phê phán, v.v... bằng tri thức đều chỉ là hí luận mà
thôi.
Khi đi vào
thiền quán chúng ta cần phải có một đề tài, trong Thiền môn có một tên
riêng để gọi, đó là Công án. Do đó Công án không gì khác hơn là một đề
tài để thiền quán. Những đề tài cho công án thì bao la, tùy theo tâm
tính của học trò mà Thiền sư cho một công án thích hợp. Khi nhận được
công án rồi thiền sinh miệt mài quán chiếu để tìm sự giải thoát, đi
đến đích của công phu thiền quán, được coi như là giác ngộ. Có biết
bao nhiêu giai thoại về Thiền, đọc qua không phải dễ hiểu vì bản chất
của giác ngộ như đã nói ở trên, không phải do kiến thức mà có được.
Song Thiền hướng tới cái gì, đâu là mục tiêu thật sự của nó?
Sau đây là lời
giải thích của Takashina Rosen, người được xem như nhân vật Phật giáo
vĩ đại nhất của Nhật Bản ngày nay:
“Mục tiêu của Thiền dĩ nhiên là để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng đó
không phải nơi an trụ cuối cùng… Trên quan điểm chứng ngộ, chân lý là
bình thường, không có gì đặc biệt. Liễu xanh, hoa thắm, lửa nóng và
gió luôn luôn thổi… Nơi an trụ cuối cùng của Thiền, mạch sống của Phật
giáo chính là Thiền - trong - hoạt - động, không lạc ra ngoài sinh
hoạt tự nhiên của đời sống bình thường hằng ngày. Như vậy, dù không để
ý đến ngày và đêm, chúng ta đều sống trong Phật pháp và áp dụng nó.
Vậy thì cần gì phải giác ngộ và tu tập? “Đi cũng thiền và ngồi cũng
thiền”. Nhưng không phải thế, nước đã đun sôi và sau đó để nguội chắc
chắn phải khác với nước thường mặc dù cả hai đều nguội. Phải có sự
khác biệt giữa một thường dân và môn đệ đã trải qua công phu tu luyện
lâu dài. Nếu không thế, tu tập thiền định ắt là vô dụng” (2).
Chúng ta cũng
có thể hiểu rằng Công án mà Thiền sư Nhất Hạnh vừa đưa ra có tên là
“Bát Nhã”. Nếu Thiền sư Takashina Rosen nhận định một khía cạnh của
Thiền là “Thiền trong hoạt động”, thì công án của Thiền sư Nhất Hạnh
cũng không khác. Đó là sinh hoạt của đất nước Việt Nam hiện tại. Thí
dụ như “Một ngàn năm Thăng Long”, “Độc lập,Tự do,Hạnh phúc đang ở
đâu?” v.v… Sự kiện Bát Nhã thể hiện những vấn đề đó của đất nước nói
chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Thiền sư
Nhất Hạnh viết:
“Chỉ khi
nào thấy rằng Bát Nhã là vấn đề chính của bản thân ta, nó có liên hệ
trực tiếp đến hạnh phúc, đau khổ của ta, của tương lai ta và tương lai
đất nước dân tộc ta, và chừng nào chưa giải quyết được công án Bát Nhã
thì ta còn ngủ không yên, ăn không yên, làm việc không yên, thì lúc ấy
Bát Nhã mới thực sự là một công án.
Niệm
có
nghĩa là nhớ tưởng, là canh cánh bên lòng, là nâng công án lên từng
giây từng phút trong đời sống hàng ngày của mình để quán chiếu, không
phút giây nào xao lãng. Niệm phải liên tục không được gián đoạn
...“.
Bát Nhã là một
bối cảnh trong rất nhiều bối cảnh hiện nay tại đất nước ta. Khi nói
đến Tu viện và Tăng thân Bát Nhã Ts. Nhất Hạnh muốn nói đến những dối
trá, bạo động, mạo danh... mà côn đồ và bọn chủ chốt thuê mướn đã bạo
hành ở đó. Công án Bát Nhã là một tiêu biểu như rất nhiều Công án khác
để quán chiếu, hầu tìm ra con đường giải thoát cho đất nước khỏi cơn
bĩ cực, một con đường tạo hạnh phúc thực sự cho người dân, một con
đường đưa đất nước đi lên. TS. Nhất Hạnh đã giải bày đầy đủ hơn trong
bài “Bát Nhã là một Công án Thiền”.
Trong phần dẫn
nhập trước khi vào đề, Thiền sư đã hướng dẫn trong hai câu như sau:
Đừng đi tìm
cái anh muốn thấy. Việc làm đó vô ích.
Không đi tìm
nhưng cho cái thấy tự đến, cái thấy ấy sẽ giải phóng được cho anh.
Nếu chúng ta
cố đi tìm trong những sách nói về thiền, cố đi tìm để chứng minh với
mọi người công án là gì, việc làm này quả thực vô ích. Công án Bát Nhã
mà Thiền sư muốn đề cập đến là ở câu “Không đi tìm nhưng cho cái thấy
tự đến”. Cho đến giờ chúng ta đã thấy được những gì về pháp nạn đã xảy
ra nơi tu viện Bát Nhã? Chúng ta hãy để cái thấy cho những diễn tiến
trong suốt năm qua tại Tu viện này. Chuyện côn đồ quấy phá những vị tu
sĩ tại đây, hoặc là chuyện những Phật tử đội lốt đến đại náo tu viện,
chuyện tự xưng là Phật tử rồi vào chùa muốn làm gì thì tự ý. Muốn chửi
rủa, phỉ báng tu sĩ, muốn ném phân vào quí tôn túc… thì tha hồ làm hay
sao? Đã vậy công an và những người gọi là chính quyền đứng trơ ra đó,
không can ngăn không bênh vực tu sĩ, không bênh vực những người dân
lành thì có phải là đồng loã với côn đồ. Hơn thế nữa, họ đã bỏ tiền
công quỹ để thuê mướn những côn đồ này, có phải là ném đá dấu tay
không? Tôi xin hỏi, có Phật tử chân chính nào dám làm những chuyện bạo
động đó trong chùa không? Có dám gieo nghiệp ác đó không?
Tôi chắc là không.
Chúng ta hãy để cho cái
thấy về một sự đảo điên hiện nay lại có thể xảy ra dưới sự cai trị của
chế độ này, thay vì dùng luật pháp để bảo vệ dân lành, bảo vệ người tu
thì họ đi bảo vệ bọn côn đồ được họ thuê mướn.
Chính vì thế
cho nên mới có chữ Pháp nạn Bát Nhã, đây là một trong những quốc nạn
mà người dân Việt Nam hiện nay đang lãnh đủ. Chúng ta đừng đóng kín vì
những thành kiến nữa, hãy mở lòng nhìn một cách khách quan để thấy
những chuyện bạo hành xảy ra tại tu viện Bát Nhã. Chúng ta có thể tham
khảo những đoạn phim, những hình ảnh, những lời chia sẻ của mọi tầng
lớp từ quí Tôn túc, Tu sĩ, Phật tử, Công an, Phát ngôn viên, Chính
phủ, chuyện bảo lãnh của Thượng tọa Chùa Phước Huệ v.v.. Nhờ đó cái
thấy về Bát Nhã có thể tự đến với chúng ta khi đó Công án Bát Nhã
không còn quá khó hiểu.
Pháp nạn Bát
Nhã là mấu chốt nho nhỏ cho mọi người thấy một đường lối cai trị không
có đạo đức, xây dựng trên sự ngụy biện và lừa đảo. Những người ủng hộ
Đảng thì sống phì da, sung sướng trên mồ hôi và nước mắt của tầng lớp
lao động nghèo khổ (1). Người nào ngay thẳng và thành thật, dám nói
lên những lẽ phải, dám trình bày những điều oan trái thì gặp khó khăn
trăm đường, phải vào tù ra khám. Đây là thoại đầu để đi vào Công án
Bát Nhã.
Bây giờ tôi
xin chia sẻ thêm đôi chút về Pháp môn Làng Mai mà tôi được biết. Ở
Làng Mai các tu sĩ và thiền sinh không tu theo những truyền thống
Thiền tông như ngày xưa, không nhận lấy một công án từ Thiền sư rồi ôm
lấy để miệt mài đi tìm giác ngộ. Công án ở Làng Mai là sống trong
chánh niệm, làm việc trong chánh niệm, ăn trong chánh niệm, thở trong
chánh niệm. Có nghĩa là sống, thở, làm việc, nghỉ ngơi, ăn uống, cười
nói, hành giả luôn luôn nhận diện rõ những gì đang làm, đang đến và
đang đi… tất cả đều trong chánh niệm. Có thể nói là tất cả các Pháp
môn của Làng Mai là hướng dẫn đại chúng những phương pháp sống sao cho
có chánh niệm. Và chánh niệm có nghĩa là mình làm gì mình biết là mình
đang làm gì, mình đang thở là mình biết mình đang thở. Biết rằng nếu
không có chánh niệm tức là thất niệm. Chánh niệm là Phật và thất niệm
là Ma. Chỉ cần dừng lại và quán chiếu là biết mình đang làm giống Phật hay
là giống Ma, để tránh những ác nghiệp có thể xảy ra. Có một Pháp môn
Làng Mai được gọi là “Hiện pháp lạc trú”, có nghĩa là ta hạnh phúc
liền giây phút này, không cần ôm công án nhọc nhằn khổ sở cả đời, một
khi không ngộ thì cả đời ôm khối ưu tư ? Tại Làng Mai không hành trì
những công án như thế..
Nếu ai đủ duyên lành,
được về Làng Mai dự một khóa tu một hay vài tuần, thì chắc là tình
trạng hiểu biết về Làng Mai cũng như về Phật pháp sẽ trung thực và
đúng đắn hơn. Chúng ta có cụm từ “đến để mà thấy”, do đó trước khi
muốn phê bình thì phải đến nơi nhìn và tìm hiểu cho rõ. Ngày xưa bác
Bùi Tín về Làng Mai và sau đó đã viết một bài rất có giá trị với tựa
đề là ”Có
Một Đạo Phật Như Thế”
. Khi viết về Làng Mai chúng ta nên làm như thế, đừng đi cóp bi hoặc
dịch lại những bài của các tác giả khác nói về Pháp môn Làng Mai. Như
vậy bài viết chỉ là một cơn gió thoảng mà không có ấn tượng, không
phản ánh chân thực nên không có chiều sâu, không hướng dẫn và cũng
không giúp đọc giả được gì, tất cả chỉ là một sự phơi bày hời hợt cho
những ảo tưởng. Rồi một ngày nào đó, không có chánh tư duy nên bị một
làn gió ngược lại sẽ không đứng vững, sẽ bị “cuốn theo chiều gió”.
Theo như sự
hiểu biết của tôi thì phần lớn công án của Ts. Nhất Hạnh không có gì
khó hiểu.
Thí dụ như “An
lạc từng bước chân”, “Mắt thương nhìn cuộc đời”, “Thở và cười” v.v…
Những bài học dễ hiểu nhưng không phải ai cũng làm được. Nếu đến được
Làng Mai thì chúng ta sẽ thấy quí vị Tu sĩ và Cư sĩ đang thực tập
những công án đó. Có những người viết về công án không hẳn là sai,
nhưng đó không phải là lối giải đáp công án của Làng Mai. Không phải
như lối xưa với những công án như “con chó có hay không có Phật tính”,
rồi nghiền ngẫm có khi cho đến chết vẫn chưa biết “con chó có hay
không có Phật tính”.
Trong thời gian gần đây, Thiền Tông tại Việt Nam cũng có những sự thay
đổi. Hòa Thượng Thích Thanh Từ, trong cuốn “Trên con đường Thiền Tông”
Ngài viết như sau: ”Các Thiền sư thường nói Giáo là lời Phật nói
hay là miệng của Phật, Thiền là tâm của Phật, tâm và miệng của Phật
không hai. Vì tâm và miệng của Phật không hai nên Thiền và giáo không
hai, vì vậy Tu viện Chơn Không chúng tôi chủ trương Thiền Giáo song
hành”.
Việt Nam đang
kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử, nhà sử
văn Gs Nguyễn Lang đã viết rất nhiều, chúng ta chỉ cần đọc những bài
viết dễ hiểu đó là thấy tiền nhân trong thời Lý, thờì Trần. Những vi
thiền sư, tu sĩ đã giúp vua làm chính tri. Chính trị thời đó là dùng
chánh pháp để trị dân, nên Việt Nam trong những giai đoạn đó rất thanh
bình, thịnh vượng. Chúng ta có thể nói rằng, làm chính trị có hai hình
thức là trực tiếp và gián tiếp. Chính phủ đang trị dân là làm chính
trị trực tiếp. Những đảng phái (đa đảng), nếu may mắn được thành trước
khi đất nước rơi vào tay Trung quốc, đứng ra cổ động tranh cử với hy
vọng là lên nắm được chính quyền, đây cũng là việc làm chính trị trực
tiếp. Những trường hợp còn lại chỉ là làm chính trị gián tiếp, nói
đúng hơn là giúp cho những người đang trị dân làm việc cho
chính đáng. Do đó những phê bình xây dựng của người dân không thể
gọi là làm chính trị. Tuy nhiên chính quyền hiện thời vẫn thường tìm
mọi cách gán ghép những người phê bình việc làm không đúng của nhà cầm
quyền, rồi họ chụp mũ cho những người phê bình hay đóng góp ý kiến là
làm chính trị, để có cớ bắt bỏ tù. Chúng ta có thấy tên Đảng CS bây
giờ đã lỗi thời rồi không? Lý thuyết cho Đảng của mấy vị tổ sư CS đưa
ra thời trước, bây giờ có được thực hiện đúng như vậy không? Còn
CHXHCN như thế nào mà học sinh ở lứa tuổi đến trường giáo dục phải
đóng tiền học phí, ở những nước tư bản còn chưa có chuyện đó, có phải
là chính sách ngu dân không? Thật là ngoài phạm vi của CHXHCN. Người
nghèo khi có bịnh tật thì chỉ được phép chờ chết. Thậm chí người có
tiền khi vào bịnh viện cấp cứu mà thân nhân chưa kịp đem tiền tới thì
cũng nằm đó chờ chết. Còn nhiều nữa mà không thể kể hết ra ở đây được.
Chúng ta có thấy là tên nước cần phải đổi không? Có phải cái tên
CHXHCN cần phải đổi cho thích hợp với hoàn cảnh để dể ăn dể nói không?
Thứ trưởng
ngoại giao vì không được Thiền Sư tiếp kiến, lợi dụng việc này để chỉ
trích Thiền sư. Nếu chúng ta để ý đến lời của cô phát ngôn viên thuộc
Bộ Ngoại giao phát biểu trước đó thì chúng ta cũng biết là chính phủ
không có thiện chí, tìm cách chối quanh co. Muốn gặp gỡ Thiền Sư chỉ
là để giăng bẫy chứ đâu phải do thật lòng. Phát ngôn viên của Làng Mai
có nói với vị này: “Tăng thân Bát Nhã là những người Việt Nam, tu tập
tại Việt Nam, dưới sự bảo trợ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thì
chính quyền Việt Nam nên nói thẳng với những tu sĩ tại Bát Nhã. Làng
Mai hướng dẫn và cung cấp những giáo thọ để những tu sĩ tại Bát Nhã tu
theo Pháp môn Làng Mai, ngoài ra không có pháp chế trực tiếp trong
chuyện này”. Có rất nhiều Thượng Tọa đứng ra bảo lãnh để Tăng thân Bát
Nhã được về chùa địa phương dưới sự bảo trợ của các vị. Tất cả những
đơn xin trên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đệ trình lên Uỷ Ban Tôn
giáo Chính phủ đều bị từ chối. Thiện chí của Chính phủ từ đầu đã không
có thì chuyện đòi qua Pháp gặp Thiền Sư để làm gì? Hay là Thiền Sư cứ
chi ra vài tỷ đồng thì mọi việc sẽ được ổn ngay!
Dựa trên căn
bản của đạo Phật là Từ, Bi, Hỷ và Xả cho nên Ts Nhất Hạnh đã hướng dẫn
đệ tử: Ngồi yên bất bạo động, không những không thù không ghét
những người đến quấy phá, hành hung vô lễ mà còn thương họ, còn băng
bó vết thương cho họ khi họ vì phá mình, vì bạo động mà bị thương
tích.
Đệ tử của
Thiền sư ngồi thiền quán và tụng kinh, không có bất cứ một phản ứng
chống đối nào, vậy là phạm vào luật pháp Nhà nước sao? Chính phủ VN
qua đại diện là cấp ủy địa phương, tráo trở lừa lọc, lúc nói không có
bảo lãnh thì không được tu, lúc có bảo lãng thi nói không chấp nhận
việc bảo lãnh. Lúc nói Tu Viện Bát nhã là chuyện nội bộ, hồi nói chính
quyền không chấp nhận đơn xin. Còn bao nhiêu điều ngang trái nữa? Sao
không ai mang những sự thật đó soi sáng giúp người đọc hiểu rõ sự
thật, đâu là chánh pháp. Được như vậy công viết của ta có phải hữu ích
bao nhiêu? Còn Ban tôn giáo chính phủ là ai? Họ là người phục vụ cho
tôn giáo như cái tên của họ hay là công cụ để kiểm soát và giới hạn
quyền tự do tôn giáo. Tôn giáo là tôn giáo, chính phủ là chính phủ,
đem bốn chữ ghép lại thành Tôn giáo Chính phủ cho thấy một cuộc tình
gượng ép, Tôn giáo kết hôn với Chính phủ để thành ra cái Ban này. Có
phải chính phủ dùng chữ mà lừa dân giữa ban ngày không?
Trong “Công
Án Bát NHã” Thiền sư không lên án ai, không lên án một tổ chức nào.
Nếu có là tiếng chuông thức tỉnh những tri giác sai lầm của con người
nói chung và của những người có thẩm quyền nói riêng, thương xót cho
những người tạo nên nghiệp dữ. Đó là lòng từ bi của
Thiền sư, không phải là lên án. Có những người không bằng lòng khi
tưởng Thiền Sư phê bình những việc làm của Đảng. Nói lên tiếng nói của
lương tâm, của đạo đức, của lẽ phải là điều nên nói lắm chứ. Những
tiếng nói cảnh tỉnh những vô minh của cấp lãnh đạo đang đưa đất nước
đến chỗ trầm luân, tại sao lại không nói? Thiền sư đã vạch đường cho
nhà nước đi, chỉ đi trên con đường Ngài chỉ dẫn là những nhà cầm quyền
kia có cơ hội để ngộ, dân bớt lầm than.
Khi viết
những lời phê phán chúng ta phải hiểu rõ đối tượng mình phê phán. Khi
chưa tới Làng Mai tu tâp, học hỏi và hiểu biết hoàn toàn không biết và
không hiểu về những gì mà Pháp môn Làng Mai dành cho những người bạn
đến từ những tôn giáo khác mà chúng ta phê phán thì thiệt tội nghiệp
cho Làng Mai và tôi nghiệp cho cả người viết nữa. Bài viết của tác giả
Hoàng Phi Long đã trình bày khá nhiều nên tôi không nói tiếp ở đây.
Tôi chỉ muốn nhấn mạnh thêm là những kinh điển được Ts Nhất Hạnh và
Làng Mai chuyển dịch từ tiếng Hán, tiếng Phạn, tiếng Pali ra tiếng
Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và gần đây sang tiếng Đức, tất cả đều từ
những tạng kinh điển của Phật giáo từ xưa truyền lại. Trong những buổi
lễ Phật, tụng kinh, dâng hương đều hoàn toàn có nội dung như bất cứ
mọi ngôi chùa Phật giáo khác. Về hình thức thì có một số thay đổi cho
phù hợp, thí dụ như những tu sĩ và thiền sinh tu theo Pháp môn Làng
mai dù xuất thân từ nước nào, khi về Làng Mai ai cũng có cơ hội được
tụng những bài kinh từ chính ngôn ngữ của mình. Đó là một hạnh phúc
rất lớn. Mỗi lần họ đến Làng Mai là được tụng kinh Bát Nhã bằng tiếng
mẹ đẻ, nhờ đó mà mọi người hiểu nội dung bài kinh rất thấu đáo, chỉ
còn hạ thủ công phu để tu tập thôi.
Ts. Nhất
Hạnh vẫn thường khuyên nhủ những thiền sinh đến Làng Mai tu tập nên
giữ lấy tôn giáo gốc của mình. Chúng ta ai cũng biết rằng tôn giáo
đóng một vai trò rất quan trọng trong truyền thống dân tộc và văn hóa.
Có người không còn đì đến nhà thờ nhưng không có nghĩa là họ không còn
thương Chúa. Những người bạn này đến với đạo Phật mà họ phải bỏ hết
những truyền thống, cội nguồn của họ là điều không hay. Đạo Phật lại
có khả năng hội nhập và thích ứng với truyền thống và mọi nền văn hóa
nơi nó được truyền đến. Điều này chắc chắn chúng ta ai cũng đã biết,
đạo Phật ở Tây Tạng không hoàn toàn giống như đạo Phật ở Trung Hoa, ở
Thái Lan hay là ở Nhật Bản. Vì vậy cho nên có rất nhiều Pháp môn khác
nhau, con số 84 ngàn Pháp môn để cho chúng ta thấy là có rất nhiều. Để
giúp cho những thiền sinh cũng như những đọc giả có cơ hội tự mình tu
tập tại gia, Ts. Nhất Hạnh đã viết kèm thêm những cuốn sách như
“Living Buddha, Living Christ” v.v… Đây là những cuốn sách dành cho
những người bạn có đạo Thiên Chúa hay Tin Lành v.v… đến tu tập theo
Phật Pháp cùng với chúng ta. Đây là một sợi dây nối liền giữa tôn giáo
mà họ đã theo để cùng đi trên con đường thực tập theo Pháp môn của
Làng Mai, của đạo Phật. Họ đã có cơ hội biết rõ như vậy nên họ rất
hạnh phúc. Chính vì thế mà con số thiền sinh nước ngoài qui y Tam Bảo
và thọ 5 giới rất nhiều. Qui y Tam Bảo tức là họ đã chọn hướng đi về
nương tựa Phật, Pháp và Tăng. Chúng ta thấy con đường như vậy có tốt
đẹp cho đôi đàng không?
Một khi
chúng ta chỉ trích, phê bình đạo Thiên Chúa, Tin Lành hay một đối
tượng, người phê bình phải có cái nhìn chánh niệm, phải dùng con mắt
thiền quán mới thấy được. Thiền Sư đâu có chỉ cho chúng ta nói những
lời nói thiếu xây dựng, có tính cách đã kích, làm như thế vô tình đã
tạo ra những căm thù và hiềm khích mà một người Phật tử chân chính
không nên làm. Trở lại chuyện tu tập của những người Phật tử như chúng
ta, chúng ta đâu có đi tìm hiểu Phật pháp trong những cuốn sách viết
cho tín đồ đạo khác làm gì. Thiền sư Nhất Hạnh và Làng Mai viết và
chuyển dịch hầu hết là những sách và kinh điển thuần túy về Phật giáo,
chúng ta nên lựa và đọc những sách thích ứng với mình. Kinh điển của
Đức Phật truyền lại nhiều vô tận, chúng ta đâu có thể đọc hết để hiểu
Phật pháp. Kinh điển hay Pháp môn giống như những vị thuốc chữa trị
cho tâm, chúng ta chỉ cần chọn những liều thuốc thích hợp với căn bịnh
của mình mà dùng. Đừng uống sai thuốc rồi chê thuốc dở.
Một vài
người đã dùng thuật ngữ để xuyên tạc, Pháp môn Làng Mai chủ trương nam
nữ tu chung, trái với truyền thống nam nữ tu riêng của Việt Nam. Nam
nữ tu chung ở đây là tu chung Pháp môn Làng Mai. Tại Làng Mai ở Pháp,
tăng sĩ ở xóm Thượng và sư cô ở Xóm Hạ và Xóm Mới, cách xa nhau từ vài
cây số đến mấy chục cây số. Ở tu viện Bát Nhã Tăng và Ni cũng ở trong
những xóm riêng biệt. Và hầu hết những nơi khác trên thế giới, những
tu sĩ theo Pháp môn Làng Mai đều ở những tăng xá và ni xá riêng. Hơn
nữa, một trong những điều kiện để trở thành một tu viện thì cần phải
có đủ bốn chúng, thiếu một trong bốn chúng sẽ không thể là một tu
viện. Tu viện khác Phật học viện. Tôi cũng muốn nói thêm là giới luật
của Tăng thân Làng Mai cũng là giới luật của các tu sĩ thuộc Giáo hộì
Phật giáo Việt Nam. Tức là thọ giới sa di gồm có 10 giới, thọ giới tì
kheo có trên 250 giới và tì kheo ni có trên 350 giới. Ngoài ra Ts Nhất
Hạnh và Làng Mai còn qui định thêm nhiều giới luật mới mà thuở Đức
Phật còn tại thế chưa có, như là những giới luật khi đi ra đường, khi
đi chợ, khi xử dụng điện thoại, khi vào internet, khi đọc e-mail v.v…
đều phải có đệ nhị thân, không ai được phép làm một mình. Có người
viết là “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” thì những tu sĩ ở Việt Nam hay
là ở Làng Mai ai cũng biết, là trong chùa có những giới luật gọi là
giới rơi rụng, chuyện liên hệ nam nữ là vi phạm vào giới luật này.
Những tu sĩ khi phạm vào giới này bắt buộc phải rời khỏi tu viện. Ai
cũng biết là trong cuộc đời tu hành, chuyện nam nữ là một trở lực rất
lớn, muốn tiếp tục đường tu thì phải vượt qua trở lực này. Nếu chúng
ta chịu tìm hiểu một chút thì đã thấy những nam nữ tu sĩ tại tu viện
Bát Nhã quá thành công trong chặng đường thử thách đó. Gần 5 năm tu
hành tại tu viện Bát Nhã, những tu sĩ tại đây đã giữ gìn giới luật rất
nghiêm mật, mặc dù họ còn rất trẻ, phần đông ở tuổi 18 đôi mươi như
chúng ta đã biết. Đúng ra chúng ta phải tán thán về những đức hạnh này
của các tu sĩ một thời đã sống và tu tập tại tu viện Bát Nhã.
Những giả
thuyết sai sự thật là hành động vô trách nhiệm, ai bảo những vị tu sĩ
dưới 18 tuổi tại tu viện Bát Nhã là đi xuất gia mà không có ý kiến của
cha mẹ và người giám hộ? Những vị này đã được vị thầy truyền giới là
thượng toạ Đức Nghi, viện chủ tu viện Bát Nhã và trực thuôc vào Giáo
hội Phật Giáo Việt Nam tryền giới. Chiếu theo pháp luật Việt Nam và
nội quy của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những vị xuất gia nói trên đã
làm đúng theo pháp luật và Giáo chỉ. Chỉ vì khi TT Đức Nghi sau một
thời tuyên bố là không bảo lãnh cho những vị tu sĩ này nữa, vì một lý
do riêng hay là do áp lực của chế độ, đưa đến chuyện côn đồ vào hành
hung tại tu viện Bát Nhã và Pháp nạn Bát Nhã cũng bắt đầu từ đó.
Trong bài
Bát Nhã một công án thiền, phải chăng thiền sư Nhất Hạnh muốn nhắc nhở
mọi người Việt nam chúng ta, trong cũng như ngoài nước hãy cùng nhau
nhìn lại một truyền thống đạo Phật từ bi do ông cha, tổ tiên chúng ta
trao truyền lại. Viên ngọc quí giá kia bao năm đã bị bụi thời gian che
đậy. Hôm nay đây viên ngọc quí đã và đang được những người con của đất
nước mang ra làm trong sáng trở lại, giờ đây đã sáng ngời. Những người
đó là những thanh thiếu niên trẻ đầy nhiệt huyết, được tu luyện cho
bông bi trí khởi lên, họ là người xứng đáng nối tiếp sự nghiệp của tổ
tiên, một truyền thống đáng quí, đáng được gìn giữ. Một Tăng đoàn áo
lam đã và đang tu tập tâm từ bi, không những không được che chở mà còn
bị đánh bật ra khỏi tu viện, làm tổn thương trên mọi bình diện. Chúng
ta hãy nhìn lại một xã hội, một chính phủ một nhà cầm quyền… Bát Nhã ở
đây không đơn thuần chỉ có 400 tu sĩ đã sống và hành đạo tại tu viện
Bát Nhã. Bát nhã ở đây không phải là thiền đường, Bát Nhã ở đây không
phải là những gì nắm bắt được. Bát nhã ở đây là ý thức của mỗi chúng
ta, mỗi đảng viên, mỗi công an, mỗi cán bộ… là truyền thống, là lịch
sử Việt Nam. Nếu mỗi người chúng ta đặt mình vào trường hợp Tăng thân
Bát Nhã, như chính chúng ta đang bị nhục mạ, đang bị tổn thương, đang
bị cấm tu chung trong một đoàn thể tu học, đang bị mất tự do, đang bị
… Thế kỷ thứ hai mốt vừa bắt đầu, thế giới đang thực hiện toàn cầu
hóa, để cho hòa bình, tự do được thăng tiến. Còn chúng ta, người dân
nước Việt đã và đang bị thiệt thòi, đang thụt lùi trên mọi mặt, nhân
quyền, tự do… Người dân Việt Nam đừng để chế độ đương thời làm mờ đôi
mắt, đừng rơi vào những lừa gạt, đổi trắng thay đen, theo đường lối
không có đạo đức của xã hội đen để trị Nước. Người dân Việt Nam yêu
nước, thương dân đâu, chúng ta hãy cùng nhau đứng chung, cùng nhau
quán chiếu công án Bát Nhã.
--------------------
(1) Đảng
viết hoa vì nó trở thành danh từ riêng, ở VN không có một Đảng nào
khác hơn Đảng CS. Ngày xưa tên Đảng là Lao động, họ biết rằng có một
ngày họ sẽ phụ lòng giới này nên họ đã kịp thời đổi tên là Cộng Sản.
Rồi một ngày không xa họ sẽ lấy một tên khác gì đó… Họ đã chuẩn bị
trước hết rồi, tiền bạc họ đã có đầy đủ để trở thành một đảng tư bản,
như ở bất cứ một xứ tư bản nào khác. Tội nghiệp cho phút giao thời,
nhiều người đã nói lên cái sự thật đó mà phải ngồi tù oan ức.
(2)
Thiền vị trên đầu lưỡi.
BẠCH HẠC dịch.
Từng bước thảnh thơi, từng bước nở hoa sen |
|

ĐẠO BỤT
TRONG
DÒNG
VĂN
HÓA
VIỆT
PHẬT SỰ
VU LAN 2551
VẤN ĐỀ GIÁO HỘI TN
ĐẠO BỤT HIỆN ĐẠI HÓA
PHÁP NẠN CHÙA BÁT NHÃ III -
II
THEO DẤU THIỀN SƯ
3
|
4
|
5 |
6 |
7
LIÊN MẠNG PHẬT GIÁO
VIỆT NAM : |
|