Hàng muôn, hàng vạn
Thích
Nhất Hạnh mặc một chiếc áo tràng nâu bình dị và giúp đời với tư cách
một Thầy tu, một thiền sư, một tác viên xã hội, một học giả, một nhà
thơ, một cây cầu nối liền các tôn giáo thế giới. Và, trong một ý
nghĩa nào đó, một nhà cách mạng. Như thi sĩ Walt Whitman, ông có thể
nói với một niềm tin: “Trong tôi có hàng muôn hàng vạn…” (I contain
multitudes). Nhưng thay vì nói thế, ông chỉ nói rằng: “Tất cả chúng
ta ai cũng chứa hàng muôn hàng vạn… trong con người của mình.” Trong
ba mươi năm qua, Thích Nhất Hạnh (mà giới đệ tử thường gọi một cách
thân mật và cung kính bằng danh từ Thầy) đã ra công cày cấy mảnh đất
chánh pháp ở Tây Phương. Tôi thích cách Richard Baker nói về ông:
“Thầy Nhất Hạnh là một điểm gặp gỡ giữa một đám mây, một con ốc sên
và một bộ phận cơ khí hạng nặng – đúng là một sự hiện diện đích thực
của tâm linh.”
Trong những năm 1980, những người theo học với Thầy chỉ là giới
thiền sinh và giới tranh đấu cho hòa bình vừa làm quen được với ý
niệm “đạo Phật dấn thân” (engaged Buddhism) đã được Thầy và quý vị ở
Việt Nam dựng lên trong hoàn cảnh biển lửa của chiến tranh Việt Nam.
Hai mươi hai năm sau, và sau nhiều cuộc chiến tranh khác, ông đã trở
thành một trong những vị đạo sư Phật giáo nổi tiếng, có ảnh hưởng
mạnh nhất trên thế giới. Những trung tâm tu tập do ông lập nên ở
Pháp, California và Vermont đã trở nên rất nổi tiếng, có rất đông
đảo người về tu học. Hàng trăm tăng thân địa phương đã được thiết
lập dưới cái tên chung là Cộng Đồng Sống Trong Chánh Niệm làm nền
tảng yểm trợ cho công trình giảng dạy và tu tập của ông. Hàng ngàn
người tự nhận là đệ tử của ông, hàng triệu người đã đọc sách ông –
ngay sách tiếng Anh của ông cũng đã có trên một trăm điểm sách được
xuất bản. Vào tuổi 80, ông vẫn tiếp tục dịch thuật, trước tác, giảng
dạy, tuyên dương chánh pháp, bất chấp ngày đêm, thách thức chúng ta
phải nhìn lại một cách sâu sắc vào bản thân của chúng ta và vào
những cơ cấu xã hội mà chúng ta đã tạo dựng.
Mới đây thôi, tôi có đọc sách Thiền Hành Yếu Chỉ của Thích Nhất Hạnh
và tôi đã có dịp áp dụng đi chầm chậm quanh hồ Merritt của thành phố
Oakland. Tôi nhớ mãi hai đoạn văn trong sách ấy. Đoạn thứ nhất, ông
viết: “Có người nghĩ rằng đi trên than hồng, trên bàn chông hay trên
mặt nước mới là phép lạ. Tôi thì khám phá ra rằng đi trên mặt đất đã
là một phép lạ rồi.” Trong đoạn thứ hai, ông nói rằng chánh pháp ôm
lấy mọi điều, trong đó có cả khổ đau và an lạc: “Tự tánh đích thực
của chúng ta cũng là những miền bùn lầy nước đọng của thèm khát, hận
thù và u mê. Chân lý cũng là khổ đau và tủi nhục mà con người đã tạo
ra cho nhau. Nếu lắng nghe cho kỹ, ta cũng thấy được trong tiếng
chim hót những dấu vết của khổ đau và sợ hãi.”
Cuốn sách mới nhất của Thầy là cuốn Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức
(Buddha Body Buddha Mind) do nhà Parallax ấn hành. Đó là nhà xuất
bản mà Thầy và Arnold Kotler lập ra từ năm 1987, bây giờ đã trở
thành một cơ quan xuất bản không vụ lợi của Cộng Đồng Sinh Hoạt
Chánh Niệm có nhiệm vụ quảng bá sách của Thầy và các tác giả khác
viết về chủ đề Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời. Tôi thấy quyển Bụt là hình
hài, Bụt là tâm thức là một tác phẩm về Phật giáo Tâm Lý Học Mới
thuộc loại xuất sắc nhất. Và chúng ta không ngạc nhiên khi sách bắt
đầu bằng pháp môn thực tập thiền đi.
“Thực tập thiền đi chậm một mình, quý vị hãy thử phương pháp này:
thở vào và bước một bước, chú tâm hoàn toàn vào gan bàn chân. Nếu
quý vị chưa “về”, chưa “tới” được một trăm phần trăm thì đừng bước
thêm bước nào nữa cả. Cứ đợi cho quý vị về tới giây phút hiện tại
được một trăm phần trăm rồi thì mới bước đi bước kế tiếp. Quý vị có
thể “xài lớn” thì giờ như vậy. Và khi quý vị thấy mình đã về đã tới
được một trăm phần trăm rồi thì hãy mỉm cười và bước thêm một bước
khác. Bước đi như vậy, quý vị in xuống đất sự vững chãi và thảnh
thơi của quý vị.”
Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức là một cuốn sách tiếp nối công
trình, phát huy giáo lý Duy Biểu của Thầy Nhất Hạnh, lấy cảm hứng từ
kinh Lăng Già và các bộ luận của tổ Thế Thân, sống vào thế kỷ thứ
năm. Cuốn sách trước đó cùng một chủ đề của Thầy là Để Hiểu Tâm Ta
(Understanding Our Mind), giảng dạy năm mươi bài tụng Duy Biểu của
trường phái Vijnanavada.
Trong khi Để Hiểu Tâm Ta là một cuốn sách thuộc loại chuyên môn đọc
khá khó hiểu thì Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức lại là một quyển
sách đọc rất dễ hiểu vì Thầy Nhất Hạnh đã có tài năng khéo léo diễn
tả được những giáo lý khó khăn thâm diệu trong đạo Phật thành ra dễ
hiểu với ngôn ngữ thông dụng của thời đại chúng ta. Cuốn sách bắt
đầu bằng cách dạy thiền đi, không phải là không có chủ ý. Chánh niệm
từ trước đến nay đã là trung tâm của những gì Thầy giảng dạy và giữa
thân và tâm không có gì ngăn cách. Khi ta thực tập thiền đi, thiền
ngồi, thiền lạy; khi ta tiếp xử với nhau, ta sử dụng cả thân và tâm
cùng một lúc. Khi nói tới tương tức, đồng thời Thầy cũng đề cập tới
sự nhất trí diệu kỳ giữa thân tâm với những phức hợp đa dạng, tương
liên, tương quan, khắng khít và bất khả tri của các cơ cấu xã hội
trong đó ta đang sống.
Những gì Thầy Nhất Hạnh giảng dạy đều chỉa mũi dùi vào những cuồng
tín và những ảo tưởng của chúng ta. Dòng tu Tiếp Hiện, thành lập năm
1966, có mười bốn giới mà giới đầu tiên là: “Ý thức được những khổ
đau do thái độ cuồng tín và thiếu bao dung gây ra, con xin nguyện
thực tập để đừng bị vướng mắc vào bất cứ một chủ thuyết nào, một lý
thuyết nào, một ý thức hệ nào, kể cả những chủ thuyết Phật Giáo.
Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn
hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giác và từ bi mà không phải là
những chân lý để thờ phụng và bảo vệ, nhất là bảo vệ bằng những
phương tiện bạo động.”
Chúng ta phải nhìn cho rõ để đạt được tuệ giác qua cái sợ của chúng
ta, đừng bao giờ không công nhận bất cứ một cái gì đang thuộc về ta
và cũng không bao giờ nên cố níu giữ lấy những cái mà ta đã quá tin
tưởng là thật, mà thật ra là không thật. Tuệ giác này, trong sách
Bụt là hình hài, Bụt là tâm thức đã được đề cập tới rất rõ ràng,
thấu đáo - một tuệ giác đưa tới thương yêu và bất bạo động:
“Thiền tập được dựa trên tuệ giác bất nhị - giữa thiện và ác, giữa
khổ và lạc, vì vậy phương pháp xử lý khổ đau luôn luôn là nhẹ nhàng,
bất bạo động. Khi ta đã chấp nhận được tính cách bất nhị của thực
tại, ta sẽ trở thành bất bạo động một cách tự nhiên. Ta thấy không
cần phải đàn áp, xua đuổi cơn giận và nỗi sợ của ta nữa, bởi vì ta
thấy cơn giận ấy và nỗi sợ ấy cũng là chính ta, chứ không phải là kẻ
thù của ta. Do đó, ta sẽ đối xử với chúng một cách nhẹ nhàng êm dịu.
Sẽ không còn có sự xung đột nữa. Chỉ còn lại sự thực tập để chăm sóc
và chuyển hóa.”
Thầy Nhất Hạnh miêu tả Lục Ba La Mật như “sáu kỹ thuật tạo nên hạnh
phúc”. Ba La Mật có nghĩa là “từ bờ bên này đi qua bờ bên kia.” Tôi
có cảm tưởng là khi dạy về lục độ, Thầy luôn luôn nhấn mạnh tới nhẫn
ba la mật và tinh tấn ba la mật nhiều hơn. Nhẫn (ksanti) đối với
Thầy là kiên nhẫn và không loại trừ, tinh tấn (virya) là chuyên cần,
siêng năng. Nếu không siêng năng vượt bậc thì làm sao Thầy đã tạo
dựng và nuôi dưỡng được từng ấy tăng thân xuất gia và tại gia ở Tây
phương, làm sao Thầy đã viết được từng ấy cuốn sách, làm sao có thể
cứ tiếp tục đi giảng dạy khắp nơi trong suốt mấy mươi năm trời và
làm sao chịu đựng nỗi bốn mươi năm lưu đày viễn xứ? Thầy mới được
phép về lại quê xưa lần đầu cách đây chỉ có hai năm! Hơn thế nữa,
nếu không chuyên cần và chịu đựng, làm sao Thầy đã kiên trì tranh
đấu cho hòa bình và đối diện được với khổ đau trên thế giới trong
suốt mấy mươi năm với hiểu biết và tình thương mà không hề thối chí
như thế.
Nhẫn nhục đi đôi với tinh tấn. Nhẫn nhục, theo Thầy, là “thực tập để
làm cho trái tim ta ngày càng lớn rộng thêm ra.” Cũng như mục sư
Martin Luther King Jr. dạy về agape trong Cơ Đốc giáo, Thầy dạy:
“Nhẫn nhục là ôm lấy tất cả trong tình thương của mình mà không loại
trừ bất cứ ai. Trong tình thương đích thực, ta không còn kỳ thị nữa,
dù người ấy là da đen, da trắng hay da vàng, dù người ấy theo đạo
Hồi, theo đạo Bụt, theo đạo Do Thái hay theo chủ nghĩa cộng sản đi
nữa mình cũng chấp nhận tất cả mà không còn kỳ thị. Nhẫn nhục ở đây
có nghĩa là không kỳ thị.”
Thầy Nhất Hạnh nhìn đạo Bụt như con đường tu tập để trở thành một
con người toàn vẹn, bước đi trên trái đất một cách an lạc, tạo dựng
được hòa bình. Cách sống này vượt lên khỏi mọi tôn giáo và mọi ý
thức hệ, cho tình người là cao cả hơn hết. Tuy nhiên Thầy cũng nói
rằng các tôn giáo lớn phải có trách nhiệm đưa tín hữu của họ vào con
đường nhân bản này. Tôi thấy nhà Riverhead vừa ăn mừng kỷ niệm ngày
xuất bản cuốn Bụt Ngàn Đời Chúa Ngàn Đời (Living Buddha Living
Christ) bằng một ấn bản thứ mười của cuốn sách ấy - một tác phẩm
được xem như nền tảng chung của cả Phật giáo lẫn Ky Tô giáo. Với một
bài tựa của học giả Elaine Pagels, cuốn sách này cũng là một viên đá
nền tảng khác cho Phật pháp tại Tây Phương, bây giờ đây còn thích
ứng với thời cuộc hơn cả mười mấy năm về trước, khi nó mới được xuất
bản lần đầu. Tinh hoa của cuốn này, cũng như của bao nhiêu cuốn sách
khác của Thiền sư Nhất Hạnh là đối thoại và chia sẻ, cái mà thế giới
chúng ta đang thực sự cần đến hơn bao giờ hết, cho tất cả các tôn
giáo trên thế giới. Làm thế nào để tự nuôi dưỡng mình và nuôi dưỡng
truyền thống tôn giáo của mình? Thầy viết: “Khi Phật tử và Ki tô hữu
tới với nhau, họ nên ngồi xuống ăn với nhau một bữa cơm có chánh
niệm. Ăn cơm như thể là cử hành bí tích thánh thể. Thực tập ăn cơm
trong chánh niệm như thế, mỗi bữa ăn đều có thể trở nên bữa ăn cuối
cùng (the Last Supper). Thật ra, ta có thể gọi đó là bữa ăn đầu tiên
(the First Supper), tại vì sau khi ăn một bữa ăn như thế, tất cả mọi
cái đều trở thành mới tinh và tươi mát.”
Dịch từ tạp chí Buddhadharma, số Summer 2007
(tác giả Hozan Alan Senauke là tu sĩ phật giáo thuộc tông Tào Động
Nhật Bản, hiện là thủ chúng của thiền viện Berkeley. Ông cũng là cố
vấn lâu ngày cho tạp chí The Buddhist Peace Fellowship).
Nguồn:
LM |