Mẹ và tôi
Mẹ tôi không muốn di
cư sang Mỹ ở tuổi sáu mươi. “Già rồi, sang bên ấy chỉ ăn bám vợ
chồng chúng mày!”. Bà nói khăng khăng như thế nhưng con gái xuống
nước năn nỉ ỉ ôi, bà lại xiêu lòng. Ờ, nó nói cũng phải, mình qua
bên ấy giữ cháu ngoại cũng vui, lại đỡ nhớ, khỏi phải chờ mong. Mình
ở đây nó phải gửi tiền về cấp dưỡng, tốn kém lắm chớ chẳng không!”
Dì tôi cười, nói như lẩy: “Nợ đòi rồi đấy, cứ sang mà trả cho xong!”
Nghe mẹ kể lại lời dì, tôi cảm thấy hơi áy náy. Quả thật tôi cần mẹ
không chỉ thuần túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy cháu
bốn đứa. Dạo này buôn bán ế ẩm, tôi không kham nỗi tiền giữ trẻ, cũng
không thể tiếp tế đều đặn cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện…
Căn nhà ba phòng của vợ chồng tôi, bề ngoài trông cũng khang trang với
cây cảnh chung quanh và cửa garage tự động nhưng thật ra chỉ rộng 1100
sf. Trừ phòng ngủ chánh tương đối rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức,
nhỏ xíu xiu. Đất ở San Francisco là đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm mươi
tuổi này trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng lô đất 4000 sf của nó giá hơn
bốn trăm, dù là nằm ở vùng ngoại ô xa tít. Thành ra cứ rán giữ, rán nắm
dù mệt muốn hụt hơi. Cửa tiệm fast food bán cho nhân viên các hãng xưởng
gần đây cũng theo đà lay-off mà đi xuống. Đến đầu tháng là chúng tôi
điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán. Tư trang sắm từ những năm phồn
thịnh buôn may bán đắt lặng lẽ nuối đuôi nhau đi hết, vào nằm im nơi các
tiệm cầm đồ. Chúng tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán nhà vì đó là gia
tài duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại bây giờ đi
mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu người, giá thuê hàng tháng
còn mắc hơn số tiền trả góp nhà. Trong tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ
tôi lo cho tụi nhỏ, đưa đón đi học, quán xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh
rang hơn để đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa về phụ tiệm ăn với chồng
tôi. Buổi tối chúng tôi sẽ đi clean các tiệm ăn, chợ búa. Chịu khó một
thời gian hi vọng kinh tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã hăm hở đón
chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ nó bắt đầu bằng sự xuống dốc!
Mẹ sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì chưa quen nhưng màu
xanh của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày thường
không ai gần gũi chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé út
mới bốn tuổi cũng không rành tiếng Việt. Bà cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc
trao đổi nhé! Bà dạy các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói
tiếng Anh.” Thấy mẹ vui, tôi an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai
tầng của hai cô bé gái là tấm nệm của bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói
chuyện rì rầm; có khi hai cậu trai cũng gõ cửa xin vào để được hưởng
không khí đầm ầm bên bà ngoại rất hiền và rất vui.
Mẹ như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi đầy phiền muộn
của chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nấp, sạch sẽ và đầy tiếng cười. Trước
kia, chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng, lắm khi nuốt
chẳng trôi. Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ rau vào tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi
chiều về gia đình tôi được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng
hổi, hương vị ngọt ngào. Chỉ sau và tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ
phép ra và biết phụ giúp công việc lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai
lớn, bà phân công lo vườn tược cây kiểng: “Thằng Hùng mười hai tuổi, lớn
rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa lá, bón phận, Hậu cũng mười tuổi rồi,
thay vì ôm máy chơi game, có thể phụ anh quét sân, tưới nước.” Bà hiền
lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng không còn là những đứa bé
“vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không đến nỗi tệ nhưng vợ
chồng tôi quần quật với công ăn việc làm, không có thì giờ dạy dỗ, chỉ
vẽ. Bảo làm chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy có, rầy mãi phát mệt
thành ra không thèm sai biểu nữa, tự mình làm chóng xong mà vừa ý hơn.
Con Hoa hãnh diện khoe với mẹ: “Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau,
rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!” Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã
cho gia đình tôi cơ hội để sống có hạnh phúc thay vì cứ mãi rầy rà, cãi
vả, gây ó nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn.
Mẹ vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà giảng dạy cho tôi về
đạo lý: “Hạnh phúc không phải là món quà từ đâu đến, không phải tự nhiên
mà có, cũng chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách sống,
biết cách hợp tác xây dựng thì mới có hạnh phúc.” Thuở ấy, đầu óc tôi
quá dầy đặc với những con số để có thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng
không có thì giờ… Thôi thì để mẹ lo giùm. Mỗi chiều về nhìn các con
ngoan, được ăn bữa cơm tối ngon, đối với tôi đã là đủ rồi. Tôi bận rộn
với nợ nần đến nỗi không mấy khi chú ý đến tâm tình của mẹ. Bây giờ kiểm
điểm lại mới nhớ rằng tôi ít hỏi thăm về sự buồn vui của bà. Thay đổi
môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu thứ: chị em, họ hàng,
lối xóm, sư ông, bằng hữu… Đôi khi, mắt mẹ thoáng buồn. Tôi chỉ hỏi qua
loa: “Mẹ có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng vái thầm: “Mẹ
đừng ngã bệnh, khổ con!” Là con một nên cách suy nghĩ của tôi thường ích
kỷ như thế. Cái gì cũng qui về mình, cho mình thôi!
Thắm thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một năm rồi. Gia đình thì ổn thỏa
nhưng tình trạng tài chánh càng ngày càng bết bát mặc dù vợ chồng tôi bỏ
sức lao động gấp đôi. Giao kèo mướn cửa tiệm sắp hết hạn mà chẳng tìm
được người sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất luôn năm mươi ngàn
bỏ ra sang tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì ngày càng thua lỗ, chẳng
kham được nữa. Chuyện gì đến, phải đến. Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi
thủi dọn đồ về trả lại cửa hàng cho người ta sau mười năm làm chủ. Bây
giờ hóa ra là kẻ làm công, lại làm những nghề linh tinh quét dọn. Tủi
thân mà tức số phận mình. Mẹ an ủi: “Thôi, như thế đỡ lo con ạ. Tinh
thần căng thẳng quá có khi phát dại, hóa cuồng! Trong cái dở có cái hay
là thế!” Chúng tôi lợi dụng thời gian tương đối rảnh rang này để sửa
chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay nên cái gì cũng tự
làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ. Một hôm anh leo lên mái nhà để lợp lại
mấy miếng ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té xuống bất
tỉnh. Chỉ có mình mẹ ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt vài câu tiếng
Anh: “He falls down from the roof.
He stops breathing!” Và rành rọt đọc địa chỉ, số phone nhà cho họ. Ai
ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau đến thế! Bà đã cứu mạng chồng tôi! Thắng
bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm tại chỗ từ năm đến sáu tháng.
Tình cảnh này đưa mẹ tôi vào môi trường mới. Bà tự nguyện thế chỗ cho
chồng tôi để quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp tôi về tài
chánh. Mẹ hăng hái trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ cũng
buồn, nay được ra ngoài bà cảm thấy vui hơn. Bà có những người bạn mới:
cô thâu ngân vui tính, bà lão phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng”
chuyên khuân vác. Mẹ hòa mình với họ, với cuộc sống của những người lao
động tay chân. Đâu ai biết rằng trước 1975, mẹ là giáo sự dạy Pháp văn
tại một trường công lập lớn ở Sài Gòn. Các con tôi biết hoàn cảnh bi đát
của gia đình nên mỗi đứa một tay, cùng nhau lo chuyện nhà. Mẹ tôi hài
lòng thấy các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết thương mẹ thương
cha.
Ngày anh Thắng trở lại công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói:
“Con ơi, ra ngoài cũng vui, lại kiếm được đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến
nay đã gần hai năm, mẹ chưa gửi tiền về giúp các em, các cháu bên ấy.
Tụi nó nghèo lắm mà chẳng có cách kiếm ra tiền cho kịp đà leo thang của
vật giá. Bên này kiếm tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có phương tiện cúng
dường, bố thí…” Tôi im lặng nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa hề hỏi tôi
một đồng xu nào và tôi quên bẵng rằng mẹ cũng có nhu cầu tiêu xài. Trên
thế gian này, không có nhân viên nào làm việc cật lực mà không đòi hỏi
thù lao như thế! Vô tình, tôi đã “đòi nợ” mẹ tôi một cách tận tình. Dì
tôi cũng có lý khi bà mỉa mai tôi.
Trong lúc tôi đăm chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin được chân rửa
chén trong nhà hàng. Rửa bằng máy chả cực nhọc gì!” “Trời đất ơi, rửa
chén, cần sức lực của người đàn ông Mễ mới kham nỗi. Nồi niêu soon chảo
to như cột đình, nặng như búa tạ, làm sao mẹ nhấc cho nổi!” Tôi xuống
giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ gầy yếu, lưng mẹ đã cong, bước
đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn tạm, vài hôm cũng cho
nghỉ việc thôi!” Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi, cái
già đến nhanh quá. So với hồi mới qua, bà như tăng thêm năm, bảy tuổi.
Mẹ tôi cúi đầu xuống thấp. Hình như bà cố giấu giọt lệ vừa ứa ra. Tôi
nhẹ nâng cầm mẹ lên và nhìn sâu vào đôi cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt
mẹ đã kéo mây! Đôi mắt bồ câu đen láy ngày nào từng làm điên đảo các
chàng trai cùng trang lứa, cột chân ba tôi vào tổ ấm gia đình, giờ đã
một phần ngả màu đục lờ như nước gạo vo. Tóc mẹ trắng bơ phờ, đuôi mắt
nhăn như rẻ quạt, vầng trán sạm đen vết đồi mồi… Tôi mủi lòng xót xa.
Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người này thấm ướt vai áo người kia. Tôi
nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa sẽ tìm công
việc nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé! Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ
thế này chắc khó siêu.” Trời cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau
thì bà lão làm rau cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành “bà cụ
hàng rau”. Danh xưng và chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy mà bà
vui. Mỗi tháng bà lãnh được hơn ngàn bạc. Phân nửa số tiền, bà gửi về
Việt Nam: phần cúng dường, phần bố thí, phần giúp đỡ các em, các cháu.
Số còn lại, bà dành dụm mấy kỳ lương, đưa tôi hơn ngàn bạc. “Mẹ thấy
người ta dựng phòng trong garage cũng tiện lắm. Nếu chồng con không
phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật liệu, che tạm cho mẹ một căn
phòng nhỏ. Con Hoa, con út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự riêng tư. Mẹ cũng
vậy, có phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày mẹ có thể lễ bái,
tụng kinh, niệm Phật…” Chồng tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện nhỏ!
Mẹ muốn gì anh cũng xin vâng, nói chi việc ấy!” Từ đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ
lắm. Sáng tối hai thời, ít khi nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người
đạt được mục tiêu cho đời mình, không có gì để ưu tư, khắc khoải.
Mùa Đông năm ấy, thời tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm áp xen kẽ với
những đêm buốt giá mà nhiệt độ đôi khi hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng
tôi mời mẹ tạm trở về phòng cũ vài ba tháng, ngoài garage lạnh quá dễ
sinh bịnh. Mẹ nói: “Ở chỗ này quen rồi, dời đi khó ngủ.” “Mẹ nhớ vặn
sưởi cho đủ ấm nhé!” “Ờ, tao biết mà!” Ngờ đâu mẹ đã không qua khỏi mùa
Đông! Buổi sáng chẳng thấy mẹ dậy sửa soạn để đi làm, tôi bảo “đứa nào
ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!” Con Hoa quấn mền đẩy cửa bước
ra garage miệng kêu léo nhéo. “Ngoại ơi, ngoại à…” Không có tiếng trả
lời… Nó bật đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn hai cái mền kín mít,
nằm im ỉm. Nó lắc chân ngoại, bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền xuống: mặt bà
xám xịt, lạnh ngắt, đôi mắt khép hờ… “Mẹ ơi, mẹ! sao kỳ vầy nè!” Cả nhà
đổ xô ra. Chồng tôi đạo Chúa, vội làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay tại
chỗ khi loáng thoáng nghe thằng Hùng la lên: “Sao bà không mở sưởi?”
Cuộc điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một thời gian, cuối cùng
họ kết luận: “Bà cụ không thường mở sưởi; cái máy mua hai tháng về trước
còn mới tinh chưa hề được sử dụng!”
Tôi như người mất hồn trong đám tang của mẹ. Sự hối hận như lưỡi dao có
răng, nó cưa xé lòng tôi. Trái tim tôi cơ hồ rỏ máu thành những giọt lệ
hồng. Bạn bè khuyên tôi nên đến chùa xin cúng thất, thiết lễ cầu siêu
cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị sư ở chùa, chỉ biết dập đầu
lạy cầu cứu với đôi mắt sưng húp. Chồng tôi bình tĩnh hơn, anh buồn bã
kể đầu đuôi tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy thường an ủi,
khuyên giải sau những thời lễ cúng. Khi thấy tôi bắt đầu trở lại bình
thường, thầy dành cho gia đình chúng tôi một thời pháp thoại. Thầy giảng
về lý vô thường, khổ, không. Các con tôi tỏ ra thích thú với sự thật
giản dị và sâu sắc này, chúng đòi được học giáo lý đạo Phật thay vì đi
nhà thờ với ba. Riêng tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi
nói chuyện ấy: “Con người ta sở dĩ đau khổ triền miên là tại mình muốn
nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm chặt. Làm sao giữ mãi được vì bản chất
của chúng là vô thường, là không. Hãy buông bỏ hết đi, chừng nào bỏ
được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!” Phải rồi, nếu chúng tôi không bám
chặt vào căn nhà thì mẹ tôi đã không phải vất vả đến thế, không đến nỗi
chết cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến mức này. Tôi thỏ
thẻ bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không giữ nỗi thì bán nó đi.
Em tính rồi, sau khi thanh toán hết nợ nần mình cũng còn vài trăm ngàn.
Dọn sang Texas, nhà cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là giữ làm
vốn, tính chuyện làm ăn…”Ờ nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy nó mà
cắm cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ không được thì sớm buông đi… Nhờ ông thầy
giảng dạy, mình mới sáng mắt ra!”
Sau khi dọn sang Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm, tôi đến
quì dưới chân sư ông kể lể hết sự tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có
thể yên. Sư ông trầm ngâm và yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa kể
về mẹ tôi, đệ tử mà người rất quí mến. Sư ông không hề cắt ngang bằng
những câu hỏi. Người không phê phán gì, chỉ để yên cho tôi khóc, khóc oà
vỡ như cái đập nước bị ngăn chận, nay có người tháo ra… Mãi một lúc lâu
lắm sau đó, sư ông mới dạy: “Người mẹ nào cũng có trái tim Bồ Tát. Mẹ
con hành Bồ Tát đạo ngay trong gia đình trước khi mở rộng ra trong cuộc
sống với mọi người. Con hãy hảnh diện có bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm
thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết đi theo hướng đi của mẹ con, biết
xả bỏ cái tôi vị kỷ để lo cho người chung quanh.” Tôi sụp xuống đảnh lễ
người đã chỉ cho tôi tháo mở cái gút dây kết mối ân hận trong tôi. Tôi
trở về Texas với sự bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan
về, cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể ngăn được những giọt lệ hồng
phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá
trị của trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa trên
đời…
Diệu Nga |
Mẹ già như chuối ba hương
như xôi nếp một
như đường mía lau
|