Từ
"Tiếng hát sông Hương"
đến công nghệ... mại dâm
Cách
đây hơn bốn mươi năm, khi còn ngồi trên ghế nhà trường PTTH, có một
lần, trong buổi ngoại khóa, chúng tôi được thầy Hoàng Bỉnh Nhu bình
bài "Tiếng hát sông Hương" của "nhà thơ lớn" Tố Hữu. Thầy bị cụt một
tay, người chỉ được một mẩu, đuôi mắt trái lại có mụn ruồi to đùng
nhưng giảng văn thì cực hay. Dường như những khi đứng trên bục
giảng, thầy đã hóa thân vào tác phẩm, để rồi, trong phút xuất thần,
chuyển tải cái nhân sinh quan cộng sản của một ông râu xồm mãi bên
trời Tây vào con tim ngu ngơ của đám học trò nông thôn, quần âm
lịch, chân đất, vốn chưa có một chút khái niệm nào về loại nghề buôn
phấn bán son.
Theo sự phân tích rất logic từ mỹ học Marx - Lénine, thầy Nhu khẳng
định, cô gái sông Hương là nạn nhân của chế độ thực dân phong kiến,
bị dày vò cả thể xác lẫn tâm hồn. Tuy nhiên, nỗi ô nhục ấy sẽ mất
đi, người con gái vướng vào kiếp nạn ê chề sẽ được hoàn lương một
khi Cách mạng vô sản thành công. Chân trời mới sắp mở ra. Những thân
phận bọt bèo, lạc loài sẽ được sống trong một xã hội công bằng, hạnh
phúc, đầy hoa thơm quả ngọt. Cả lớp lặng đi. Một vài bạn gái len lén
lấy ống tay áo quệt nước mắt. Ôi ! Sức mạnh của nghệ thuật. Chúng
tôi cảm phục thầy Nhu một thì cảm phục Tố Hữu mười, bởi ông đã đem
đến cho lớp trai trẻ dốt nát một cảm quan mới, một chân lý sáng ngời
trong chế độ XHCN tốt đẹp có Bác, Đảng dẫn đường.
Quả thật, bằng vào cái huyễn tượng về một tương lai xán lạn ấy, sau
năm năm tư, (1954) Nhà nước ta đã tiến hành những cuộc tảo thanh
trên quy mô lớn để bài trừ tận gốc những gì còn rơi rớt lại của nền
văn hóa thực dân phong kiến trên nửa phần đất nước mà điểm nhấn của
nó là nạn mại dâm. Các đối tượng hành nghề bị lực lượng công an thu
gom đưa vào các nhà tù trá hình được gán cho danh xưng mỹ miều là
"Trại phục hồi nhân phẩm". Tại đây, những chị em "cải tạo" tốt còn
được "ưu tiên" chuyển sang lực lượng thanh niên xung phong hoặc nông
trường quốc doanh trồng chè hay cao su ở vùng sơn cước. Và thế là,
chỉ sau một kế hoạch ba năm, ngành Lao động - Thương binh - xã hội
miền Bắc XHCN đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch triệt phá tệ nạn mại
dâm. "Từ ấy"... mảnh đất ngàn năm văn hiến được xem như tuyệt giống
"gái bán hoa"(!?). Thật là một kỳ tích mà chỉ có những người thật sự
yêu chủ nghĩa cộng sản mới làm được.
Cũng vào thời gian này, trên các phương tiện tuyên truyền chính
thống, trong đó có cả những tờ báo lớn công bố số phụ nữ làm nghề
mại dâm ở thành phố Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam cộng hòa là ba mươi
vạn (!?). Tất nhiên chúng tôi tin sái cổ. Lại dám không tin báo chí
của Đảng à? Có họa là tên phản động hoặc kẻ mắc chứng tâm thần phân
liệt mới có đủ bản lĩnh đặt dấu hỏi nghi ngờ. Sau này, khi non sông
đã về một mối, các nguồn thông tin không còn bị ách tắc như trước,
tôi có đọc một bài trên mạng Đối thoại mới hiểu con số ấy được người
ta thổi phồng ít nhất là năm mươi lần. Theo tác giả Nguyễn Ngọc
Phách, tính vào thời điểm những năm sáu mươi, trừ cánh mày râu, cộng
với các bà già trên sáu mươi cùng các cháu gái dưới mười sáu tuổi,
thì tất cả phụ nữ Sài Gòn đều làm ... điếm nếu ta tin vào con số kỷ
lục nặng về màu sắc chính trị kia.
Sau ba mươi hai năm giải phóng miền Nam, tức là một phần ba thế kỷ,
một nửa đời người, có vẻ như những kỳ tích chống tệ nạn xã hội đã đi
vào dĩ vãng, đặt dấu chấm hết cho một thời vàng son. Chưa bao giờ và
chưa lúc nào nạn mại dâm hoành hành dữ dội và đều khắp như lúc này.
Không ít khách sạn tên tuổi với nhãn hiệu ba sao, thậm chí năm sao
có hẳn một đường dây gọi gái. Các nhà nghỉ thường kèm thêm dịch vụ
"tươi mát" Mỗi nhà hàng karaoke đèn mờ là một động lắc thâu đem
suốt sáng. Mỗi tiệm hớt tóc, gội đầu là một nhà thổ trá hình. Ngày
trước "ra ngõ gặp anh hùng" thì ngày nay, mỗi khi bước chân ra đường
toàn gặp lũ tham nhũng và ca ve. Các Tú Ông, Tú Bà nhan nhản khắp
hang cùng ngõ hẻm, nhân danh thời mở cửa lại được các anh Hai, anh
Ba, anh Tư, anh Năm... ngồi ngất ngưởng trên cao bảo kê, tha hồ bóc
lột đám chị em chân yếu tay mềm. Đến lúc này, thi hào Tố Hữu, con
chim đầu đàn của nền thơ cổ động Việt Nam, nếu còn sống, chắc ông sẽ
phải viết lại "Tiếng hát sông Hương". Và ai biết đâu được, có khi
nhà thi sĩ kiêm Trưởng ban Tuyên huấn, lúc hứng lên, ngự xe "Mẹc"
dong ruổi "Nước non ngàn dặm" lại chẳng có một bồ nhí chanh cốm bên
cạnh để tăng cảm xúc... Ta hãy nghe lại tác giả thương hoa tiếc ngọc
bằng một bài thơ kết hợp giữa lục bát truyền thống với thể loại dân
ca Huế và gieo bằng vần "eo", tạo ra một không gian nhẹ tênh, mang
nét thanh thoát yêu kiều của sông Hương, đối lập hẳn với thân phận
nhục nhã của cô gái làng chơi:
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang
Rồi tấm lòng cộng sản vô bờ bến của ông thương cảm người con gái đã
hơn một lần lầm lỡ :
Thuyền em rách nát
Mà em chưa chồng
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô!
Nhưng điều đáng chú ý nhất là ông phó chủ tịch HĐBT (Hội đồng Bộ
trưởng) tương lai đã thổi vào tâm hồn cô gái một ảo tưởng ngọt
ngào, tạo cho cô niềm phấn khích vô bờ bến, nếu không bỏ nghề, dấn
thân vào sự nghiệp cách mạng thì cũng nhẫn nại đợi thời cơ đến ngày
được chiêu tuyết :
Ngày mai bao kiếp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay
Cô ơi tháng rộng ngày dài
Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng
Trên dòng Hương Giang...
Hương Giang thơ mộng trong một chiều tím biếc, con đò rách nát bồng
bềnh trôi mang nỗi u uất cuả một thân phận còn rách nát hơn cả nó,
phút chốc như đốn ngộ bởi thứ ánh sáng lung linh của chân lý. Nhà
thơ thật khéo chuyển được cảm xúc , đem cái huyễn tưởng ngoài nghìn
dặm đặt vào tâm thức cô đào xứ Thần Kinh trong gang tấc.
Ngược lại với Tố Hữu lúc ấy, tám mươi năm trước (nếu tính từ thời
điểm những năm ba mươi của thế kỷ XX), Nguyễn Công Trứ, cũng sau
những lần xuôi đò trên sông Hương , đã không giấu giếm sự đắc ý của
mình cho dù ông là một nhà nho từng được đào luyện kỹ càng trong
trường học Khổng Mạnh :
Lênh đênh một chiếc đò ngang
Một cô đào Huế, một quan đại thần
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn lần mần như ma
Ban ngày quan lớn như cha
Ban đêm quan lớn ngầy ngà như con...
Chúng ta kính phục Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng nói thật tuy có
chút mỉa mai, tự trào cái sự hành lạc với một cô gái làng chơi tuy
có lúc ông là tể tướng đầu triều. Hành vi của cụ Thượng có vẻ như
phi quân tử nhưng thực chất lại vô cùng quân tử. Nó hoàn toàn tương
phản với phần lớn các bậc "dân chi phụ mẫu" ngày nay, đi nhà thổ như
điên, bồ bịch tùm lum, ăn cắp công quỹ thành thần nhưng lại lên mặt
đạo đức giả, lúc nào cũng muốn nêu tấm gương "cần kiệm liêm chính".
Sau những năm ép xác, nhịn thèm nhịn nhạt phục vụ chủ thuyết "Thế
giới đại đồng", nay, xã hội Việt
Nam
đang ở vào thời kỳ "ăn trả bữa". Cái "thằng" quy luật tâm lý ấy lại
lừng lững xuất hiện, chẳng khác gì ma dẫn lối, quỷ đưa đường, dẫn dụ
các nạn nhân của nó vào "kiếp đoạn trường" trong một mê lộ quanh co
đầy cạm bẫy. Chưa có bao giờ trên đất Việt thân yêu của chúng ta lại
nở rộ tệ nạn mại dâm như bây giờ. Nó hiện diện theo quy luật của
dòng nước lũ, từ lâu bị chặn lại, đương nhiên là tích tụ năng lượng,
đến một lúc nào đó tìm ra lối thoát, thế là "tức nước vỡ bờ" thành
một cơn hồng thủy. Hiện tượng này đã được nhà thơ Trần Nhuận Minh
khái quát bằng mấy câu trong bài "Thoáng" như sau :
Sách cấm xưa lòe loẹt cổng Đền Thờ
Ngõ tối bật tiếng coóc xê tanh tách
Gã trốn tù tội đánh người và khoét ngạch
Vào quán ghểnh chân làm choác bia hơi.
Còn thi sỹ Nguyễn Trọng Tạo ở bài "Quán Lý Thông" thì lại tiếp cận
các cô gái "bán hoa" ở khía cạnh văn hóa :
Tôi hỏi ca ve, ca ve cười ngất
Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
Hiển nhiên, mại dâm không chỉ dừng lại ở thành phố, thị xã, thị trấn
mà từ lâu nó đã lan đến cả những vùng quê hẻo lánh. Các đức ông
chồng mất nết, từ những lão già sáu bảy mươi đến lũ ranh con miệng
còn hơi sữa, rủ nhau thập thò trước quán cà phê hay hớt tóc trá hình
vào lúc trời còn nhập nhoạng. Không có tiền thì xúc trộm thóc của vợ
bán dấm giúi, thậm chí có anh chàng còn "ký sổ nợ" hẹn đến mùa thanh
toán...
Cũng như nạn tham nhũng, mại dâm bây giờ đã trở thành một thứ "văn
hóa". Loại "văn hóa" này hình như đang được phát triển và nâng cao
đến mức "đậm đà bản sắc " tùy thuộc vào đẳng cấp xã hội của các đấng
mày râu. Các quan chức là những kẻ vừa có quyền vừa có tiền luôn là
"thượng đế" của những nhà chứa cao cấp. Có những ông lớn nuôi hẳn
ba, bốn bồ nhí ở mấy nơi khác nhau (tất nhiên là bằng tiền chùa), để
thứ bảy, chủ nhật đánh xe về thư giãn. Không hiếm các ông "đầy tớ
của dân", ban ngày thì lên diễn đàn rao giảng thiên kinh địa nghĩa
về tư tưởng này, đạo đức kia nhưng ban đêm lại mò vào các động mãi
dâm lăn lóc với "mấy ả mày ngài", sáng ra mệt phờ râu trê, đến nỗi
bỏ quên cả sổ tay ghi nghị quyết.
Từ môi trường xã hội cởi mở để con người thả lỏng bản tính của mình
như vậy, tự nhiên hình thành một loại gái điếm cao cấp mà cách hành
xử của type người này có những lúc khá ngược đời như nhà thơ Nguyễn
Duy đã viết trong bài thơ "Việt Nam, nhìn từ xa tổ quốc" :
Điếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
Nên hạ giá linh hồn
Loại "ca ve" này, tất nhiên không chỉ bán phấn buôn son mà thực chất
là bán buôn chính trị bằng cái "vốn tự có" của mình. Chị em biết lợi
dụng thời cơ, nắm chắc tâm lý các sếp sòng, triệt để vận dụng lời
dạy "vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề" của tổ sư Tú Bà, để
len vào bộ máy công quyền. Từ chiêu "mỹ nhân kế", đã có không ít
trường hợp thành công, thậm chí còn được bổ nhiệm vào những chức vụ
trọng yếu quốc gia, cho dù loại hình hoạt động duy nhất của chị em
chỉ là ...trên giường.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam chẳng bao giờ công bố con số phụ nữ làm
nghề mãi dâm, nhưng đến giờ này, theo những nguồn tin của một vài tổ
chức phi chính phủ thì có thể đã đến hàng triệu. Phần lớn trong số
này là những cô gái còn rất trẻ đều có gốc gác nông thôn, thất học,
không nghề nghiệp, bỏ nhà lên thành phố làm gái bán hoa, sau một vài
năm kiếm được chút vốn thì hoàn lương, về quê lấy chồng. Đây là đối
tượng dễ bị các Tú Ông, Tú Bà hành hạ, bóc lột nhất. Các cô thường
xuyện bị chủ ăn quỵt sau mỗi lần đi khách, nếu có biểu hiện phản ứng
lập tức bị bọn ma cô, đầu gấu "thượng cẳng chân hạ cẳng tay", đành
nhắm mắt buông xuôi mặc dòng đời đưa đẩy cho đến lúc thân tàn ma
dại. Cũng phải kể đến đội ngũ "Ô sin" trong chương trình xuất khẩu
lao động sang Đài Loan. Một lượng không nhỏ người hầu gái này chấp
nhận hành nghề mãi dâm nhằm mục đích thu ngoại tệ qua các công ty
môi giới. Có trường hợp, một "Ô sin" buộc phải đáp ứng nhu cầu tình
dục cho cả gia đình, thậm chí, để giảm bớt chi phí, gã chủ nhà còn
rủ thêm một vài anh hàng xóm "đánh ké". Tất nhiên họ không được ăn
cả mà thường là phải chia năm sẻ bảy dưới danh nghĩa "lệ phí" hoặc
thuế cho các công ty lừa đảo núp dưới những cái tên rất ấn tượng,
mặc dù các khoản thu ấy chẳng bao giờ được chuyển vào ngân sách nhà
nước.
Loại mạt hạng nhất là là dịch vụ lấy chồng Tàu đại lục qua các tổ
chức buôn bán phụ nữ đang hoành hành gần như công khai từ hai chục
năm qua. Không hiếm những nàng quá lứa nhỡ thì được bọn cò mồi tân
trang, qua biên giới bỗng nhiên thành đắt giá. Có điều rất ít trường
hợp kiếm được tấm chồng tử tế. Đa số các cô bị đưa đến những nơi xa
xôi hẻo lánh vùng dân tộc thiểu số, gá nghĩa với những "chàng rể"
bất thành nhân dạng, trong một môi trường sống vô cùng mông muội.
Ngôn ngữ bất đồng, thân gái dặm trường, thậm chí còn bị bán chuyền
tay qua vài ba ông chủ để rồi cuối cùng lọt vào một nhà chứa nào đó
nơi đất khách, liệu còn có dám nghĩ đến ngày về cố hương?
Như trên đã nói, cũng như tệ tham nhũng, mại dâm ở Việt Nam đã trở
thành một thứ "văn hóa", nếu nói theo các nhà xã hội học, hay một
thứ "công nghệ", nếu nói theo thuật ngữ của các nhà kinh tế học. Cái
đáng bàn ở đây là Đảng và Nhà nước dứt khoát không thừa nhận. Kể
cũng đúng thôi. Nhà nước ta là nhà nước XHCN, lấy chủ nghĩa Marx -
Lenin làm kim chỉ nam. Mấy năm gần đây lại phát hiện thêm tư tưởng
HCM, rồi đạo đức HCM nữa. Đạo đức của Bác kính yêu kỵ mãi dâm như
nước với lửa. Thừa nhận loại hoạt động "đồi trụy" này thì còn gì là
thể diện? Vì lẽ đó, tuy là một thực thể tồn tại khách quan, là thị
trường hoạt động rất sôi nổi và đầy màu sắc, nhưng mại dâm bị vứt ra
ngoài lề đường, sống vất vưởng như những cô hồn phiêu bạt, không bị
chi phối bởi bất cứ chế tài nào.
Lịch sử cho biết, mại dâm, với tư cách là một loại hình hoạt động
tham gia vào cơ cấu xã hội đã có từ rất lâu, chí ít ra là từ nền văn
minh Hy - La , Ai Cập, Xuân thu chiến quốc... Như vậy, mại dâm là
hiện tượng xã hội, chính quyền khôn ngoan là chính quyền biết cách
kiểm soát nó thông qua chế tài chứ không thể triệt tiêu nó. Còn vì
hệ ý thức mà sĩ diện, bỏ rơi nó là thiếu sáng suốt, sẽ dẫn đến những
hậu quả khôn lường.
Trước năm 1954, chắc chắn số lượng đĩ điếm trên lãnh thổ Việt
Nam
không đáng là bao nhưng người Pháp đã có đạo luật rõ ràng cho những
đối tượng hành nghề này. Các chính quyền địa phương quản lý chị em
bằng môn bài đồng thời buộc các chủ chứa đóng thuế. Mặt khác, nhằm
bảo vệ sức khỏe cho gái mại dâm, tránh tình trạng gieo rắc bệnh hoa
liễu, nhà nước bảo hộ còn xây nhà thương chuyên chữa bệnh phụ khoa.
Ai không tin điều này xin đọc phóng sự Lục xì của văn hào Vũ Trọng
Phụng. Về một mặt nào đó, có thể nói, người Pháp, tuy là thực dân
nhưng cũng có một số chính sách nhân đạo. Trong bộ tiểu thuyết Ông
cố vấn của nhà văn Hữu Mai có đoạn Ngô Đình Diệm vi hành ra đường
phố Sài Gòn. Ngồi trong xe hơi quan sát cuộc sống dân tình, tổng
thống bị các cô gái bán hoa xúm vào chèo kéo, sau khi về dinh Gia
Long, được cận vệ nói rõ sự thật, ông cho gọi Tổng giám đốc Nha cảnh
sát phải triệt hết các ổ mại dâm, làm trong sạch đường phố. Em ruột
ông, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu không đồng tình với biện pháp
trên. Ông ta nói đại ý rằng, một nhà nước dân chủ, văn minh phải
chấp nhận hoạt động mại dâm, điều quan trọng là phải biết cách kiểm
soát nó.
Thực trạng mại dâm ở Việt Nam đã trở thành quốc nạn phát triển theo
kiểu phản ứng dây chuyền vì nó chưa bao giờ được nhìn nhận như một
nguy cơ làm tổn thương danh dự dân tộc, băng hoại đạo đức, phá vỡ
những giá trị văn hóa tốt đẹp bằng nguy cơ "diễn biến hòa bình"
thường trực trong não trạng của các nhà lãnh đạo quốc gia. Mại dâm
bị thả nổi thực chất là môi trường béo bở để các quan chức tham
nhũng đua nhau hành lạc bằng tiền chùa và lũ đệ tử của thần Bạch My
kiếm những món lợi kếch xù trên thân xác người phụ nữ. Đó là thứ
quan hệ hai chiều trong một liên minh ma quỷ luôn hành xử như những
băng đảng của thế giới tội phạm ngầm. Đại dịch HIV/AIDS đang phát
triển với tốc độ chóng mặt. Tính đến cuối năm 2006, Việt
Nam
có 83,5 triệu con Lạc cháu Hồng, mà nạn mãi dâm gần như bị thả nổi
triền miên, thử hỏi, đến thời điểm này chúng ta đã có bao nhiêu
người nhiễm căn bệnh thế kỷ?
Sáu mươi chín năm đã qua kể từ khi Tiếng hát sông Hương ra đời, giờ,
mỗi khi đọc lại tôi vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời bình đầy cảm
xúc của thầy Hoàng Bỉnh Nhu, cho dù ông đã thành người thiên cổ. Ông
chết tức tưởi sau những năm liệt giường vì xuất huyết mạch máu não.
Cô Hoàng Lệ Chi, con gái út của thầy bỏ học giữa chừng bởi nhà
nghèo, có bao nhiêu tiền dồn vào thuốc thang cho bố, đành phải từ
biệt bà mẹ già mắc chứng quáng gà, ra Hà Nội làm nghề rửa bát thuê.
Và rồi đây liệu em có thoát khỏi kiếp đoạn trường ?
ĐVS |