Điếu văn của người quét chợ
Lúc
này người ta đang làm thủ tục nhập quan. Người quá cố được bọc trong
lần vải xô, lòng khòng như chiếc lá héo bị vặn theo chiều dọc, trông
có vẻ dài hơn lúc còn sống. Lão thầy cúng nửa mùa, một tay bắt
quyết, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, một tay cầm con dao chém lung
tung bốn phương tám hướng. Sau một hồi nhảy thách lên như con choi
choi, lão băm bảy nhát dao vào phía trong quan tài trừ quỷ nhập
tràng rồi khoát tay ra hiệu cho hai ông già đưa người chết vào cỗ
ván gỗ tạp bọc giấy đỏ.
Phải nói, không có gì thê thảm, não nề bằng tiếng kèn đám ma. Khi mà
những hợp âm năm cung của điệu Lâm khốc được nâng đỡ bởi tiếng nhị
réo rắt, hoà với chuỗi âm thanh đơn độc của cây đàn bầu vuốt dài đến
vô tận, nghẹn ngào như nấc lên từng nhịp, thì đến người ngoài cuộc
cũng rơi nước mắt. Người thổi kèn là một thợ chuyên nghiệp có hạng.
Khi thổi, mái đầu bạc của ông rung rung, đôi lúc đảo qua đảo lại như
các bà đồng đội bát nhang. Cùng với tiếng kèn là dàn đồng ca nức nở
với đủ các cung bậc của đám con cháu nội ngoại. Ông có sáu con, bốn
trai, hai gái. Cái gia đình đông đúc ấy, đã lâu lắm rồi, hôm nay mớ
có dịp gặp mặt đông đủ.
Người con trai thứ hai, một trung uý hải quân, đội mũ mấn, áo xô,
tay chống cây gậy bằng tre tươi, khẽ cúi đầu chào tôi. Anh ta đứng
ngay phía đầu quan tài, mặt hốc hác, mắt có quầng thâm vì thức
đêm.Tôi cúi đầu trước vong linh ông, chắp tay vái ba vái rồi vào góc
rạp, ngồi xuống chiếc ghế đẩu, khuất sau linh sàng. Ở đây ít người
qua lại, tôi muốn giành chút thời gian yên tĩnh để nghĩ về ông.
***
Cách đây ít lâu, có một lần ông bảo tôi :
- Đêm qua mình gặp giấc mơ rất kỳ lạ.
Tôi nói đùa:
- Bác bị chèo đò (*), mặc quần cộc về nhà, chắc là lũ cá chép đỏ
(**) đến đón xuống thủy cung chứ gì ...
Ông nheo cặp mắt hấp háy:
- Không phải xuống thủy cung mà ở ngay trên dương gian mới lạ. Đến
bây giờ mình vẫn còn thấy lạnh sống lưng.
- Chắc lại chuyện ma quỷ ?
- Cậu đoán không sai .
- Chuyện thế nào ?
- Tầm ba giờ sáng, có tiếng gọi cửa, mình quáng quàng chồm dậy trong
tình trạng thái như bị thôi miên. Một cái bóng trông chẳng khác gì
thằng bù nhìn giữ dưa, khoác chiếc áo thụng đen dài quét đất lẳng
lặng ra hiệu cho mình đi theo. Chừng nửa canh giờ, hắn ta dẫn mình
đến nghĩa địa khu dân cư. Tay mặc đồ đen biến mất để lại phía sau
đám lân tinh chập chờn của loại tử thi đang phân huỷ cùng với một
trận âm phong lạnh thấu xương. Từ các ngôi mộ, những bóng đen bí
hiểm lần lượt xuất hiện. Mặc dù mắt kém, và nhất là đêm mưa phùn,
bóng tối dày đặc, mình vẫn nhận ra thấp thoáng vài người quen. Một
ông già gầy giơ xương, cái bụng lép kẹp gá trên đôi chân khẳng khiu,
giống hệt thằng đánh gậy, đứng gần nhất, bỗng giật phắt mảnh khăn
che đầu, nhe răng cười :
- Tôi đây. Ông còn nhận được không ?
Đó là Cả Tuynh, chuyên nghề mổ lợn, chết vì cảm đột ngột sau một
cuộc "độc ẩm" lít rưỡi "cuốc lủi" (***) với lòng lợn tiết canh say
bí tỉ. Mình gật đầu bảo :
- Ông Uống nhiều quá, vỡ động mạch não. Lẽ ra không nên...
Cả Tuynh nhăn mặt:
- Ông chớ tin bọn lang băm ở cái bệnh viện sát nhân ấy. Người ta
sống chết có số, không cưỡng lại được.
Ngẫm nghĩ một lúc, lão trách :
- Ông soạn điếu văn cho tôi sơ sài quá. Hồi còn sống, tôi biết có
những thằng ăn ở vô cùng đểu giả, thế mà lúc chết lại được người ta
xưng tụng bằng đủ thứ ngôn từ hay ho. Ông khinh cái nghề ba toa của
tôi nên xuống dưới này bị lép vế. Giận ông lắm.
Mình chưa kịp thanh minh thì lại một bóng đen khác, trông có vẻ như
vừa mới được diện kiến Diêm Vương, chân cà nhắc nhưng vẫn còn khá
nhanh nhẹn, từ ngoài chen vào, giọng thì thầm :
- Tôi suốt đười chỉ trộm cắp kiếm ăn, chẳng may bị bệnh hiểm nghèo
bỏ mạng. Ông không ghét bỏ lại đọc cho bài điếu văn đầy lòng vị tha.
Giờ tôi đã cải tà quy chính, được Thành Hoàng trọng dụng cho ra cai
quản khu mộ địa.
Thú thật với cậu, lúc ấy mình thật sự hoảng. Sống lưng lạnh toát,
hai thái dương co giật như sắp sửa lên cơn động kinh. Thì ra đó là
lão Nghinh, trước làm công nhân đường dây, về hưu non, bị thủng dạ
dày, chết chưa đầy năm. Tay này hồi còn làm việc đã có tiền án vì
bán trộm dây thông tin. Nhà đông con, lão túng quẫn đâm liều. Hôm
lão qua đời bà vợ sang năn nỉ :
- Lúc ông ấy còn sống có gì không nên không phải xin làng xóm thứ
lỗi, giờ thành người thiên cổ rồi, trăm sự nhờ bác, viết cho nhà em
bài điếu...
Trước khi lẩn đi, bóng ma lão Nghinh chắp tay vái mình ba vái rồi
nói trong tiếng thở phều phào, chẳng biết thật hay bỡn :
- Biết thế này tôi xuống âm phủ trước đây mấy năm cho đỡ nhếch nhác.
Lại một người quen.Tất nhiên là mình nhận ra người đàn ông có dáng
thấp đậm, bộ mặt nhẵn thín như thoa mỡ này chết cách đây hai năm. Đó
là ngài phó bí thư tỉnh uỷ, vừa nghỉ hưu, bị nhồi máu cơ tim. Lão ta
về xứ khỉ ho cò gáy này thăm bà vợ bé không chính thức vẫn giấu vợ
cả và các con từ nhiều năm nay. Số chẳng ra gì. Chính hôm ông ấy hấp
hối thì có trận mưa nguồn đổ về, cuốn phăng cây cầu Xi Măng dài hơn
tám chục thước. Nước đục ngầu, chảy băng băng, mở rộng mặt suối đến
mức không một phương tiện vận tải nào có thể qua được. Tất cả xe cộ
từ tỉnh về đều đỗ lại bờ bên kia. Các quan chức đồng sự với ông cựu
phó bí thư, vị nào cũng complét, cravate, giầy da bóng loáng, nhìn
mặt nước đỏ lừ, gầm réo cuốn theo cả những cây gỗ lớn bị bật rễ mà
lắc đầu ngao ngán. Đó là trận lũ thế kỷ, một trăm hai mươi bảy năm
mới có một lần. Chẳng biết đến bao giờ nước mới rút. Ác một nỗi là
sáng ngày hôm sau đã bắt đầu Đại hội trù bị, trong đó có nội dung
bầu nhân sự cho nhiệm kỳ tới. Tất nhiên, những kẻ khôn ngoan chẳng
ai muốn vắng mặt vào thời điểm cực kỳ quan trọng ấy chỉ vì những lý
do thứ yếu, đại loại như dự lễ cưới hoặc viếng đám ma. Vậy là, khách
không chờ được đành lên ô tô về tỉnh.
Đám tang bên này còn thiếu bài điếu văn. Không còn cách nào hơn, bà
vợ hai ông phó bí thư lại phải đến nhờ. Mình định chối nhưng bà ta
không chịu :
- Ai ở khu dân cư này chết cũng có điếu văn. Bác mà không giúp thì
em nhục với hàng xóm làng giềng. Chẳng gì ông ấy cũng là quan chức
đầu tỉnh. Chỉ tại cái số vất vả.
Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng mình lấy cuốn vở học trò của thằng cháu,
tìm được chiếc bút chì trong ngăn kéo rồi bảo bà quả phụ :
- Chị phải nói rõ ngày tháng năm sinh, quê quán cũng như những việc
làm của ông ấy lúc còn sống tôi mới viết được. Có điều phải nói
thực. Ông ấy nằm xuống rồi, coi như đã trả hết nợ đời, đừng quanh
co, dối trá để vong hồn ra đi được thanh thản.
Bà ta khóc nấc lên :
- Từ khi nghỉ hưu đến giờ hết lộc, vợ con ông ấy ăn ở bạc lắm, chỉ
có mẹ con em là thương thật lòng. Thôi thì cũng chẳng dấu làm gì...
Thế là bà vợ bé kể. Thì ra tay phó bí thư này cũng là một kẻ rách
giời rơi xuống hạ giới. Ông ta chưa học hết cấp hai nhưng lại có
bằng thạc sỹ Quản lý kinh tế. Vụ bằng giả của một số quan chức đầu
tỉnh đã ầm ĩ lên một hồi, kéo hơn chục tờ báo vào cuộc nhưng cuối
cùng, chẳng biết bằng cách nào, ông ta dẹp êm ru . Rồi vụ com măng
với công ty xúc tiến việc làm lừa hơn hai trăm nữ thanh niên đi lao
động ở Đài Loan bị trục xuất, vụ nhập khẩu ô tô rởm ăn chênh lệch
giá và trốn thuế, vụ tịch thu đất của nông dân xã K cho doanh nghiệp
nước ngoài thuê khống... cũng đều trót lọt mặc cho hàng trăm đơn
kiện vượt cấp bay như bướm bướm lên Hà Nội.
Nể người đàn bà, mình vắt óc tưởng tượng ra những công tích làm "đầy
tớ" dân của ông cựu phó bí thư để bài điếu lâm ly, hùng hồn. Nhưng
cố mãi vẫn không được. Hình như có một sức mạnh huyền bí nào đó tác
động đến cân não làm đầu óc mình lộn xộn, khiến những câu chữ cứ
chuội đi. Cuối cùng, đành nghĩ ra một hạ sách là kết hợp điếu văn
của lão hàng thịt với điếu văn của lão Nghinh, xào xáo đôi chút cho
hợp với gia cảnh của người vừa quy tiên rồi chép lại thật nắn nót
trên tờ giấy khổ rộng không có dòng kẻ.
Lúc sắp đưa ma, mình mới sang. Ngừng tiếng kèn, Bí thư chi bộ kiêm
trưởng khu dân cư trịnh trọng đọc. Lão này có giọng tốt, chuyên nghề
đọc điếu văn, lên bổng, xuống trầm, rất có ngữ cảm. Cũng may đám
tang hôm ấy vô cùng nhốn nháo. Những người đến viếng toàn là khách
giời ơi nên chẳng ai phát hiện ra cái trò đánh tráo trắng trợn đó,
trừ kẻ nằm trong quan tài. Bây giờ người ấy đang đứng trước mặt mình
với bộ mặt nhẵn thín, cặp mắt lồi, trắng dã long lên sòng sọc :
- Ông soạn cho tôi bài điếu văn hổ lốn. Phần đầu của lão hàng thịt,
phần giữa là của tay Nghinh chuyên nghề trộm cắp. Phần cuối mới là
của tôi nhưng lại xỏ xiên cạnh khoé. Ông là thằng đểu. Tôi thật sai
lầm là chết ở cái xó này. Đáng lẽ ra đám ma của tôi phải linh đình
nhất tỉnh, tiền phúng viếng nhẹ ra cũng vài ba tỷ...
***
Sau bữa ấy, ông Viển ốm nặng, nói năng lảm nhảm như bị ma làm, tưởng
khó qua được. Ông bảo, cứ mỗi khi nghĩ đến cái khuôn mặt nhẵn thín
thuôn thuôn hình quả dưa của lão phó bí thư lại muốn ói ra mật xanh
mật vàng. Từ đấy ông dứt khoát không viết điếu văn cho ai nữa. Bây
giờ ông nằm đây, yên lặng, để rồi chỉ chốc nữa thôi vĩnh viễn về với
đất.
Những năm tám mươi, ông là nhân viên hành chính của xí nghiệp Chế
biến thức ăn gia súc. Đơn vị này làm ăn theo kiểu gạo chợ nước sông,
sản phẩm toàn loại thứ cấp, nợ cũ chồng lên nợ mới có nguy cơ giải
thể. Cũng vào dịp ấy, những nhà hoạch định chính sách kinh tế nghĩ
ra sáng kiến nhập những xí nghiệp nhỏ thành xí nghiệp lớn theo mô
hình "công nông nghiệp hiện đại", thành ra ông thuộc diện dôi dư.
Người ta động viên ông về hưu non vì đã đủ năm công tác, tuổi quá
năm mươi. Vậy là ông về. Nhà đông con, cuộc sống khá chật vật. Ông
san sẻ tình thương cho các con giống như bà mẹ nghèo chia bánh đa
vừng mỗi khi đi chợ về. Ông nhịn ăn, nhịn mặc nuôi con đi học. Lương
hưu không đủ sống, ông nhận thêm chân quét chợ. Một tháng được tám
mươi ngàn. Chợ Bồng họp suốt ngày, ít người mà lắm rác. Quét mãi
không hết, có hôm ông phải làm đến nửa đêm. Cứ mỗi lúc nhìn chiếc áo
bạc phếch dán trên tấm lưng còng nhấp nhô theo nhịp chổi, tôi lại
động lòng trắc ẩn. Nghĩ về ông bao giờ tôi cũng hình dung ra cặp
chân ống đồng khẳng khiu với hai bàn chân thô tháp bước đi theo kiểu
vạt tép nhưng nhanh một cách lạ thường. Lúc vắng người, bà Ngấn hàng
thịt giúi cho ông mấy ngàn "để uống rượu". Ông dừng tay quét, đưa
trả lại, bảo :
- Cảm ơn bà. Tôi còn tự kiếm được. Khi nào hết tiền uống rượu, tôi
xin.
Người đàn bà phốp pháp, mặt vuông chữ điền, cặp mắt lá răm lúng
liếng, không dám nguýt dài mà chỉ thở dài lẩm bẩm :
- Rõ khổ. Đúng là trời bắt tội.
Bà hàng thịt thương ông già quét chợ không phải bằng tình thương vay
mượn mà đó là thứ tình thương rất thực thà xuất phát từ lòng căm
ghét vợ ông, một người phụ nữ mắn đẻ, già mà vẫn còn duyên nhưng làm
biếng và vô tâm.
Buổi trưa ông thường đi mò. Suối gần nhà, nước xanh trong nhưng cũng
sẵn tôm,cua, ốc lẫn giữa đám rong đuôi chó. Chỗ nước sâu quá tầm
tay, ông hít một hơi dài rồi lặn xuống. Mỗi lần như thế, cũng lôi
được từ đám rong ra một vài con cua hoặc chú tôm càng. Những thứ mò
được bao giờ ông cũng chia làm hai phần. Phần nhiều, cho tất cả vào
nồi , thêm vài quả cà, nêm muối, đun kỹ cả nhà ăn. Phần ít hơn, ông
nướng trên than hồng hay rang nhạt nhắm rượu.
Ông có sở trường trong việc soạn điếu văn. Lời điếu của ông khúc
chiết, đâu ra đấy, hợp với từng cảnh ngộ của mỗi người khi nằm
xuống. Văn ông mộc mạc, chân chất, nhưng chính vì thế mà khi đọc lên
nghe thật bi thiết não nùng. Nghe ông kể lại giấc mơ gặp toàn ma quỷ
ngoài nghĩa địa, tôi cũng thấy chờn chợn. Không ít người cho ma quỷ
chẳng qua là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nhưng xét đến cùng, biết
đâu đấy, con người ta chết rồi vẫn còn lưu lại trên cõi đời một chút
linh hồn. Ai chứng minh được điều đó ? Chắc chỉ có những người đã đi
khỏi thế gian này. Nhưng tìm họ ở đâu ? Gần đây, nghe khẩu khí của
ông, tôi có linh cảm những điều chẳng lành nhưng vẫn nói đùa để xua
đi cái không khí nặng nề :
- Sao bác lại lấy điếu văn của lão Cả Tuynh thay cho ông phó bí thư
?
Ông nhếch mép cười nhạt :
- Cũng thế cả. Cái khác nhau là ở chỗ, một đằng bán thịt lợn cho
người còn một đằng bán linh hồn cho ma quỷ.
Tôi không hiểu ông muốn nói gì.
***
Hơn một năm sau. Hôm ấy tôi đang chẻ lạt rào vườn thì vợ tôi từ chợ
Bồng về bảo : "Bác Viển chết rồi". Tôi không tin, quẳng dao chạy
vội ra cổng. Đúng là ông đã chết, một cái chết không bình thường.
Nguyên nhân vẫn tại con suối Cả. Suối Cả chảy vòng vèo uốn khúc giữa
hai bờ mọc toàn sung ngái hoặc những cây cơi cổ thụ tán sum sê. Đứng
trên sườn núi trông con suối giống như dải khăn xanh da trời phản
chiếu ánh chiều vàng nhạt, đẹp một cách khiêm nhường của một vùng
sơn cước. Nhưng về mùa hè thì nó trở nên khá dữ dằn. Chỉ sau một
trận mưa ngàn, mặt nước trong khoảnh khắc nở phình ra, đục ngầu sủi
bọt, chồm lên dữ dội như có hàng ngàn bờm ngựa chen nhau phi nước
đại.
Hôm ấy ông đi câu chạch chấu. Suối Cả có nhiều chạch nhưng chạch chỉ
cắn câu vào những ngày mưa lũ. Đã thành thói quen, ông chọn mỏm đá
bằng phẳng nhô hẳn ra ngoài suối rồi mắc mồi, buông câu. Chạch chấu
kho khô với tương thì thật tuyệt. Canh dấm chua cũng tốt. Còn nếu
đem nấu cháo, thêm ít gia vị và rắc hồ tiêu rồi vừa húp và thổi phù
phù, thì có lẽ, trên đời này không món cao lương mỹ vị nào hấp dẫn
bằng. Ở phía trên ông chừng vài chục bước có một thằng bé cũng đang
câu. Nó chỉ độ mười hai mười ba, con bà vợ bé ông phó bí thư quá cố.
Cậu ta đã làm được một xiên đến sáu bảy con vừa chạch vừa cá. Đúng
vào lúc nó ngửa người, tay giật mạnh cần câu thì bị mất đà trượt
chân khỏi tảng đá trơn đầy rêu. Là người nhìn thấy đầu tiên, ông
Viển chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi vứt cần câu, để nguyên cả quần áo
lao xuống nước. Cũng may, ông nhảy đón đầu, túm ngay được chân thằng
bé. Bằng một cố gắng phi thường, ông dìu nó bơi cắt chéo dòng lũ vào
vùng nước nông phía bờ đối diện. Bên ấy dòng chảy đã yếu nhưng do bị
va đập quá mạnh, ông đuối sức, không tấp được vào bờ. Ba hôm sau
người ta mới tìm thấy ông bị kẹt giữa đám rễ cây ở một cánh bãi gần
cửa sông Bía, người lép kẹp, chẳng có biểu hiện gì của cái xác chết
trôi.
Trong cảnh tang gia bối rối, tôi nghe thấy ông Trưởng khu dân cư
kiêm Trưởng ban tang lễ hỏi đám thanh niên choai choai vừa đi đào
huyệt về:
- Gia đình đã cử ai viết điếu văn chưa ?
Thằng Lộc gọi ông Viển bằng chú bảo :
- Chúng cháu không biết. Tối qua thím cháu có nhờ ông Túc nhưng ông
ấy không dám nhận lời.
- Chà ! Gay nhỉ. - Ông Trưởng ban chép miệng, mắt lơ đễnh nhìn hàng
cờ phướn ướt sũng nước mưa hồi đêm đang uể oải lay theo chiều gió. -
Ông ấy viết điếu văn cho bao nhiêu người, giờ đến lượt mình lại
không có...
Tôi chợt nhớ ra. Cách đây đã lâu, khoảng hai ba năm gì đó, sau mấy
hội tổ tôm ở nhà Ba Thống, ông Viển rủ tôi sang uống rượu lạc rang.
Lúc tôi sắp về, ông rút từ ngăn tủ ra chiếc phong bì bằng giấy học
trò trịnh trọng đưa bằng cả hai tay, giọng có vẻ xúc động :
- Tôi gửi chú cái này. Đây là vật ký thác. Khi nào tôi nhắm mắt,
người ta nhập quan rồi hãy mở. Số tôi có lẽ không được chết thanh
thản nên có mấy lời dặn lại. Chú có dám hứa danh dự với tôi không?
Tôi mỉm cười hoài nghi :
- Tôi hứa...Mà làm sao bác nghĩ đến chuyện viết di chúc sớm thế ?
Ông hấp háy cặp mắt đã thấm hơi men nhưng giọng lại bình thản, trang
trọng như một nhà tiên tri :
- Trong cõi đời này, chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Viết gửi chú
trước, sợ đến lúc lâm sự trở tay không kịp.
Tôi lẳng lặng ra về bằng lối cổng sau. Tìm được cái hộp nhỏ bằng gỗ
vàng tâm trong góc tủ, tôi lật giở những thứ giấy tờ lưu trữ của gia
đình, và cũng chẳng mấy khó khăn tìm ra cái phong bì xếp lẫn vào
giữa đám giấy má đã ố vàng. Tôi bóc phong bì không được bình tĩnh
lắm vì hồi hộp và cả tò mò nữa .Tôi thầm dự đoán, biết đâu ông Viển
có vàng, lúc sinh thời, sợ các con ỷ lại, lười làm nên dấu một chỗ,
lúc chết, sợ chúng tranh nhau nên phải nhờ tôi, là người ông tuyệt
đối tin tưởng, đứng ra phân xử...
Từ trong phong bì rơi ra tờ giấy gấp tư viết bằng bút bi màu tím.
Tôi lật giở cả hai mặt và bỗng nhiên sững cả người. Đó không phải
chúc thư mà mà là... điếu văn của chính ông.
ĐVS
------------
(*) Một hình tức xử phạt khi người chơi tổ tôm phạm luật
(**) Quân bài tổ tôm có tên "bát vạn"
(***) Tiếng lóng chỉ loại rượu ngang tự cất ở nhà
|