"Hội Thề"
có phải là tiểu thuyết lịch sử sáng giá?
Từ khi đoạt
giải A cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ III
(2006-2009) chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, “Hội thề”
của Nguyễn Quang Thân đã được báo chí ca ngợi như là một tiểu thuyết
lịch sử sáng giá. Nếu đúng như vậy thì thật đáng mừng cho nền tiểu
thuyết Việt Nam, chí ít đã có một tác phẩm “ngang tầm thời đại”, tạo
không khí văn chương sôi động cho giới cầm bút vốn không ít tham
vọng, muốn làm một cái gì đó chấn hưng sự nghiệp văn chương vốn đang
lắm nỗi đoạn trường.
Thế nhưng, đùng một cái, nhà văn Trần Mạnh Hảo tung ra đến ba bài
phê phán gay gắt chẳng những tác giả mà còn chỉ trích cả ban giám
khảo cố tình trao giải thưởng cao quý cho một tác phẩm…phản lịch sử!
Đọc xong các bài viết của anh Hảo, tôi đâm hoảng. Chẳng lẽ một cây
bút có bề dày kinh nghiệm như Nguyễn Quang Thân mà lại sơ xuất như
vậy? Nhưng đáng tiếc là không có có sách trong tay, mà lại đang ở
nơi “khỉ ho cò gáy”, đành chịu phép. Rất may, sau đấy mấy hôm, tôi
được nhà văn Hoàng Quốc Hải gửi cho bản photo copy “Hội thề”. Thật
là như đại hạn vớ được mưa rào, tôi lao vào…đọc, và, càng đọc càng
…thất vọng!
Nhìn chung, 332 trang của “Hội thề” đều lấy cảm hứng từ “Bình Ngô
đại cáo” của Nguyễn Trãi. Những chi tiết khác ít nhiều mô phỏng “Đại
Việt sử ký toàn thư”, dã sử hoặc truyền thuyết. Dấu ấn của sự sáng
tạo không đáng là bao nên tác phẩm ít gây được ấn tượng đối với
người đọc ngoài những đoạn lên gân, tục tĩu, triết lý ngô nghê gây
phản cảm. “Bình Ngô đại cáo” là một áng “thiên cố hùng văn”, là bản
tóm tắt cô đọng, súc tích cuộc kháng chiến gian khổ mười năm của
nhân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Lê Lợi, đã bị Nguyễn
Quang Thân làm cho trở thành méo mó. Nguyễn Quang Thân viết tiểu
thuyết lịch sử ở thời điểm đầu thế kỷ XV nhưng chỉ cần đọc chương
“Xương Giang” là có thể thấy được ông lấy cảm hứng từ hai cuộc chiến
ở Việt Nam 1946-1954 và 1964-1975 với khá nhiều đoạn mạch sử dụng
từ, ngữ, thuật ngữ chiến tranh hiện đại.
Viết tiểu thuyết lịch sử nghiêm túc rất khó. Tuy nhiên không phải
không làm được, cho dù thành công ở các mức độ khác nhau. Đó là
:”Lều chõng” của Ngô Tất Tố, “Bóng nước Hồ Gươm” của Chu Thiên,
“Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác, “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân
Khánh, “Bão táp triều Trần” và “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc
Hải… Trước khi đặt bút viết, các tác giả đã dành nhiều thời gian và
công sức sưu tầm, nghiên cứu, chỉnh lý tư liệu, rồi lại còn trăn
trở, suy ngẫm để có được cách hành văn cho phù hợp với không khí
thời đại, phải cẩn trọng tìm hiểu kỹ các nhân vật lịch sử cùng với
việc khảo cứu điển cố, mới mong có được chỗ đứng trong lòng độc giả.
“Hội thề” hầu như bỏ qua giai đoạn này, tác giả chỉ sử dụng những
tài liệu có sẵn, nếu quả thật có sự “sáng tạo” cũng chỉ là đem những
chi tiết, tình tiết, tình huống, phong tục tập quán của thời hiện
đại đặt vào khung cảnh thế kỷ XV làm người đọc sửng sốt bởi độ liều
hiếm thấy của một nhà văn có bề dày sáng tác và niên xỉ đáng kính.
Với tiểu thuyết lịch sử, vấn đề danh xưng cũng là điều phải cẩn
trọng. Trong cơ quan đầu não của một cuộc khởi nghĩa có tầm cỡ ngang
với một triều đình lâm thời không thể có cách xưng hô như đám lục
lâm thảo khấu. Huống hồ, Lê Lợi là bậc hào trưởng từng học chữ thánh
hiền (cách nói tôn trọng nền giáo dục Nho học), chí lớn bình thiên
hạ, luôn khao khát người hiền tài giúp rập trong màn trướng, không
thể gọi tên húy cộc lốc với thái độ miệt thị những trí thức từng đỗ
đại khoa hay dòng dõi công hầu khanh tướng là “Trãi”, “Hãn”. Tệ hơn
nữa, Nguyễn Quang Thân còn nhắc đi nhắc lại nhiều lần danh xưng “Thị
Lộ” để chỉ người thiếp của Nguyễn Trãi trong khi bà có họ Nguyễn hẳn
hoi chứ không phải thuộc hạng mèo mả gà đồng. Nguyễn Thị Lộ quê Thái
Bình, là một phụ nữ tài hoa, sau này được nhà vua sắc phong “Lễ nghi
học sĩ” chuyên trách dạy các cung nữ học chữ và lễ tiết. Không biết
từ bao giờ, trong xã hội phong kiến, người ta thường gọi loại đàn bà
bất hảo là “thị” kèm theo tên húy. Điều này chắc là có nguồn gốc từ
các sử quan phong kiến như Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên và nhất là Ngô
Sỹ Liên. Đến nay, cho dù là thời đại mới, “dân chủ gấp triệu lần tư
sản” và đặc biệt là rất coi trọng vai trò phụ nữ, vậy mà ở các cơ
quan tư pháp, người ta vẫn dùng y nguyên cách gọi ấy với nữ bị can
(chưa nói đến bị cáo hoặc phạm nhân). Trong khi ấy, Nguyễn Thị Lộ là
một tài nữ, từng sát cánh với chồng, phù tá Lê Lợi làm nên chiến
thắng oai hùng chống ngoại xâm, vậy mà tác giả “Hội thề” dám hạ bút
không chỉ một lần “Thị Lộ”.( Nếu ai đó vẫn còn băn khoăn, xin hãy
vào Google đánh từ khóa Nguyễn Thị Lộ, các bạn sẽ có được thông tin
khá đầy đủ của bà). Cũng xin nói thêm, Nguyễn Thị Lộ chưa bao giờ
được phong “Đại học sĩ”, một quan hàm chỉ dành cho những bậc đại
khoa, bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm hoặc được Tham dự triều chính.
Nguyễn Trãi là văn thần, đậu Thái học sinh ( tiến sĩ), từng giữ chức
Ngự sử đài chính trưởng triều Hồ Hán Thương, đến khi cùng Trần
Nguyên Hãn vào Lam Sơn đã bàn mưu tính kế giúp nghĩa quân Lam Sơn
giành nhiều thắng lợi. Cũng chính ông là người thay Lê Lợi viết hàng
loạt thư dụ hàng vừa đanh thép vừa thấu tình đạt lý góp phần quan
trọng vào kế hoạch “mưu phạt tâm công”. Nguyễn Trãi là một nhân cách
lớn, vừa có tài kinh bang tế thế vừa là nhà thơ lỗi lạc của thế kỷ
XV, được UNESCO tôn vinh là danh nhân văn hóa thế giới nhân dịp kỷ
niệm sáu trăn năm ngày sinh của ông, không thể giống như Nguyễn
Quang Thân miêu tả. Nguyễn Trãi trong “Hội thề” là một anh học trò
Bắc Hà (cách gọi rất sai lầm của Nguyễn Quang Thân. Danh từ này chỉ
xuất hiện thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ XVI, và địa giới Bắc
Hà bắt đầu từ bờ bắc sông Gianh, như vậy, Lam Sơn Thanh Hóa vẫn
thuộc Bắc Hà), nhếch nhác, bần tiện, thậm chí phải khúm núm trước
đám đầu lĩnh Lam Sơn vô học, võ biền, ăn nói tục tằn, tham lam và
hám gái, hoặc chắp tay cung kính trước viên hàng tướng Thái Phúc chỉ
vì cái ơn ông ta đã đối xử tử tế với người cha bị bắt qua ải Bắc.
Một Nguyễn Trãi với thân phận kém cỏi như thế hẳn là không thể xứng
đáng vị trí “quân sư” của thủ lĩnh Lam Sơn. Trang 322, Nguyễn Quang
Thân múa bút tả cảnh Nguyễn Trãi từ biệt viên hàng tướng Thái Phúc:
“Xin đại huynh nhận cho Trãi này ba vái. Một vái để tạ lòng nhân
của đại huynh với thân phụ tôi và em trai tôi trong những ngày đi
đày trên ải Bắc. Còn vái này là cảm tạ công lớn của đại huynh với
nghĩa quân và sinh lịnh hai nước, vái này nữa để ghi nhận tình tri
kỷ của đại nhân với đứa em côi cút là Trãi này…”. Còn đây là
“tâm sự” củ ông bại tướng Tàu: “… Xin huynh hãy thận trọng với
lòng căm thù của kẻ vô học với người có học, của kẻ bất tài tham lam
với thiên tài trong sáng. Tiểu nhân luôn thắng người quân tử. Bảo
trọng!”.
Văn chương nói chung, và văn xuôi nói riêng, cái gọi là “văn “ vô
cùng quan trọng đối với chất lượng tác phẩm. Ý tưởng của tác giả dù
có tốt đến mấy mà ngôn ngữ diễn đạt yếu thì cũng xem như một loại
thứ phẩm. Ngoài tư tưởng, văn chương chính là tiêu chuẩn khẳng định
trình độ người viết, anh ta có phải nhà văn đích thực hay chỉ là cây
bút nghiệp dư! Nói một cách công bằng, văn của “Hội thề” là sự kết
hợp một cách lởm khởm của khẩu ngữ và lời thoại cải lương hoặc tuồng
chèo. Vì thế nó không tạo được tinh thần lịch sử, không khí lịch sử
cuộc kháng chiến chống quân Minh hồi đầu thế kỷ XV. Đó là thứ văn
rời rạc đầy những câu khoa trương, phóng đại, lời thoại rườm rà, tối
nghĩa thậm chí ngô nghê được đặt vào miệng các nhân vật lịch sử cả
của ta lẫn Tầu.
Như trên đã nói, văn “Hội thề” là văn cải lương hoặc tuồng chèo dùng
để “diễn tấu” hơn là để đọc bởi thủ pháp ước lệ bị lạm dụng quá
nhiều. Câu văn, nhất là trong lời thoại thường rườm rà bởi tác giả
luôn mở rộng thành phần, chêm thêm khẩu ngữ, mặt khác lại sử dụng
thủ pháp cường điệu, ngoa dụ của loại hình diễn xướng sân khấu mà
ngữ nghĩa tương đối gần nhau hoặc trùng nhau nên mạch văn rối, gây
tâm lý ức chế với người đọc. Nhưng, hãi hùng hơn cả vẫn là những
đoạn tác giả, với tư cách là người dẫn chuyện, sử dụng một lối văn
“báo tường” tràng giang đại hải, có khi kéo hết vài ba trang, trần
thuật hoặc kể rông dài, mà thông tin thì nhạt nhẽo, ý trùng lặp, từ
ngữ tùy tiện. Chúng ta có thể gặp những câu văn viết theo kiểu này
nhan nhản khắp nơi trong “Hội thề”. Chúng tôi không dám trích dẫn vì
sợ mất thời gian và sự kiên nhẫn của của các bạn. Dưới đây là một số
lời thoại điển hình của các nhân vật chính, xin trích nguyên văn để
rộng đường dư luận:
“… Ông về giữa đêm hôm khuya khoắt thật không phụ lòng ta. Hãy cởi
áo giáp, ăn miếng bánh chưng nóng này rồi nói ta nghe bọn chó Thôi
Tụ đang cụm nhau lại ở Xương Giang ra sao?”
(trang15)
“Đừng nóng ông anh vợ! Ông không biết rằng chuyến đi này Trãi có
thành công thì cũng là nhờ sau lưng đã có chiến công của đại quân và
tướng lĩnh các ông hay sao?”
(trang 17)
“Vương Thông là kẻ háo sắc, đã có lần chính mắt đệ thấy y phi ngựa
lui quân mà vẫn quờ tay hốt được một cô thôn nữ Đại Việt núp bên vệ
đường rồi dặt lên yên ngựa mang vào thành. Thằng kẻ cướp! Y làm nhục
đàn ông Trung Nguyên. Thú thật với huynh, mười năm đánh nhau hết
Thanh Hóa (?!) đến Nghệ An (?!), đệ không biết đến mùi đàn bà!”
(trang 23)
“Ông Trãi, hồi nãy ông bảo đưa thư của ta cho giặc già Mộc Thạnh.
Thư của ta nhưng là do ông thủ bút. Nhân tiện có ông thiếu úy anh vợ
ta ở đây, ta cũng muốn cho tướng sĩ Lam Sơn biết rằng, từ mệnh ta
trong quân thứ chính là ông Trãi. Những lá thư gửi tướng giặc ấy có
sức mạnh đuổi giặc công thành không thua kém đạo quân nào. Tướng sĩ
ta mà được nghe cũng thêm phần hào sảng, sướng lắm. Người danh sĩ
đất Đông Quan(!?), ông hãy đọc lên cho ta và ông thiếu úy đây nghe
bức thư lui được năm vạn quân Mộc Thạnh!”(trang
28)
“Là người từng sống nhiều năm với chúa công và tướng lĩnh Lam Sơn,
ông biết họ không thuộc dòng thi thư, niềm vui của họ là tuốt kiếm
ra. Dưới mắt họ những kẻ ham đọc sách chỉ là một lũ thầy cúng thầy
mo hay vẽ chuyện lung lạc chúa công và tướng sĩ. Phạm Vấn đã nhiều
lần nhổ nước bọt khi ông đọc thơ, Lê Sát từng nói khi biết chua công
giao một cánh quân lớn cho Trần Nguyên Hãn: ‘ Đưa lính cho cục phân
chó ấy thì nó nướng sạch’” Sát nhiều lần mắng mỏ mấy ông đồ coi sổ
sách quân lương: ‘ Ngữ các ông không bằng cục phân”(
trang 29)
“Ông luôn quên nàng là vợ ông nơi quân thứ. Nàng chỉ muốn là vợ ông
chứ không phải là một mưu sĩ. Nhưng khốn nạn thay, nàng lại ở bên
cạnh ông ngay giữa tiền quân (!?), trong đại bản doanh nghĩa quân,
vây giưa bốn bề gươm giáo, chết chóc, trên đầu vợ chồng nàng là nhà
vua, ngay trong khi hai người ân ái, nhà vua cũng ở lầu trên, ngăn
cách với phòng vợ chồng nàng chỉ là một lớp ván mỏng gắn kết sơ sài.
Đã bao lần nàng tự hỏi: hay là mình đòi hỏi chồng quá quắt trong
hoàn cảnh chinh chiến, ông ấy còn gánh vác trách nhiệm Thái Sơn (!?)
của nghĩa quân, giặc Minh còn giày xéo Đại Việt, nàng được thế này
cũng đã quá sung sướng, lễ giáo và quân pháp ưu ái cho riêng nàng đã
gây ra tị hiềm mà chồng nàng phải chịu đựng trong ấm ức…”
(trang 39)
“Hy vọng ấy chẳng khác nào lửa rơm khi ngày lại ngày đại quân triều
đình thua trận liên tục và đang dồn đống lại trên cánh đồng Xương
Giang”(
trang 42)
“Tráng sĩ nào cũng vậy, một cất nhắc chân tay đều phải chính danh.
Quan thái giám (!?) cùng ta sang đây là vực dậy một nước đã diệt,
nối lại một dòng họ đã tuyệt, sao ngươi lại lấy oán trả ân?”(
trang54)
“Ta là Nguyễn Thống, cháu ruột Tuyên Phụng đại phu thượng thư Nguyễn
Trãi, con em của Đại Việt, quân sĩ của Bình Định Vương Lê Lợi…”(trang
54)
“Không khí chiến tranh bao trùm ngôi nhà, khu vườn. Có thể cảm được,
ngửi được mùi thuốc súng, máu me và chết chó lan đến tận đây…”(
trang 60)
“Chỗ ông ta (Thái Phúc) ở đủ xa để khỏi dòm ngó đại doanh nếu có tà
tâm, cũng đủ gần để tiện cho việc mà trướng bởi nhà vua thỉnh thoảng
lại cho triệu ông vì chuyện gì đó. Còn Nguyễn Trãi thì hễ rỗi một
chút là tìm ông, nhiều khi chỉ để uống một chung rượu hay bình luận
một bài thơ biên tái thuở Thịnh Đường. Qua những lần gặp gỡ lúc thư
từ, lúc bên ấm trà ly rượu với Nguyễn Trãi, người hàng tướng bỗng
hiểu ra rằng, cả ông, cả Trãi không phải sinh ra để làm vương làm
tướng hay xông xáo nơi gươm đao mà cho thi ca và một cuộc đời đạm
bạc của kẻ hàn sĩ”(
trang 70)
“Ông cứ gọi tôi là Trãi như hồi chúng ta còn thư từ kết bạn với
nhau. Chúa công mới ra ngoài chưa được vài ngày tôi đã oằn lưng vì
công việc. Hôm này lại mời ông đến đây để xin ông chỉ giáo”(
trang 72)
“Xin đa tạ lời vàng của hiền huynh. Trãi này cũng nghĩ thế. Nhiều
lúc Trãi tôi tự hỏi, tại sao tôi và huynh lại từng là cừu thù mà
không phải là một Tử Kỳ và một Bá Nha?”(
trang 74)
“Vậy là ngươi đã hiểu được việc phải làm. Ta không đến được quân thứ
để úy lạo, thật ân hận vì cái lỗi đó của người làm tướng. Có chút
quà mọn Lam Sơn, ngươi hãy hòa nước lã(!?) cùng uống với quân sĩ,
gọi là chút lòng quý mến(!?) của ta trước giờ lâm trận”(trang
96)
“Ta vời ông sang Kinh Bắc trước giờ khởi trận Xương Giang, chắc bà
Lộ oán ta lắm?”(
trang 101)
“Đi trận với ông anh vợ ta thường đói nẫu ruột mà không biết kêu ai.
Xong trận Xương Giang ta lại về Bồ Đề để đem nào cũng được ăn bánh
chưng rán mỡ. Trãi, ông thật tốt phúc!”(trang
102)
“Đáng lẽ chúa công và anh em nghĩa sĩ Lam Sơn phải xin các vị nho sĩ
Bắ Hà(!?) bỏ qua cho cái tội vô học. Chúng tôi sinh ra thời nhiễu
nhương, từ chăn trâu cắt cỏ mò cua bắt ốc mà lên, chữ nghĩa thánh
hiền không đầy một vốc, đâu có được học hành tử tế như người trong
lầu son gác tía!”(trang102)
“Ông biết mình không làm mấy kẻ sĩ Bắc Hà(!?) thán phục, liên tài về
thi thư chữ nghĩa. Nhưng ông đủ bản lĩnh để họ chẳng những không dám
coi thường mà còn coi ông như một minh chủ huyền thoại đáp ứng được
niềm tin mà họ đánh mất trong những cuộc nổi dậy chống giặc Minh
thời kỳ Hậu Trần.
Thời lai đồ điếu thành công dị/ Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
chỉ là tiếng kêu than của giới nho sĩ mất niềm tin…”(trang133)
“Có gì ngươi cứ nói, đừng ngại. Vừa phá tan mấy vạn quân Ngô, ta
không giao ông cho Phạm Vấn nữa đâu”(trang153)
“Đuốc nhựa trám đốt sáng lừng, khói nghi ngút từ những ngọn đuốc. Có
thể nhìn rõ ấn vàng, kiếm bạc, tờ sắc, tờ chỉ của quân Minh đặt trên
mắt án thư”(
trang 158)
“Tôi thì tôi chôn sống hết lũ chuyên khua môi múa mép, cái lũ trí
thức không bằng cục phân ấy. Ông biết không, hôm ở Xương Giang…Một
thằng tướng Ngô tưởng nó là Trương Phi, vừa vung gươm vừa la hét,
lại còn định nhảy lên lưng voi tôi. Tôi né được, rạp người xuống xóc
thanh kiếm vào chỗ ngã ba con cặc nó, xâu ngược lên. Thằng giặc đổ
lộn đầu xuống đất, tôi rút mãi mới lấy kiếm ra được! Ha ha! Nó quên
đeo giáp vào chỗ ngã ba hiểm trở ấy. Phải nói hôm ấy quân sĩ mình
như hổ đói giữa bầy dê, chém sướng tay thật” (trang171).
…
Khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc kháng chiến chính danh với thủ lĩnh Lê
Lợi có tầm nhìn xa, lại được sự phù trợ đắc lực của văn thần Nguyễn
Trãi cùng các võ tướng đảm lược, trăm họ hết lòng ủng hộ, về bản
chất khác hẳn với đám lục lâm thảo khấu, vì thế mới lấy lại được
giang sơn Đại Việt từ tay quân xâm lược bạo tàn. Xét về toàn cục,
khởi nghĩa Lam Sơn không thể có sự phân hóa nội bộ ngay từ đầu như
“Hội thề” của Nguyễn Quang Thân. Cuộc kháng chiến gian khổ mười năm
ấy, nếu mọi người không đồng tâm hiệp lực thì làm sao thắng được một
đạo quân lang sói, dầy dạn kinh nghiệm trận mạc, với những tên tổng
binh khét tiếng mưu lược và tàn bạo như Lý Bân, Trần Trí, Vương
Thông? Các chi tiết Phạm Vấn, Lê Sát, Lê Ngân luôn đố kỵ, miệt thị
Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn chỉ là sản phẩm suy diễn thiếu căn cứ
bắt nguồn từ học thuyết đấu tranh giai cấp vô nhân tính được thực
thi ở miền Bắc thời kỳ Cải cách ruộng đất mà thôi. Chẳng những thế,
tác giả còn nhét vào đầu các tướng lĩnh Lam Sơn những suy nghĩ nhỏ
nhen, thói tham lam, ích kỷ, công thần, bè phái…khiến người đọc có
quyền nghi ngờ nhân cách văn hóa của người viết. Chuyện tranh giành
ngôi báu giữa các phe phái trong hoàng tộc dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên
chỉ xẩy ra sau khi Lê Thái Tổ qua đời, Lê Thái Tông (Nguyên Long) kế
vị. Tuy nhiên, đây là một triều đại đang hưng thịnh, Lê Thánh Tông
(Tư Thành), sau khi lên ngôi đã kịp thời điều chỉnh đường lối trị
nước, quốc gia Đại Việt lập tức trở thành một cường quốc trong khu
vực với những vị minh quân như Hiến Tông, Túc Tông.
Cái nhìn chủ quan, phiến diện, chịu ảnh hưởng ít nhiều từ Maoist đã
làm méo mó lịch sử Đại Việt ở vào thời kỳ hào hùng nhất.
Xin trích dẫn:
“Chó chết thật, đang đánh giặc, phụ tử chi binh mà trong đám anh
hùng quanh ông đã lộ ra ít nhiều thói xu nịnh. Làm vua chưa được bao
lâu ông đã biết điều này: Ông chứ xổ mũi thì họ đã ho. Có lần ông
trách Nguyễn Trãi: “Ngươi xui (!?) ta lên ngôi quá sớm”
(trang17)
“Ông thừa biết những kẻ đó. Họ dũng mãnh trên trận tiền, có thể cầm
giáo xông vào doanh trại chém đầu tướng giặc, lúc lên cơn có thể sai
lính bắt vào lều những cô thôn nữ ngây thơ để chiếm đoạt trinh tiết
của họ. Khi có lệnh chúa công phải giữ nghiêm quân kỷ, họ có thể tự
tay chém đầu những kẻ phạm tôi cướp hay hiếp, những cái tội chính họ
đã từng phạm không ít lần nhưng được bộ hạ giấu nhẹm mà thôi. Họ
không đủ lòng bao dung để nhìn người khác hạnh phúc, không đủ lòng
nhân để rung động trước một ‘yểu điệu thục nữ. Họ không đủ liêm sỉ
để tự răn mình. Vì họ chưa từng đọc Kinh Thi(!?) chăng? Lê Sát từng
nói: ‘ Xưa nay sơn hà đổ nát là do bọn nho sĩ chỉ biết đọc sách mà
không dám cầm cung kiếm”(
trang 24)
“Chàng là của vua, của ba quân, tình yêu nàng đã chết trong lòng
chàng, còn nàng, một cái bóng thui thủi sống trong nước mắt, trước
cái nhìn khinh bỉ, ghen tị của bọn người vô học trong cái triều đình
không ngai(!?), trong sự ban ơn nhiều khi quá lộ liễu của minh chủ”(
trang 40)
“Có lần thiếu úy Lê Sát nói với ông, làm ra vẻ như vô tình: ‘ Người
ta bảo thằng An Lộc Sơn thu vì chứa chấp phải lão say rượu Lý Bạch
phải không? Thời nào cũng có thằng ngu! Mần thơ mà ngôi ngôi tướng
thì thua vãi đái”(
trang 82)
“Chúa công chiêu đãi vợ chồng anh học trò Thăng Long quá đáng. Người
không sợ họ ngủ quên trong chiến trận ư? Nhà vua cười rồi nói túng:
Ta không muốn bọn các người nổi cơn lên rồi nhìn trộm chuyện giường
chiếu của người ta thì còn ra cái thể thống gì! Ta đâu có lạ cái máu
dê của các ngươi!”(
trang 84)
“Ông không biết là các đầu mục Lam Sơn bằng mặt không bằng lòng, vẫn
hậm hực với bốn “anh học trò” Thăng Long, cái lũ ‘ trâu chậm uống
nước trong’, khéo uốn tấc lưỡi với cuốn giấy bản bôi kín mực được
gọi là Bình Ngô sách mê hoặc minh chủ để leo lên những chỗ tót vời…”
( trang 85)
“Thỏ chưa săn được mà người ta đã hầm hè nhau chuyện chia phần. Tư
Tề do tôi với ông Lưu Nhân Trú (!?) dạy dỗ đấy nhưng vẫn chưa học
được chữ nhân”(
trang 86)
“Phạm Vấn không nuốt nổi mấy tiếng ‘ đại quân sư’ như cố tình
phun(!?) ra từ miệng chúa công.Cái nhăn mặt của Vấn không giấu nổi
đôi mắt tinh tường của Lê Lợi. Nhà vua đằng hắng, thấy nghẹn trong
cổ. Đã bao lần ông khuyên can, trách mắng nhưng cái bụng hẹp như
trôn kim của ông anh vợ không chịu li lai ra một chút gọi là”(trang
103}
“Ông nói lạ! Thì ra trước nay võ công của chúa công và bọn võ biền
bày tui chỉ là trò hiếu sát? Bao thành quách, đất đai của xã tắc thu
về được chỉ là nhờ công ơn của mấy cái thư dụ hàng của các ông nho
sĩ Thăng Long ư?”(
trang106 - 107)
“Lê Lợi vẫn chưa hết giận. Lê Sát, Phạm Vấn vẫn là tâm phúc của ông,
tướng nanh vuốt của ông. Bọn Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn không chỉ
vào Lam Sơn muộn mà còn là những kẻ sinh ra trong một thông thổ
khác, nề nếp khác với bọn dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn. Cái khác lớn
nhất so với tướng soái nanh vuốt của ông là tài họ cao, kiến văn họ
rộng…Ông thường ngăn chặn xua đi tị hiềm đố kỵ nơi đám tâm phúc
nhưng đó chỉ là một cách để che giấu tốt nhất những điều bất cập
trong chính bản thân ông mà thôi. – Khốn thay! – Ông nghĩ thầm –
nhiều khi mình lại phải cần đến cái vô học của bọn họ”(
trang 114)
“Có lẽ nghiệp lớn rồi phải trông cậy vào bọn ít học, thô lậu nhưng
trung trinh mới nên chăng?”(
trang 114)
“Mặc dù không riêng gì bọn Trãi mà cả những kẻ tâm phúc vẫn nhắc
khéo ông chuyện ba ông đầu rau của nghĩa quân là bọn Vấn, Sát, Ngân
vẫn thường thả cho quân tướng lạm dụng ‘ đồ tế nhuyễn của riêng tây’
của giặc Ngô và cả của dân chúng khi tràn vào chiếm lại cái thành
giàu có nào đó. Nhưng ông ậm ừ rồi lờ đi. Ông cần chiếm thành, đuổi
giặc, lấy lại giang sơn chứ chưa phải thời chấn hưng đạo lý. Thắng
giặc rồi làm chuyện đó cũng chưa muộn”(
trang115)
…
Viết tiểu thuyết lịch sử không có nghĩa là phải bám sát chính sử
nhưng nhất thiết phải tôn trọng lịch sử. Việc hư cấu nhiều hay ít là
tùy thuộc vào mỗi tác giả, điều quan trọng là, tác phẩm ấy có tạo
được không khí lịch sử và tinh thần lịch sử hay không, chứ không
phải thứ tinh thần chung chung đem đặt vào thời đại nào cũng được.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải, trong một lần nói chuyện với tôi đã có nhận
xét khá lý thú về đề tài này. Ông bảo, “Don Quijote” của Miguel de
Cervantes và “Les Trois Mousquetaires” (Ba người lính ngự lâm) của
Alexandre Dumas là những tiểu thuyết lịch sử hư cấu hoàn toàn. Lịch
sử ở đây chỉ được dùng như một điểm tựa, vậy mà nó đã chinh phục
người đọc hết thế kỷ này đến thế kỷ khác bởi tinh thần lịch sử kết
hợp với phong cách lãng mạn bay bổng thời đại của các hiệp sĩ trung
cổ. Ngược lại, “tinh thần lịch sử” của “Hội thề” chỉ là màn sương
mỏng lúc sớm mai, khi mặt trời lên lập tức tan biến, để lại một hiện
thực trần trụi của hai cuộc chiến tranh 1946 – 1954 và 1964 – 1975
bị đẩy lùi vào quá khứ hơn năm trăm năm!
“Hội thề” còn được biết đến như là một tiểu thuyết lịch sử tôn vinh
các “đồng chí” tướng Tầu với những màn trình diễn ngoạn mục về chân
dung Thái Phúc, Vương Thông, Trần Trí. Dưới ngòi bút của Nguyễn
Quang Thân, người ta thấy bọn này là những tay anh hùng mã thượng,
luôn có nhã ý muốn kết giao huynh đệ với các thủ lĩnh Lam Sơn, say
mê gái Đại Việt đến si cuồng, đối xử với các nàng như người tri kỷ,
hoặc sẵn sàng thí mạng hàng trăm lính chỉ để làm một nghĩa cử là đưa
“người tình” về quê quán. Tác giả tỏ ra hứng thú khi miêu tả rất chi
tiết cảnh Thái Phúc “vui vẻ” với cô kỹ nữ Thăng Long trong khoang
thuyền do Nguyễn Trãi ưu ái dành cho, hay cảnh Tổng binh Vương Thông
ăn cơm cùng cô thôn nữ ngoại thành tại điện Kính thiên mà quên đi
bản chất “Đại Hán” của chúng không bao giờ thay đổi. Trong lịch sử,
các tập đoàn phong kiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam, chưa có triều
đại nào tàn bạo, dã man, vô nhân tính như nhà Minh. Các Tổng binh
Trương Phụ, Trần Trí, Vương Thông, khi sang trị nhậm Đại Việt bao
giờ cũng nhận được chỉ dụ đặc biệt của triều đình là trước hết phải
hủy diệt nền văn hóa. Đây là ngón đòn rất hiểm của Minh Thành Tổ,
bởi ông ta biết, một dân tộc mất nước mà còn văn hóa vẫn có thể khôi
phục được, nhưng văn hóa mất thì dân tộc ấy chắc chắn bị đồng hóa.
Hơn hai mươi năm giặc Minh dày xéo đất nước ta, chúng triệt để đập
phá bi ký, tịch thu hầu hết sách vở trong dân gian, bắt hàng ngàn
trí thức Nho học và thợ thủ công lành nghề sang Kim Lăng phục vụ
“Thiên triều” mà cả Việt sử lẫn Minh sử đều ghi chép rõ ràng, há
chẳng phải là bằng chứng thuyết phục sao? Đó chính là nguyên nhân vì
sao cho đến nay tư liệu lịch sử Trung đại của ta vẫn còn những
khoảng trống.
“Hội thề” chẳng những bố cục xộc xệch mà còn được viết bởi lối hành
văn trùy tiện, câu văn rối. Nhìn chung, phong cách ngôn ngữ “Hội
thề” là phong cách tiểu thuyết hiện đại. Tác giả gần như bê nguyên
xi các thuật ngữ tác chiến được du nhập từ giáo trình huấn luyện
quân sự của Nga, Tầu vào Khởi nghĩa Lam Sơn. Đó là “ đột phá khẩu”,
“hỏa châu” (pháo sáng), “tung thâm”, “quyết chiến chiến lược”, “phản
công chiến lược”,“thê đội”, “thám báo”, “mùi thuốc súng”, “phường
nào, quận nào cũng có người của ta”, “ đạn pháo…voi gầm”, “phòng
tuyến”, “trận này chỉ được thắng”, v.v…Không một người đọc có chút
kiến thức về lịch sử chiến tranh thời trung đại nào có thể chấp nhận
kiểu viết “râu ông nọ cắm cằm bà kia” của tác giả “Hội thề” như vậy.
Đã thế tác giả lại còn sính dùng chữ Hán, nhất là thành ngữ và điển
cố nhưng khả năng hiểu biết lại rất hạn chế nên không hiếm trường
hợp phản tác dụng.
Thành ngữ Hán rất cô đọng, thường là biểu đạt ý ngoài lời. Khi vận
dụng người viết phải hiểu được tinh thần của nó. Ví dụ trong “Bình
Ngô đại cáo” có câu: “ Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập/ Đầu lao
(giao) hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm”, nghĩa là, “ Dựng gậy tre
làm cờ, kẻ đi ở, người cày ruộng từ bốn phương tụ tập lại/ Đổ vò
rượu đục xuống sông để binh lính cùng uống, chứng tỏ tướng sĩ một
lòng như cha con”. Hàm ý của Nguyễn Trãi là khẳng định sự đoàn kết
nhất trí cùng khắc phục khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh của các
thủ lĩnh và binh sĩ Lam Sơn. Thế nhưng Nguyễn Quang Thân lại hiểu
cái ý trực tiếp của điển cố nên đã phịa ra chi tiết Lê Lợi trao cho
mỗi viên thiếu úy một vò rượu với lời dặn hòa nước lã cho quân sĩ
uống! Chưa hết, còn một sự cố cũng tức cười không kém. Ấy là đoạn
Nguyễn Trãi và Thái Phúc “chúng khẩu đồng từ” bằng cách mỗi người
đều viết chữ “chiến” vào lòng bàn tay để quyết định vận mệnh của
thành Đông Quan. Đọc đến đây, tôi chắc nếu được sống lại, La tiên
sinh sẽ giống như Chu Lang, ngửa mặt lên Cao Xanh mà than rằng: “
Trời đã sinh La Quán Trung sao lại còn sinh Nguyễn Quang Thân!”
(Thiên ký sinh Trung hựu hà sinh Thân!).
Tệ hại hơn nữa là Nguyễn Quang Thân hư cấu nên một Nguyễn Phi Khanh
với câu thành ngữ “Tứ hải giai huynh đệ” bị cắt béng chữ cuối thành
cộc lốc như là người ta… thiến gà! Đến đây thì có thể khẳng định,
tác giả “Hội thề” hơi bị khiêm tốn về cổ học, mà cổ học lại rất quan
trọng đối với người viết truyện lịch sử. Đây là câu nói của Khổng Tử
với Nhan Uyên, nguyên văn như sau:” Quân tử kính nhi vô thất, dữ
nhân cung nhi hữu lễ, tứ hải chi nội giai huynh đệ dã! Quân tử hà
hoạn hồ vô huynh đệ dã”, đại ý là” Người quân tử kính mà không
mắc lỗi, cung mà có lễ, (thì)trong khoảng bốn biển đều là anh em
vậy! Người quân tử lo gì không có anh em”. Sau này, nội hàm của câu
thành ngữ bị biến dạng, được các nhà chính trị “Thiên triều” luôn có
dã tâm thôn tính thiên hạ, lợi dụng làm chính sách mị dân. “Mười sáu
chữ vàng” hay “Bốn tốt”, về bản chất cũng mang tinh thần trên. “Tứ
hải giai huynh” thực chất là một câu văn què, bất thông. Nhà thơ
Trần Mạnh Hảo đã nói vui, chẳng lẽ mọi người trong thiên hạ đều là
anh (của ta)? Và nếu ta nhún mình gọi họ là “anh” thì trên đời này
sẽ không còn chiến tranh, không còn nước mạnh chèn ép nước yếu, con
người sống với nhau thân ái, bình đẳng? Cái cách diễn giải thô thiển
mang màu sắc chính trị biến hình như loài kỳ nhông của tác giả “Hội
thề” chỉ là trò chơi đánh tráo khái niệm, hoán cải nội hàm thành
ngữ, hạ thấp phẩm giá và nhân cách Nguyễn Phi Khanh với mục đích làm
vừa lòng ông bạn vàng “nước lạ”
Một điều cần phải làm sáng tỏ ở “Hội thề” là, liệu tác giả có xuyên
tạc lịch sử khi ông viết về giới sĩ nhân bằng thái độ miệt thị qua
những dòng suy nghĩ của một vị tướng Lam Sơn: “Bó đũa chọn cột
cờ, Lê Lợi luôn để ông ngồi bên phải, lo toan mọi chuyện có dính
dáng đến chữ nghĩa, bút mực cho nghĩa quân. Giữa lúc sĩ giới nước ta
gồm những kẻ có chút chữ nghĩa hay đỗ đạt đều đua nhau xin tuyển mộ
sang Ngô để được nhà Minh “đào tạo” rồi cho về bản xứ làm quan, từ
anh thông ngôn đến quan huyện quan phủ thì đúng là nhân tài như lá
mùa thu”(trang 162). Đoạn văn này lại một lần nữa “vạch áo cho
người xem lưng” về sự nhận thức thô thiển của Nguyễn Quang Thân câu
văn “nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh”(người tài như lá còn
lại trên cây của mùa thu, bậc hào kiệt thưa thớt như sao buổi sớm)
trong “Bình Ngô đại cáo”. Theo ông, sở dĩ người tài giỏi Đại Việt
vắng bóng là bởi họ “đều đua nhau xin tuyển mộ sang Ngô để được nhà
Minh “đào tạo”rồi cho về bản xứ làm quan,…” mà không biết rằng, Ức
Trai tiên sinh dùng thành ngữ “nhân tài thu diệp” là một biện pháp
ẩn dụ phổ biến trong biền văn với hàm ý cuộc khởi nghĩa lúc đầu gặp
rất nhiều khó khăn, thiếu nhân tài vật lực, giặc thì tàn bạo còn
nhân dân thì chưa thật tin vào sự thành công. Hiểu sơ lược như thế
mới có chuyện tác giả để Lê Lợi tặng mỗi ông thiếu úy một vò rượu
với lời dặn hòa nước lã cho quân sĩ cùng uống!
“Hội thề” còn mắc khá nhiều lỗi sơ đẳng về kiến thức lịch sử, địa lý
ở bậc phổ thông đáng ra không thể có ở một người cầm bút chuyên
nghiệp. Xin nêu một vài dẫn chứng để bạn đọc tham khảo. Bia tiến sĩ
đề danh mãi đến năm 1484 mới chính thức được dựng theo chỉ dụ của Lê
Thánh Tông, vậy mà Nguyễn Quang Thân lại để dân Kinh thành nhân dịp
“Hội thề” thăm “bia tiến sĩ” từ năm 1427! “…qua Khuê Văn Các tràn
đầy sân gạch mênh mông. Hai hàng rùa dưới chân bia tiến sĩ từ ba
trăm năm thấp thoáng mộng bình yên, ung dung ngắm nhìn dân chúng
Đông Quan (!?) dẫm đạp lên nhau trước chính điện nơi thờ Khổng Tử”
(trang325). Khuê Văn Các là do Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn
Thành cho xây dựng vào năm Gia Long thứ tư (1805), vậy năm 1427 lấy
đâu ra công trình văn hóa này? Đông Quan là do quân Minh áp đặt cho
kinh đô Thăng Long, người dân bình thường còn thấy phẫn nộ, huống hồ
một nhà văn lại chấp nhận nó như một lẽ đương nhiên!
Có thể nói, giở bất cứ trang nào của “Hội thề” cũng gặp một vài hạt
“sạn”, cần phải đính chính. Sông Hồng là do người Pháp đặt sau khi
họ chiếm được thành Hà Nội lần thứ hai (Fleuve Rouge), còn tên
thường gọi của nó là Nhĩ Hà (hoặc Nhị Hà), giống như cái vòng đeo
tai chảy qua phía đông bắc kinh thành Thăng Long. Cũng như vậy,
đường “Cổ Ngư”(Cố Ngự) mới hình thành từ thế kỷ XVII, còn hồ Tây
ngày nay, vào lúc cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi có tên là “Dâm
Đàm” (đầm sương mù).
Nhân đây cũng xin nói thêm vài chi tiết khá là hài hước của nhà văn
Nguyễn Quang Thân về ngựa. Ấy là ông để cho người cưỡi “Ông thúc
chân vào lưng ngựa”. Kỵ sĩ mà lại thúc được chân vào lưng ngựa thì
tài thật. Chưa hết. Hãy xem đoạn Nguyễn Trãi đưa tiễn Thái Phúc trên
đê sông Nhị sau Hội thề: “ Con ngựa nhỏ, bước chậm rãi, thỉnh
thoảng lại ngoạm một miếng cỏ gà ngon lành chưa khô sương sớm” (
trang 321). Kiến thức của Nguyễn Quang Thân chỗ này chỉ ngang với
trình độ trẻ chăn trâu. Ngựa chiến khi hành quân, cho dù là đi bước
một cũng vẫn phải gắn hàm thiếc, đóng yên cương, làm sao vặt cỏ ăn
như trâu bò thả rông được? Hay là ông đùa chút cho vui!
Cuối cùng là bản “Minh ước”, thực chất là văn bản đầu hàng của Vương
Thông. Vì vốn từ Hán Việt khá hạn chế, tác giả không nghĩ đến “minh
ước” mà ông dùng một từ rất không chính xác là “lời bàn”. Đó là một
văn bản nửa Hán nửa Nôm chẳng khác gì loại văn khấn của mấy bà vãi
non mê tín chắp tay trước Phật Bà Quan âm, miệng dẻo quẹo, vái như
múa, cầu tài cầu lộc. Tôi dám chắc, nếu thuật phụ đồng của các nhà
ngoại cảm thời nay gọi được hồn Nguyễn Trãi về nhân dịp kỷ niệm sáu
trăm ba mươi mốt năm ngày sinh của ngài, mà bất ngờ đọc được toàn
văn “lời bàn” này thì ngài sá gì mà không đốt tất cả văn thư từ lệnh
vốn là những trước tác bất hủ, nhưng giờ thì đã quá lạc hậu so với
văn tài của bậc hậu sinh họ Nguyễn…
Dưới đây là phần đầu của “Lời bàn” trứ danh trên:
“Tuyên Đức nhị niên, Mậu Thân nhật, tại Nhị Hà Đông Quan thành, Đại
Việt quốc, đại đầu mục xứ An Nam Lê Lợi tôi và các tướng, mở hội thề
cùng tổng binh thiên triều thái tử thái bảo Thành Sơn Hầu Vương
Thông và các quan tướng: Kính bào Hoàng Thiên, Hậu Thổ cùng Danh
sơn, Đại xuyên và thần linh các xứ! Chúng tôi cùng nhau phát tự lòng
thành, xin thề…”
Chí Linh, 15 / 3 / 2011
ĐVS
|