Vương triều Lý dưới góc nhìn
của tiểu thuyết gia Hoàng Quốc Hải
Sau khi bộ tiểu thuyết lịch sử "Bão táp triều Trần" được xuất bản
trọn bộ vào năm 2003 làm xôn xao dư luận văn đàn Việt Nam, thì đến
cuối năm 2010, nhà văn Hoàng Quốc Hải lại tiếp tục trình làng bộ
trường thiên sử thi "Tám triều vua Lý"*
không kém phần hoành tráng. Đây là bộ tiểu thuyết mà ông đã thai
nghén trong vòng hai mươi năm, được xem như một tập đại thành về
vương triều nhà Lý từ lúc khởi nghiệp đến khi suy vong.
"Tám triều vua
Lý" gồm bốn tập ("Thiền sư dựng nước", "Con ngựa nhà Phật", "Bình
bắc dẹp nam", "Con đường định mệnh"), được tác giả phân định theo
các mốc thời gian quy ước của khoa nghiên cứu lịch sử. Tổng cộng
3509 trang, khổ 14,5 X 20,5, chỉ xét về dộ dày cũng đã là một kỷ lục
đáng nể.
Với tư cách là tiểu thuyết, "Tám triều vua Lý" bao quát cả một giai
đoạn lịch sử dài 216 năm, tương ứng với khoảng thời gian từ năm Kỷ
Dậu (1009), Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế và kết thúc vào năm Ất Dậu
(1225) khi Lý Chiêu Hoàng bị Trần Thủ Độ ép nhường ngôi cho Trần
Cảnh. Thời gian của bộ tiểu thuyết là tuyến tính, phù hợp với các
đặc trưng thi pháp của loại hình tự sự truyền thống nhưng lại không
lạnh lùng, vô cảm như những dòng nhật lịch của các sử gia quan
phương, mà ở đây, nó được phát triển trên cái nền cảm hứng vô tận
của lòng yêu nước, niềm kính ngưỡng các bậc anh hùng hào kiệt đã mở
ra cho dân tộc Việt một thời đại huy hoàng, rất đáng tự hào.
Dưới ngòi bút của Hoàng Quốc Hải, vương triều nhà Lý, sau khi được
chuyển giao một cách êm thấm từ cái chết của hôn quân Lê Long Đĩnh,
Lý Công Uẩn đã kiến lập được một mô hình xã hội khá tiến bộ với
chủ trương dung nạp cả ba tôn giáo Phật, Nho, Lão với phương châm
hòa đồng "xã hội nho, tâm linh Phật, thiên nhiên Đạo". Chính sự
kết hợp hài hòa những phần tinh túy nhất của ba hình thái tôn giáo
này là động lực thúc đẩy xã hội phát triển cả về chính trị, kinh tế,
xã hội, giáo dục, để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử trung
đại Việt Nam.
Là loại hình tiểu thuyết lịch sử, "Tám triều vua Lý" hiển nhiên cũng
phải chịu sự chi phối của đặc trưng thi pháp truyền thống, đó là hư
cấu. Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi chúng ta nhận thấy, tỷ lệ
hư cấu của tác phẩm khá cao, tạo ra sự cuốn hút, bắt người đọc, đọc
đến tận cùng, nhưng lại tuyệt đối đảm bảo tính chân thực, không phá
vỡ logic lịch sử, mà làm phong phú thêm lịch sử. Sự ghi nhận thành
công đầu tiên của Hoàng Quốc Hải là, ông đã dám mạo hiểm xông vào
một địa hạt vô cùng trống vắng tư liệu. Nếu chỉ căn cứ vào các bộ sử
chính thống của nhà nước phong kiến thì, như tác giả từng nói, chỉ
có thể viết được nhiều nhất là 200 trang. Chính vì thế, ông đã bỏ ra
đến hai mươi năm để sưu tầm tài liệu với sự kiên nhẫn đáng khâm
phục. Ngoài việc lục tìm tư liệu trong các thư viện lớn, kể cả kho
tư liệu đồ sộ của Viễn Đông bác cổ do người Pháp để lại, Hoàng Quốc
Hải còn tiếp cận Tống sử, Minh sử bằng nhiều nguồn khác nhau (mà
bằng con đường chính thống, ở Việt Nam không có hoặc rất hiếm). Đây
là nguồn tư liệu không kém phần quan trọng, vì nó là biên niên sử,
do chính các sử quan Trung Quốc ghi chép từ cả ngàn năm trước, đảm
bảo độ tin cậy. Cảm thấy vẫn chưa đủ, tác giả còn thường xuyên điền
dã, tìm về những địa chỉ trước đây vốn là bãi chiến trường ở vùng
biên ải, tham vấn các thiền sư, nghiên cứu kinh Phật, tìm hiểu bia
cổ, câu đối, hoành phi, khảo cứu dã sử, sưu tầm đồng dao, ca dao,
tục ngữ, để có được ý niệm đầy đủ về diện mạo xã hội thời Lý.
Cái tài của
người viết ở đây là có sự điều hòa một cách hợp lý giữa chính sử, dã
sử và hư cấu, tạo nên những hình tượng văn học giầu cá tính, đủ sức
thuyết phục ngay cả những bạn đọc khó tính. Có thể thấy, thiền sư
Vạn Hạnh, thiền sư Đa Bảo, Định Hương trưởng lão, Lý Thái Tông,
thiền sư Viên Chiếu, Khu mật sứ Mai Mạnh Minh, Thái sư Lý Đạo Thành,
Thái úy Lý Thường Kiệt, Nhiếp chính Ỷ Lan... phần lớn đều là những
nhân vật lịch sử nhưng lại được miêu tả dưới góc độ văn chương với
những suy nghĩ, hành động và cách ứng xử như những cá thể sinh động
thậm chí phức tạp, phản ảnh được tinh thần thời đại.
Hư cấu nhưng không vo tròn, bóp méo lịch sử, đó là quan điểm thẩm mỹ
xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Hoàng Quốc Hải. Vì thế, những ấn
tượng về các nhân vật lịch sử tiêu biểu trong tư tưởng tình cảm của
người đọc không bị phá vỡ, gây ra cơn sốc tâm lý, kiểu như là "giải
thiêng thần tượng", mà ngược lại, càng củng cố thêm sự ngưỡng mộ,
lòng biết ơn với các bậc tiền nhân. Nói cách khác, cái gọi là hư
cấu trong thi pháp tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải là tạo ra
một trạng thái tâm hồn dưới dạng thức suy tư của những nhân vật lịch
sử từng được định hình trong tâm thức dân tộc. Tuy nhiên cũng
cần phải phân định rạch ròi giữa tôn trọng lịch sử và mô phỏng lịch
sử để tránh tình trạng lạm dụng. Một tiểu thuyết lịch sử, nếu chỉ
dừng ở mức mô phỏng, cho dù cách viết có gợi cảm đến mấy cũng khó
chinh phục người đọc bởi tác giả đã bỏ qua một đặc trưng vô cùng
quan trọng của nghệ thuật văn chương là sáng tạo. Trong mấy chục năm
qua, nền văn học Việt Nam đã quá thừa thãi những cuốn sách thuộc
đẳng cấp này. Đó chính là nguyên nhân vì sao, mảng đề tài lịch sử ít
hấp dẫn độc giả. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến Hoàng Quốc Hải, có
lần bàn về tiểu thuyết lịch sử ở trại sáng tác Tam Đảo, ông đưa ra
một nhận xét ngắn gọn, nhưng thực chất lại là vấn đề lớn với người
cầm bút: "Muốn phổ cập hóa lịch sử thì không gì bằng văn chương
hóa lịch sử". Những trang văn tài hoa, đầy trách nhiệm công dân
và cảm hứng sáng tạo về vương triều Lý của tác giả dường như luôn
quán triệt phương châm trên.
Sử dụng lối hư cấu trạng thái tâm lý trong cái vỏ nhân vật lịch sử
có thật, chính là một dạng "biện chứng pháp tâm hồn" mà Lev Tolstoi
đã sử dụng rất thành công trong "Chiến tranh và hòa bình". Theo
trình tự của quy luật tư duy, từ suy nghĩ đến hành động, các nhân
vật lịch sử được tác giả nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau,
tương tác lẫn nhau qua các mối quan hệ vua tôi, cha con, thầy trò,
vợ chồng, chủ tớ... tạo nên một hệ thống mang tính cộng đồng hết sức
uyển chuyển. Các yếu tố thời đại, tôn giáo, văn hóa, phong tục tập
quán và nhất là chiến tranh thường được xem như những hằng số lịch
sử. Đó chính là nguồn năng lượng kỳ diệu không bao giờ cạn làm
nảy sinh minh triết Việt tộc, tâm hồn Việt tộc mà tác giả dường như
đã hóa thân, nhập vào dòng chảy tâm linh ấy qua những Công án Thiền.
Trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có một tác phẩm dưới
dạng tiểu thuyết lịch sử mà
lại thấm nhuần tinh thần tôn giáo sâu sắc như "Tám triều vua Lý".
Dưới ánh sáng của tư tưởng Thiền, các vị hoàng đế Lý triều cai trị
đất nước bằng tấm lòng bác ái, từ bi hỷ xả, mọi chúng sinh đều bình
đẳng trước Phật tổ, nhưng không bài bác các tôn giáo khác mà đề xuất
một chủ trương tiến bộ là "tam giáo đồng nguyên". Đó là triều đại
thực sự lấy dân làm gốc, coi dân như con, dạy dân sống chân thật,
ghét thói điêu trá, khác hẳn thứ quỷ kế đa đoan của những triều đại
độc tài, tàn bạo sau này, coi dân như nô lệ nhưng lại được che đậy
bằng nhiều thứ ngôn từ hoa mỹ.
Hệ thống nhân vật trong "Tám triều vua Lý" rất phong phú, đa dạng
với đủ các đối tượng từ các vị hoàng đế ở ngôi "cửu ngũ chi tôn" đến
tầng lớp thứ dân được Hoàng Quốc Hải miêu tả ở những cấp độ khác
nhau. Họ xuất hiện như là điều kiện tất yếu cấu thành các giai
tầng xã hội, một mặt chi phối hoàn cảnh lịch sử đương thời, mặt khác
tạo nên sự tương hỗ về đặc điểm tâm lý, đặc thù văn hóa và hơn hết
là sự manh nha cho một tư tưởng thời đại tương đối cởi mở đang dần
dần hiển lộ. Để có được những nhân vật thiền sư đạo cao đức
trọng, quán thông thiên địa, được các vua Lý kính trọng tôn làm quốc
sư, tác giả đã phải đầu tư khá nhiều thời gian vào Thiền học, am
hiểu đến mức độ nhất định những chỉ yếu nằm trong "nội điển". Các bộ
kinh "Thủ Lăng nghiêm", "Đại Bi tâm kinh", "Bát Nhã tâm kinh", "A Di
Đà", "Hồi Hướng cực lạc"...đều được ông tham chiếu, nên mỗi trang
viết của ông đều thấm nhuần tinh thần Thiền. Hình tượng các thiền sư
được miêu tả như là những người đã thoát tục, vượt ra ngoài vòng
sinh diệt. Các thiền sư Vạn Hạnh, Định Hương, Viên Chiếu với hành
trạng có phần bí hiểm, cùng những bài kệ như lời sấm của bậc thần
linh, dự phóng đến cả tương lai, khiến người đọc dễ dàng hình dung
ra diện mạo xã hội triều Lý trong khoảng một trăm năm đầu được xem
như thời đại hoàng kim của lịch sử Đại Việt. Đó chính là thời kỳ
"Quốc tộ như đằng lạc", vận mệnh dân tộc được Phật Đà phù hộ độ trì.
Có vẻ như, các ngài thương xót con dân Hồng Lạc bao năm rên xiết
dưới ách cai trị tàn bạo của bạo chúa Lê Ngọa Triều, (cho dù thân
phụ ông ta có công phạt Tống, bình Chiêm, được bách tính suy tôn là
bậc anh hùng dân tộc), nên đã phái các thiền sư xuống phàm trần,
hoằng dương đạo pháp, giáo hóa trăm họ, truyền bá tư tưởng từ bi bác
ái. Chính vì lẽ đó, các thiền sư, sau khi phổ độ chúng sinh khỏi bể
trầm luân, họ không tham quyền cố vị, ở lại triều đình hưởng vinh
hoa phú quý, mà nhất quyết rời kinh đô Thăng Long, tìm đến những nơi
sơn cùng thủy tận trụ trì, hoặc hành cước, vân du tiêu dao với mây
ngàn gió núi.
Tư tưởng Thiền quán xuyến đạo trị nước ít nhất bốn triều vua Lý bắt
đầu từ Lý Công Uẩn. Tâm linh Phật đã chuyển hóa vào máu thịt các bậc
quân vương.
Từ Lý Thái Tổ đến Lý Nhân Tông, ngoài tài trị nước làm cho quốc thái
dân an, về mặt Phật giáo, các vị còn được xem như những bậc thiền
sư. Tư tưởng bình đẳng, bác ái, thân dân luôn là kim chỉ nam hướng
dẫn đạo trị nước. Chúng ta có thể thấy, trong mười tám năm chấp
chính, Lý Công Uẩn miễn thuế cho dân đến ba lần. Lý Thái Tông cùng
Mai hoàng hậu khuyến khích cung nữ lập ấp trồng dâu nuôi tằm, trực
tiếp dạy họ dệt gấm, tự nhà vua mặc triều phục bằng hàng nội làm
gương cho quần thần, chỉ được ghi vài dòng trong Toàn thư, nhưng
Hoàng Quốc Hải lại dùng đến ba chương (XVI, XVII, XVIII) và 15 trang
của chương XIX của quyển 2, tổng cộng đến 63 trang để viết rất cụ
thể, chi tiết và sinh động về sự việc này.
Bằng kiến văn vừa rộng vừa sâu, lại được tham bác những nguồn sử
liệu đáng tin cậy, mọi "tự sự" trong "Tám triều vua Lý" đều diễn ra
trong tầm kiểm soát với mức độ hư cấu hợp lý nên mạch văn thông
thoáng, đảm bảo tính chân thực lịch sử. Trận đánh tan đạo quân của
hai viên tướng Man Tống Đoàn Kính Chí và Dương Trường Huệ của thái
úy Lý Trưng Hiền vào năm Giáp Dần (1014), trận tập kích lãnh thổ nhà
Tống, hạ liên tiếp mười một thành trì, giết hơn ba ngàn tướng sĩ Bắc
quốc của đạo quân Nùng Trí Cao, hay chiến dịch công phạt thành Ung
Châu, Khâm Châu của quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Lý Thường
Kiệt làm cho vua tôi nhà Tống kinh hồn bạt vía là những ví dụ điển
hình.
Khi kể về các trận giao tranh, nhất là với quân đội Bắc quốc, ngoài
vốn hiểu biết khá tường tận về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán
vùng biên giới Lưỡng Quảng, ngòi bút Hoàng Quốc Hải còn rất cẩn
trọng khi đề cập đến nghệ thuật chiến tranh thời trung đại qua tài
cầm quân của các vị tướng Đại Việt. Khác với hàng loạt truyện lịch
sử, tác giả tuyệt đối không sử dụng kiểu viết dễ dãi "ta thắng địch
thua", làm biến dạng lịch sử nhưng lại phù hợp với hệ ý thức đương
đại, mà ông có cách làm của riêng mình. Diễn tiến các trận đánh,
trong đó có không ít những trận quyết chiến sinh tử, được Hoàng Quốc
Hải nghiên cứu, tham khảo khá kỹ lưỡng các nguồn tư liệu khác nhau,
đặc biệt là Tống sử. Chính vì đã loại trừ được yếu tố chủ quan,
phiến diện, các chiến dịch chinh phạt hay đề kháng, dù diễn ra ở quy
mô nào cũng khách quan, trung thực nhưng không kém phần sinh động.
Mặt khác, chiến tranh không phải là những cuộc dạo chơi lãng mạn
theo kiểu "đường ra trận mùa này đẹp lắm", mà là “Hồn tử
sĩ gió ù ù thổi / Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi / Chinh phu tử sĩ
mấy người / Nào ai mặc mặt nào ai gọi hồn?”**,
Điển hình cho khả năng "điều binh khiển tướng" của Hoàng Quốc Hải là
hai trận thư hùng được sử sách ghi lại là trận công phạt thành Ung
Châu và trận chiến trên phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Với tư cách quốc chủ khai cơ, Lý Thái Tổ là vị hoàng đế văn võ song
toàn, trị nước bằng tinh thần Phật giáo trên cơ sở một nền tảng nho
học sơ khai với những cải cách khá mạnh dạn, đã xây dựng được một mô
hình xã hội với nhiều mặt tích cực. Qua những trang văn đầy tinh
thần trách nhiệm với lịch sử, người đọc còn nhận thấy, chí ít có đến
bốn trong tám vị vua Lý được Hoàng Quốc Hải miêu tả như là những bậc
hoàng đế có tính cách mạnh mẽ, tự làm chủ triều đình và thường đưa
ra những kế sách trị nước sáng suốt ở tầm vĩ mô. Với những quốc
vương có tài kinh bang tế thế như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông,
Nhân Tông, lũ nịnh thần, bọn hoạn quan cùng phe cánh rất ít có cơ
hội thao túng triều chính. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu để nhà Lý
được lòng dân, kéo dài thời gian thịnh trị trên một trăm năm.
Sở dĩ vương triều Lý có được sự ổn định tương đối dài, xã hội ít có
những biến động, còn do một nguyên nhân vô cùng quan trọng nữa, mà
theo Hoàng Quốc Hải, đó là bởi Tâm Linh Phật. Chủ trương từ bi
bác ái, mọi chúng sinh đều bình đẳng, chính là chìa khóa mở ra một
xã hội nông nghiệp thịnh trị, trong đó mỗi cá thể đều có được phật
tính trong người. Về lĩnh vực này, tác giả đã có những trang
phân tích, bình luận vô cùng thấu đáo qua một số cuộc đàm đạo giữa
các thiền sư với các vị vua Lý. Mỗi cuộc đàm luận về mối liên hệ mật
thiết giữa tư tưởng Phật với đạo trị bình đều được xem như một công
án Thiền. Người đọc ngộ ra một điều đơn giản nhưng lại vô cùng quan
trọng đối với lịch sử nhân loại. Ấy là tôn giáo dứt khoát không phải
là thuốc phiện ru ngủ, làm tê liệt ý chí đấu tranh của nhân dân như
những ai đó từng rao giảng, mà là một niềm tin thiêng liêng, một
điểm tựa tinh thần để hướng con người đến cái thiện, tạo nên một
cộng đồng có lương tri, lương năng và, hơn thế nữa, luôn biết sợ....
Lịch sử để lại không ít bằng chứng về những vương triều nhanh chóng
suy tàn, bởi vua quan là những kẻ vô thần, trên không sợ trời, dưới
không sợ đất, giữa không sợ dân, chỉ sợ mất mũ ô sa, trước sau cũng
trở thành tập đoàn tham nhũng, bên trong thì đè đầu cưỡi cổ, bóc lột
cùng dân, bên ngoài thì quỳ gối khom lưng trước ngoại bang, cắt đất
hương hỏa của cha ông dâng cho chúng, cam chịu thân phận thần tử để
duy trì chiếc ngai vàng quyền lực, tuy lúc khai cơ lại rất hào hùng.
Thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Đa Bảo, thiền sư Định Hương, và trước
đó, cả Khuông Việt đại sư đã góp phần không nhỏ vào việc khai tâm
dưỡng tính cho các bậc chủ tể tương lai bằng tinh thần vị tha bất
vị ngã của triết lý Thiền. Chẳng những thế, sau khi khuông phò
quốc gia một cách toàn tâm toàn ý, trước khi viên tịch, các ngài còn
để lại lời kệ như là phương châm xử thế của những bậc thánh nhân
quán thông thiên địa, tri túc tam thế giới bằng nhãn quan thấu thị.
Đạo và đời được chuyển hóa lẫn nhau trong mối tương quan hai chiều
được các bậc thiền sư lý giải như là quy luật tự nhiên, trong vòng
tuần hoàn tạo hóa tương sinh tương diệt.
Đặc điểm nhân vật trong "Tám triều vua Lý" là không mô phỏng một
cách hời hợt, triệt để loại bỏ kiểu trần thuật dễ dãi mà những nhân
vật chính được xây dựng đạt đến trình độ chuẩn của tính cách văn
học. Đương nhiên yếu tố hư cấu đóng vai trò chủ đạo, thiếu nó, tiểu
thuyết chỉ còn là cái xác không hồn. Trên thực tế, Hoàng Quốc Hải
chăm sóc nhân vật của mình rất công phu, khiến người đọc không thể
phân biệt rạch ròi đâu là hiện thực lịch sử, đâu là hiện thực tưởng
tượng. Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Mai
Mạnh Minh, Mai Minh Nguyệt, Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt được xem là
những nhân vật có tần số xuất hiện cao trong tiểu thuyết, được xây
dựng khá công phu với những trang miêu tả về diễn biến tâm trạng
phức tạp, hấp dẫn và ít nhiều đã đạt đến mức điển hình. Lý Thái Tổ
là người sáng lập ra vương triều Lý, nhưng chính sử ghi chép về
nguồn gốc xuất thân của ông khá mù mờ, thậm chí nhiều sử gia còn
phải dùng huyền thoại để khỏa lấp những nghi vấn về thân phụ, thân
mẫu của ông. Đây là nhân vật có tầm cỡ trong lịch sử Đại Việt, tưởng
dễ mà lại khó viết nếu muốn xây dựng thành hình tượng văn học.
Hoàng Quốc Hải chọn phương án trung dung điều hòa hợp lý giữa chính
sử, dã sử và hư cấu để chuyển hóa Lý Công Uẩn từ một nhân vật lịch
sử thành hình tượng văn học mang biểu tượng lịch sử.
Thật ra, xét về mặt văn chương, yếu tố dã sử, huyền thoại vẫn là đối
tượng luôn hấp dẫn người đọc, nhưng nếu quá lạm dụng sẽ biến nhân
vật thành thần thánh hoặc ma quỷ. Chính vì hiểu rất rõ điều đó, nên
tác giả chỉ sử dụng một liều lượng vừa phải huyền tích "người đàn
bà làm thuê nằm mơ giao cấu với thần", "ngôi mộ kết do trời táng",
hay "những câu thơ thần ngâm sang sảng quanh ngôi mộ người cha trong
đêm", nhằm tạo một thông điệp về sự dị thường của chú tiểu chùa Lục
Tổ, chuẩn bị cho việc họ Lý lên ngôi hoàng đế sau này. Hòn đá thiêng
(Lý gia linh thạch) cũng là chi tiết rất có giá trị về mặt tâm linh,
nhưng tất cả những nét dị thường đó cũng chỉ là thứ yếu. Điểm nhấn
trong tính cách nhân vật Lý Công Uẩn là ông đã được giáo dưỡng trong
môi trường Thiền ngay từ tấm bé. Theo dõi cho đến hết quyển 1, chúng
ta sẽ thấy tác giả tận dụng đặc điểm này để xây dựng Lý Công Uẩn
thành một Hoàng Đế - Thiền Sư, chỉ với mười tám năm tại vị, đã biến
Đại Việt từ một quốc gia đói nghèo, loạn lạc triền miên, lòng dân ly
tán thành một cường quốc thịnh vượng vào bậc nhất vùng Đông Nam Á.
Viết về Lý Thái Tổ, Hoàng Quốc Hải có những trang văn thật đẹp.
Chuyến du ngoạn hồ Dâm Đàm vào mùa xuân năm Đinh Mão cùng thái tử Lý
Phật Mã trước khi băng hà là một chương viết sinh động, trong đó,
dường như tác giả ngầm gửi đến người đọc những ý tưởng nằm ngoài văn
bản. Cảnh hồ Dâm Đàm trong tiết trời se lạnh, chiếc lâu thuyền lướt
trên mặt hồ mịt mờ sương khói khiến nhà vua bâng khuâng nhớ đến
những lời tiên tri của Vạn Hạnh thiền sư về thế đất Thăng Long "long
bàn hổ cứ" (rồng cuộn hổ ngồi) bên dòng sông Cái như lưỡi kiếm sắc
đỏ lựng uốn cong án ngữ mạn đông bắc kinh thành. Vốn cũng là một
thiền sư tri thiên mệnh, Lý Công Uẩn không lạ gì chuyện "Tạo hóa
bày trò sinh diệt chơi" (Trần Mạnh Hảo), nên nhân chuyện vãn
cảnh hồ, ông đã truyền lại cho con trai những bí quyết trong phép
trị bình làm cho quốc thái dân an mà tinh thần của nó là Thân Dân.
Chủ trương tha thuế khoan sức dân, khuyến khích khai hoang lập ấp,
cấp ruộng cho người cô quả và "ngụ binh ư nông" đã trở thành quốc
sách cho các hoàng đế kế vị sau này.
Dựng nên đại cảnh du ngoạn Dâm Đàm, Hoàng Quốc Hải đã khôn khéo dẫn
dắt người đọc đến với vai trò không thể thiếu của đạo Phật đối với
sự ra đời của triều Lý mà Thiền sư Vạn Hạnh là một biểu tượng tinh
thần. Chính vị cao tăng đã nhận xét về địa thế Thăng Long :"Đây
mới chính là đất của đế vương muôn đời. Ta chỉ tiếc nhà Lê nhãn giới
thiển cận, cứ thủ hiểm kinh đô nơi hang động khiến thế nước không
thoát ra được, không hanh thông được" (trang 616, quyển 1). Và
đây là lời Thái Tổ dặn thái tử Phật Mã :"Này con, ta sở dĩ được
nước, công lao chủ yếu từ các bậc đại thiền sư, bản thân ta cũng
được sinh ra và được giáo dưỡng nơi cửa Phật. Cho nên trách nhiệm
của con sau này vừa phải giữ nước, vừa phải giữ đạo. Giữ sao cho đạo
hòa được với đời, nhưng không được đời quá, không được thế tục quá.
Thế tục quá thì đạo suy. Nhưng cũng đừng siêu việt quá. Siêu viết
quá thì đạo nhạt, vì dân không theo được". (trang 625, quyển 1).
Với tầm nhìn của bậc đế vương, Lý Thái Tổ khẳng định vai trò cực kỳ
quan trọng của hồ Dâm Đàm với địa mạch Thăng Long. Ông cảnh báo con
trai nhưng cũng là lời cảnh báo cho các thế hệ sau, bởi Dâm Đàm
chẳng những là cảnh quan hùng vĩ thiên nhiên ban tặng mà còn là
nguồn mạch linh thiêng của tương lai Đại Việt : "Chính cái hồ Dâm
Đàm này là một đại huyệt của nước Nam. Đây là vùng tụ khí của cả
miền linh địa, hồ này chính là não thủy của Thăng Long, vậy nên phải
giữ để cho nước hồ không bao giờ cạn kiệt, không được san lấp mặt
hồ... Con phải nhớ nằm lòng lời ta dặn đây: Dâm Đàm tuyệt,
Thăng Long diệt". (trang 618, quyển 1).
Chỉ với vài trang phác thảo, Hoàng Quốc Hải dường như đã dựng lại
được chân dung tinh thần vị hoàng đế thủy tổ nhà Lý thật sinh động.
Ông là bậc vĩ nhân của muôn đời nhưng cũng lại là con người vô cùng
bình dị của một thời.
Trong văn chương có một quy luật nghiệt ngã. Nhân vật chính mà tác
giả kỳ vọng chưa chắc đã ghi được dấu ấn thẩm mỹ, ngược lại cái gọi
là nhân vật phụ, đôi khi chỉ thấp thoáng vài dòng lại làm người đọc
không thể nào quên. Có thể xem các thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Định
Hương, thiền sư Viên Chiếu, Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt, Ả Nùng,
Hoàng Sư Mật, Ỷ Lan, Đàm thái hậu, Đỗ Anh Vũ là những hình tượng văn
học đúng với nghĩa của nó.
Hãy lấy nhân vật Lý Thái Tông làm ví dụ. Không thể phủ nhận Thái
Tông là một minh quân. Khi còn là Đông cung thái tử, ông từng được
thầy Định Hương truyền dạy Phật pháp, hiểu sâu sắc triết lý Thiền,
sau khi tức vị thì lấy tư tưởng thân dân làm phương châm trị nước,
khoan hình phạt, giảm tô thuế, lại trực tiếp dạy nghề dệt gấm cho
cung nữ, mùa xuân năm nào cũng cày ruộng tịch điền. Nhưng mặt khác,
nhà vua lại có một bầy mỹ nữ đông đúc nơi hậu cung, thường xuyên
phát động các cuộc chiến tranh chinh phạt, chẳng những làm tổn hao
quốc khố mà còn gây ra cái chết của hàng vạn sinh linh. Tư tưởng sô
vanh kỳ thị chủng tộc do chịu ảnh hưởng nặng nề của nho giáo làm ông
say máu chiến thắng mà quên mất lời răn của Phật về lòng từ bi bác
ái. Lại nữa, vì chiều theo thói ích kỷ của Lý Càn Đức, muốn độc
chiếm Ngô Tuấn làm của riêng, Thái Tông đã ép vị tướng trẻ phải cung
hình, đẩy viên sủng thần vào cảnh cửa nát nhà tan.
Lý Đạo Thành thuộc hàng thân vương, là một trong những trọng thần
kiến văn quảng bác, có tài kinh bang tế thế, giữ ngôi tể tướng, bị
cuốn vào cơn lốc tranh giành quyền bính, bỗng chốc bị đẩy khỏi triều
đình, đi trấn thủ Nghệ An sau khi Thánh Tông qua đời. Dưới ngòi bút
Hoàng Quốc Hải, người ta nhận ra một điều, Lý Đạo Thành là một
nhân cách lớn, yêu nước, thương dân đến tận tâm can, nhưng lại là
nhà nho am hiểu cặn kẽ chữ "thời" trong Kinh Dịch, luôn tự làm cho
mình bé nhỏ đi trước đám đồng liêu nhằm giữ mạng sống gia đình được
vẹn toàn. Đó cũng là nỗi đau của kẻ sĩ không phải chỉ ở riêng
triều Lý.
Thiền sư Vạn Hạnh được miêu tả như là một vị bồ tát quán thế. Ông
chẳng những có tầm nhìn xa trông rộng mà còn thông hiểu cả Nho,
Phật, Lão, có tài tiên tri chỉ qua một vài điềm triệu. Ở trang
50-51, quyển 1, Vạn Hạnh tiết lộ với thiền sư Khánh Văn về chủ tiểu
Lý Công Uẩn : "Ta nói điều này sư đệ phải giữ kín, lộ ra có kẻ
biết, nó sẽ sát hại thằng bé mất. Ban nãy ta nói thằng bé có kỳ
tướng là ta còn giảm đi mấy bậc đấy. Thực ra nó có tướng đế vương.
Đây đích thị là bậc minh vương thánh đế trời ban cho nước ta, ban
cho đạo ta, để gỡ cho thế nước đang lâm vào trì bế, nát rối. Sư đệ
phải bảo trọng tài sản cho nước". Chỉ có Vạn Hạnh mới dám chỉ
trích Lê Long Đĩnh đa sát; bấm huyệt, phát công lực chữa bệnh cho
ông ta rồi giảng giải về ý nghĩa của những câu đồng dao bằng thái độ
của kẻ bề trên mà nhà vua không dám nổi cơn thịnh nộ. Thiền sư còn
dự đoán được ngày giờ chết của Lê Ngọa Triều: "Nhà vua đi vào giờ
Dậu ngày Tân Hợi" (trang 57, quyển 1), đồng thời cũng chính ông,
bí mật vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế mà không xẩy ra
giao tranh đổ máu. Khi Lý Thái Tổ vừa đăng cơ, xa giá về thăm hương
Dịch Bảng, Vạn Hạnh còn dự phóng cả chuyện nửa đêm, nhà vua như một
kẻ mộng du, một mình đến chùa Tiêu Sơn thăm thầy. Sau này, khi được
Lý Công Uẩn tham vấn kế sách, thiền sư còn khuyến cáo nhà vua nhanh
chóng thiên đô, tiến hành lập đạo tràng, khai trí cho dân. Cũng
chính ông, trước đó, đã mấy lần giúp Lê Hoàn kế sách phạt Tống, bình
Chiêm thành công: "Chỉ trong bảy tám ngày là nhà vua phá xong
giặc" (trang 74, quyển 1), : "Thời cơ đang thuận, tiến binh
gấp thì thắng, để lâu ắt bất lợi" (trang 74, quyển 1).
Tuy nhiên, với tư cách là một tiểu thuyết gia, trong quá trình xây
dựng nhân vật điển hình, Hoàng Quốc Hải luôn quan tâm đến hiệu ứng
văn chương hơn là hiệu ứng lịch sử. Có khá nhiều nhân vật trong tác
phẩm không trùng khớp với những hành trạng mà các sử gia đã ghi chép
trong biên niên. Vì vậy, không hiếm trường hợp, ông đã công khai phê
phán các sử gia bởi đã tìm được đủ chứng cớ, đòi trả lại sự công
bằng cho những nhân vật lịch sử. Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan là hai
trường hợp điển hình.
Lý Thường Kiệt là nhân vật mang tâm trạng phức tạp với nỗi niềm u
uẩn cho dù đường công danh được xem là hanh thông. Võ công của ông
trong suốt mấy chục năm với tư cách là người chỉ huy quân đội, rồi
lĩnh chức thái sư tể tướng nhưng hoàn cảnh gia đình lại là một bi
kịch lớn. Thành công của chiến dịch Bắc phạt Ung Châu, Khâm Châu và
trận chiến trên phòng tuyến bờ nam sông Như Nguyệt đã đưa tên tuổi
Lý Thường Kiệt lên đỉnh cao vinh quang, thì việc ông bị ép phải tự
yêm đến nỗi Tạ Thuần Khanh phẫn chí bỏ nhà ra đi, con trai lưu lạc
không nhận cha là nỗi đau thiên cổ, dày vò tâm can cho đến lúc qua
đời. Ngòi bút Hoàng Quốc Hải đã lách vào được chỗ nhạy cảm nhất
trong tâm hồn vị thống soái quân đội nhà Lý, làm người đọc vừa phẫn
nộ vừa bâng khuâng thương cảm. Khác với chính sử, tác giả không
lý tưởng hóa nhân vật được xem như huyền thoại này mà đã chỉ ra được
những chỗ đáng chê trách khi ông về hùa với Ỷ Lan thao túng triều
cương, sử dụng gã hoạn quan đô thái giám Đỗ Khánh Thập, vu cáo rồi
sát hại thái hậu Thượng Dương cùng bảy mươi hai cung nữ, vô hiệu hóa
thái sư Lý Đạo Thành, chỉ chút nữa là đẩy đất nước vào cuộc khủng
hoảng chính trị. Với nhân vật Ỷ Lan, tuy cũng bị các sử gia phê phán
về hành vi khuất tất trong hậu cung dẫn đến vụ huyết án thái hậu
Thượng Dương, nhưng về đại thể, âm hưởng chung vẫn là ca ngợi tài
nhiếp chính của bà dưới triều Lý Nhân Tông. Từ những minh định có
phần thiên lệch như vậy đã khiến hậu thế ngộ nhận, coi bà là bậc nữ
lưu phi thường, một Linh Nhân hoàng thái hậu tài đức vẹn toàn, xứng
đáng làm tấm gương cho giới quần thoa, mà bộ ba vở chèo "Bài ca giữ
nước" của nhà biên kịch Tào Mạt là một ví dụ.
Bằng vào một số những cứ liệu đáng tin cậy, Hoàng Quốc Hải mạnh dạn
chỉ rõ, thực chất việc Ỷ Lan gây ra vụ thảm sát hậu cung có một
không hai trong lịch sử là bởi nguyên nhân tranh đoạt quyền lực chứ
không chỉ là yếu tố ghen tuông. Thanh toán được phe cánh thái hậu
Thượng Dương, ngôi vị nhiếp chính của Ỷ Lan sẽ vững vàng, bà mới dễ
bề thao túng chính sự khi mà Lý Nhân Tông vẫn còn là một đứa trẻ.
Hành vi của Linh Nhân hoàng thái hậu đánh dấu thời kỳ bắt đầu suy
thoái của đạo Phật. Các thiền sư dần dần rời bỏ triều đình tìm đến
những vùng thâm sơn cùng cốc tu hành. Cái gọi là "tâm linh Phật"
lặng lẽ tách khỏi tình cảm cộng đồng, mà thay vào đó bằng xã hội nho
giáo với chủ trương phân chia đẳng cấp xã hội, đặt ra những
thiết chế phức tạp cứng nhắc như Tam cương, Ngũ thường, quân tử là
quý, tiểu nhân là tiện, một mặt, nó hoàn thiện cơ cấu quyền lực của
vương triều, nhưng mặt khác lại là nguyên nhân đẩy nhà Lý đến suy
thoái, cuối cùng chính quyền rơi vào tay nhà Trần.
Tính sử thi của "Tám triều vua Lý" không chỉ giới hạn ở những đặc
trưng lý thuyết như hệ thống nhân vật, không gian, thời gian nghệ
thuật, tính liên thông giữa các sự kiện và khuynh hướng tư tưởng, mà
nó còn được bao hàm cả không gian văn hóa và các sinh hoạt tôn giáo.
Nói cách khác, có thể xem Phật giáo là cơ sở của đạo trị bình triều
Lý. Vẻ đẹp của Thiền là vẻ đẹp tự nhiên, vô cùng cao cả nhưng lại
rất gần gũi với chúng sinh. Phật giáo trong "Tám triều vua Lý", xét
cho cùng, chính là thứ tôn giáo nhân đạo hóa con người.
Qua cuộc đàm luận giữa thiền sư Định Hương, thiền sư Viên Chiếu, Lý
Thái Tông và Mai Mạnh Minh (chương XIII, quyển 2), chúng ta sẽ thấy,
cuộc hội ngộ "thiên tải nhất thì" ấy đã làm nảy sinh một công án
thiền mà sự khởi đầu phải kể đến tiếng chuông chiều của sư Đạo Quang
: "Tiếng chuông trong trẻo thả vào không gian u tịch sự tĩnh lặng
sâu xa, khiến người nghe như vừa được khai ngộ. Cứ từng tiếng, từng
tiếng nhè nhẹ, dư âm sắp tắt hẳn mới lại tiếp nối tiếng sau. Tiếng
chuông như là một trợ niệm vãng sinh, khiến quỷ thần nghe được tiếng
chuông này cũng phải chắp tay kính lễ. Ngay cả kẻ tội đồ sa địa ngục
cũng phải đem lòng tỉnh ngộ.
Rõ ràng người thỉnh chuông đã phát khởi cái tâm chí thành, tâm đại
bi, nên kẻ hạ căn mà nghe được chuông này, ắt ba nghiệp được gột rửa
sạch trong. Và một khi tiếng chuông được thỉnh từ một người có tâm
tuệ thì cả âm dương đều được quan triêm lợi lạc"
(trang 232, chương XIII, quyển 2). Tiếng chuông như có thần lực của
nhà sư trẻ tạo nên không khí linh thiêng cho cuộc luận Thiền.
Phong cách ẩm trà của các vị khách trong cái rét ngọt của tháng
trọng đông, những lời bàn của Định Hương trưởng lão về "tam giáo
đồng nguyên" cùng những ý kiến tham vấn của Viên Chiếu, Thái Tông,
Mạnh Minh, cho thấy, Hoàng Quốc Hải rất có kinh nghiệm dàn dựng
những tiểu cảnh trong đại cảnh của bố cục tiểu thuyết sử thi. Chẳng
những thế, trong cuộc Thiền đàm, tác giả còn đưa được vào bài kệ nổi
tiếng của Lục tổ Tuệ Năng sau khi được nghe những kiến giải về biểu
tượng "bồ đề" của đạo hữu Thần Tú :
Bồ đề bản vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.
(Bồ đề không phải cây
Gương sáng chẳng phải đài
Tự tính không một vật
Bụi bặm bám vào đâu).
Đây là cách nhận thức của bậc thiền sư đốn ngộ, dường như đã thoát
khỏi vòng sinh diệt, từ cõi Niết Bàn nhìn xuống "trần ai".
Chỉ những thiền sư chân tu, đạt đến cảnh giới nào đó mới có được
cách nhìn cuộc sống luôn trong trạng thái vận động như Định Hương
trưởng lão : "Sao họ u mê vậy. Làm gì có chuyện trường sinh bất
tử. Chẳng thấy Phật dạy: Sinh lão bệnh tử là một vòng sinh hóa của
muôn loài, muôn vật đó ư. Cái gì đã có sinh ra là có hoại diệt. Ta
đang sống đây, cũng có nghĩa rằng ta đang chết đây" (trang 260,
chương XIII, quyển 2).
Để khép lại bài viết này, chúng tôi xin nhắc lại, hiện tượng sinh
lão bệnh tử vốn nằm trong quy luật của Tạo Hóa. Điều Định Hương
trưởng lão kiến giải với chúng đệ tử cũng chính là tinh thần của Vạn
Hạnh thiền sư trong bài kệ nổi tiếng mà Hoàng Quốc Hải đã lấy làm đề
từ cho bộ tiểu thuyết trường thiên:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hải
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông)
Quy luật nghiệt ngã ấy bao quát vạn vật trong trời đất, không trừ
một ngoại lệ nào. Vương triều Lý khởi đầu vốn hào sảng với bao công
tích lẫy lừng như thế, vậy mà, cuối cùng, Lý Chiêu Hoàng phải gạt lệ
đem cơ đồ hai trăm mười sáu năm dâng cho họ Trần. Kết cục ấy do lòng
trời không còn tựa Lý gia hay bởi lòng người đã chán ghét một vương
triều suy thoái? Hoàng Quốc Hải đã lý giải điều này khá thuyết phục
ở quyển 4 có tựa đề thật ấn tượng "Con đường định mệnh".
Chí Linh, năm Con Mèo, tháng cuối hè, ngày lành
(13 / 6 / 2011)
Đ.V.S
*
"Tám triều vua Lý" của Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2010
**
“Chinh phụ ngâm khúc" của Đặng
Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm
|