Nhân mùa Vu Lan báo hiếu, tìm hiểu
về nguồn gốc lễ "Bông hồng cài áo"
Dân
tộc Việt Nam chúng ta tự ngàn xưa đã có những lễ nghi trong gia
đình, phong tục tập quán ngoài xã hội, do tiền nhân sáng tạo như
những phương pháp để dung hòa và hướng dẫn đời sống. Sau nầy các
thế hệ nối tiếp điều chỉnh lại, bổ sung thêm cho thích hợp với
thời đại, dùng làm khuôn vàng thước ngọc cho sinh hoạt hàng
ngày. Những tập tục ấy đã lưu truyền qua nguồn văn học dân gian.
Như ca dao, tục ngữ đã trở thành những bức thông điệp để xây
dựng gia đình và phát huy xã hội. Đã đáp ứng cho con người vừa
về mặt tình cảm vừa về mặt tâm linh. Những tập tục ấy được tư
tưởng chuyên chở đi vào lòng người một cách tự nhiên, dần dà rồi
trở thành một cái “Đạo”. Như đạo thờ cúng Ông Bà chẳng hạn, ca
dao Việt Nam đã ví von:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Tình tự văn học ấy dần dà được gạn lọc lại, phát huy thêm để trở
thành những đề tài Giáo khoa dạy dỗ cho hậu sinh. Là một phân
khoa rất quan trọng dùng để duy trì nề nếp, bảo vệ kỷ cương
trong gia đình và góp phần vào công cuộc xây dựng sự an sinh và
trật tự cho xã hội.
Đến khi đạo Phật được du nhập vào Việt Nam, thì lại được người
Việt chúng ta đón nhận một cách tích cực. Sở dĩ đạo Phật có
những yếu tố thuận lợi và nhanh chóng được nhiều người yêu
chuộng, bởi đạo Phật có nhiều điểm trùng hợp với tình tự văn học
và tín ngưỡng dân gian. Và dần dà phát triển theo một chiều
hướng vừa dựa vào tâm tư tình cảm của người dân quê ; đồng thời
bắt chước theo những nét đa dạng của phong tục tập quán các nước
văn minh trên thế giới. Từ đó, càng làm giàu có thêm cho nhan
sắc cuộc đời, cho những cảm quan đã và đang đón nhận những tình
cảm thiêng liêng, làm thăng hoa cho tâm hồn, làm đẹp thêm cho
cuộc sống.
***
Nhận dịp lễ Vu Lan Báo Hiếu, xin tìm hiểu về Lễ Bông Hồng Cài
Áo, một nghi thức hết sức đặc biệt bởi rất ít người Phật tử biết
đến nguồn gốc. Thêm nữa là nguồn gốc của nghi thức nầy được giới
Phật tử trẻ tuổi tại miền Nam VN sáng tạo và đưa vào nghi lễ về
“Tín Ngưỡng” cách đây không lâu so với chiều dài sinh hoạt Tôn
giáo. Cũng như sáng tạo nầy đã được nhiều vị Học giả Tiền bối
trong Phật giáo hoan hỷ chấp nhận.
Sự kiện ấy bắt nguồn từ... Vào đầu thập niên sáu mươi, khi thầy
Nhất Hạnh qua du học ở Nhật, nhân “Ngày Mẹ” thầy ra phố, được
một cô sinh viên xin phép cài lên áo thầy một bông hoa. Sau đó
thầy viết một đoản văn có tựa đề là: “Bông Hồng Cài Áo”. Nội
dung thầy giời thiệu về tục lệ cài bông hoa trên áo trong “Ngày
Mẹ” của người Nhật. Và ca ngợi tình mẹ, cũng như tấm lòng hiếu
hạnh của người con.
Thầy kể:
Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother´s
Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có
một ngày tôi đi với thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở
Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh viên Nhật, bạn của thầy
Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên Ân một câu, rồi
lấy trong sắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy
áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì,
nhưng không dám hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ
chi đó. Sau khi họ nói chuyện xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy
Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày Mẹ, theo tục lệ Tây
phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng
trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh
sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa
trắng trên áo mà bổng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ
một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào ; chúng tôi không có cái tự hào
được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ
thấy xót xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người
được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố
gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi có khóc
than cũng không còn kịp nữa. “Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp
và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu
Vu Lan”.
(trích đoản văn Bông Hồng Cài Áo của thầy Nhất Hạnh).
Đoản
văn nầy gởi về Sài gòn và được giới Sinh viên và Học sinh đón
nhận một cách nồng nhiệt, họ sao chép và phổ biến rộng rãi trong
nội bộ. Được nhà xuất bản Lá Bối in lần thứ nhất năm 1964, thầy
Nhất Hạnh không giữ bản quyền nên mỗi năm nhà xuất bản đều in
thêm và phát hành liên tiếp. Trước đó khi tiếp nhận được đoản
văn, thì đoàn Sinh viên Phật tử Sài gòn đáp lời đề nghị của
thầy, họ thực hiện ngay nghi thức Lễ “Bông Hồng Cài Áo” lần đầu
tiên trong dịp Lễ Vu Lan tại chùa Xá Lợi. Họ mời tất cả những
người tham dự được cài lên áo một bông hoa. Người còn mẹ thì
được cài một hoa màu hồng và người mất mẹ thì được cài một bông
hoa màu trắng. Đến khoảng giữa thập niên sáu mươi, nhạc sĩ Phạm
Thế Mỹ dựa theo ý văn của thầy Nhất Hạnh, phổ nên một ca khúc
cùng với tựa đề Bông Hồng Cài Áo. Được các Gia đình Phật tử tại
miền Nam đón nhận và đưa vào nghi thức Bông Hồng Cài Áo trong
các dịp lễ Vu Lan. (Cuộc thí nghiệm đầu tiên nầy được kết quả
ngoài ý muốn của mọi người. Do đó mà giới trẻ cảm thấy rất hảnh
diện và tự hào; người lớn cũng cảm thấy an ủi khi được đón nhận
Tấm Lòng Hiếu Hạnh).
Có lẽ nét độc đáo đầy sáng tạo của thầy Nhất Hạnh là giải thích:
Ý niệm về mẹ và tình thương mẹ không phải là một “bổn phận”
mà là một “nhu cầu”...
Mở đầu đoản văn thầy viết:
-Ý niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình
thương. Mà tình thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố
nhiên là ngon lành. Con trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên
được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng không “lớn” lên được
(...) Mẹ là một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã
bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh
thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam họ thường ví von mẹ
là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân
quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:
Mẹ già như chuối ba hương. Như xôi nếp một, như đường mía
lau (...) Vì mẹ là nguồn gốc của tình thương, nên ý niệm mẹ
lấn trùm ý niệm thương yêu của Tôn giáo vốn cũng dạy về tình
thương. Đạo Phật có đức Quan Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ.
Em bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra
như một thiên thần dịu hiền làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa
có đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân
Việt có thánh mẫu Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ
cần nghe đến danh từ mẹ, ta đã thấy lòng đầy tràn ngập
yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín ngưỡng và hành động
thì không xa chi mấy bước (...) Thương mẹ không phải là một “bổn
phận” mà thương mẹ là một cái gì rất tự nhiên. Như khát thì uống
nước (...) Và tôi muốn nhắc anh: mẹ là chuối, là xôi, là đường,
là mật, là ngọt ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị
đừng quên. Để em đừng quên. Quên là một lỗi lớn: Cũng không phải
là lỗi nữa, mà là một sự thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị
thiệt thòi, vô tình mà thiệt thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi
xin cài vào túi áo anh một bông hoa hồng: để mẹ và anh sẽ sung
sướng, sẽ được sống trong ý thức tình thương bất diệt. Và ngày
mai mẹ mất, anh sẽ không hối hận, đau lòng, tiếc rằng anh không
có mẹ (...)
Đó là điệp khúc tôi muốn ca hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hảy
ca, chị hảy ca, em hảy ca cho cuộc đời đừng chìm trong vô tâm và
quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo anh rồi đó. Anh hảy
sung sướng đi.
(trích dẫn nhiều đoạn trong bài văn đã dẫn)
***
Tại hải ngoại, sau khi làn sóng người Việt tỵ nạn được ổn định,
thì chùa chiền cũng được xây dựng. Sự phát triển của Phật giáo
cùng khắp, có thể kể đến cấp tỉnh thành đều có chùa dựng lên.
Phật giáo sinh hoạt với những buổi lễ chính như lễ Phật đản, lễ
Vu lan tại những nơi có chùa. Những nơi chưa có chùa nhưng có
đông đảo Phật tử họ cũng thuê mướn phòng ốc, trang trí thành một
đạo tràng thanh tịnh và mời một vị thầy gần đó về chủ lễ. Và Gia
đình Phật tử Việt nam cũng vẫn tiếp tục duy trì và phát huy
những nghi lễ Phật giáo trong sinh hoạt, như Lễ Bông Hồng Cài Áo
trong những dịp lễ Vu Lan. Người Tây phương cũng có cảm nhận
rằng: Tấm lòng hiếu hạnh của dân gian mà được nâng lên thành một
nghi lễ của Tôn giáo là một “nét tinh hoa của tư tưởng”, cũng
như đây là một nghi lễ đầy sáng tạo đã đáp ứng cho tình cảm và
tín ngưỡng của dân gian Phật giáo.
***
Đối với người Phật tử, thì cần phải chu toàn hai trách nhiệm Đạo
và Đời (...) Theo tình tự dân gian thì tưởng niệm đến công ơn
sanh thành dưỡng dục, thường đi đôi giữa “Công Cha và Nghĩa
Mẹ”. Cũng như Tây phương có Ngày Mẹ (Mother´s Day) thì cũng có
Ngày Cha (Father´s Day). Tình tự nầy luôn đi theo nhau như hình
với bóng. Nhưng không biết lý do nào mà người đời từ Đông sang
Tây, từ Bắc chí Nam lại chỉ ca tụng “Nghĩa Mẹ” nhiều hơn “Công
Cha”. Đôi khi chúng ta có cảm tưởng người cha chỉ là một cái
bóng mờ trong tâm thức của người con. Và đó chính là sự thật,
một sự thật nhiều khi cũng cảm thấy phủ phàng,
nhưng đời là vậy biết làm sao hơn ? Tôi nhớ có lần trong một dịp
lễ Vu lan, ai cũng nhắc nhỡ đến mẹ mà tôi chạnh lòng thương nhớ
đến cha vô cùng ! Ước gì....
Để dung hòa và thể theo tình tự dân gian, nên người con cũng cố
gắng vẻ lại “Công Cha” bằng hình ảnh khốn khó của một nông dân.
Được sinh ra tại một miền quê nghèo miền Trung nơi mà người dân
sống một cuộc đời lam lũ. Nơi Quê hương nầy thường xảy ra cái
cảnh “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn, vì trời làm cơn lụt
mỗi năm!” Nhưng không phải vì vậy mà làm giảm đi giá trị tinh
thần của người cha ; mà ngược lại có thể tăng thêm rất đầy đủ
những nét trung thực nhất của những người cha đáng kính. Những
người cha ấy chỉ biết tận tụy cho gia đình mà không một cân nhắc
suy tính. Khi thấy con ngoan và chăm chỉ học hành thì cha lại
dấu nguồn hạnh phúc vào trong sâu thẳm của tình cảm riêng tư.
Đôi khi cũng lộ ra bằng đôi mắt rưng rưng từng giọt lệ mừng
vui...Thế nên cũng xin giới thiệu một vài nét về “Công Cha” để
bù đắp thêm cho “Nghĩa Mẹ”, trong tinh thần người con tưởng niệm
người cha qua bài thơ: Nhớ Bóng Cha Xưa.
Bóng cha xưa dưới bầu trời nắng sớm
như thiên thần đang dạo giữa cõi tiên
và quê hương rất đẹp cảnh thiên nhiên
có những cánh đồng thơm mùa lúa trổ
Quê hương tôi ở miền trung khốn khó
biết bao đời gắn bó với ruộng nương
Cha suốt đời chỉ có một tình thương
như mưa nước trên trời đang rơi xuống
Lêu nghêu gió sắp chiều trên bờ ruộng
bóng dáng cha in dấu tận khung trời
như bức tranh cổ tích đẹp tuyệt vời
từng ghi dấu trong con bao năm tháng
Bóng mặt trời vừa thức giấc buổi sáng
hòa bóng cha lồng lộng giữa thiên nhiên
đẹp biết bao một hình bóng thần tiên
như dấu ấn nơi con niềm ngưỡng vọng
Cha yêu mến cho con tràn sức sống
dù đời cha vất vã lắm truân chuyên
Cha mong con sẽ còn mãi ngoan hiền
như buổi mới nhìn con trên tay Mẹ
Ân dưỡng dục sanh thành đâu có nhẹ
như bóng cây cổ thụ trước đình làng
tàn sum suê tỏa rợp khắp hành lang
luôn che mát cho dân làng cơn nắng
Hoàng hôn xuống khi bầu trời yên ắng
chim bay về theo lối gió mênh mông
là mỗi khi cha xong việc ngoài đồng
cùng bửa cơm chiều gia đình đầm ấm
Nhưng giờ đây biết tìm đâu hình bóng
với tình Cha nghĩa nặng ấy không còn
nghe đau buồn giọt lệ thấm môi con
thấm vào ướt lòng con tình biển mặn !
Trần Đan Hà
Phụ Chú: Nhân dịp nầy cũng xin đề cập đến “một nghi án” trước
đây có nhiều người cho rằng tác giả bài thơ “Mất Mẹ” là của Thầy
Nhất Hạnh. Nhưng không phải, vì khi trích đăng trong đoản văn
“Bông Hồng Cài Áo”, thầy đã viết rất rõ ràng rằng: “Những bài
hát ca ngợi tình mẹ đâu cũng có, thời nào cũng có. “Bài thơ
mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản
dị”. Mẹ đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt
lo âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến”
:
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi...
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
Mất cả một bầu trời.
Bài thơ nầy, thầy Nhất Hạnh đã đọc “từ hồi nhỏ” (có thể
lúc đang làm chú Tiểu) ?. Chỉ vì thầy trích vào trong bài viết
của thầy, nhưng nhiều người “không đọc kỷ” nên vội vã cho rằng
tác giả bài thơ là Thầy (người lại bảo là không phải !). Rồi cứ
đồn đãi một cách thiếu căn cứ, để cho nghi án văn học càng ngày
càng thêm rối rắm !
Như trường hợp bà Nguyễn Thị Tuyết Long, Trung Tâm Trưởng Trung
Tâm Việt Ngữ miền Nam California-Hoa Kỳ khi
soạn bộ sách “Em Học Việt Ngữ” Chương trình Giáo khoa cho Học
sinh Hải ngoại, đã trích bài thơ Mất Mẹ vào tập 5 trang 21 phía
dưới đề tên tác giả là: Nhất Hạnh.
Hay cũng có người cho rằng tác giả bài thơ Mất Mẹ là của Nhà Thơ
Vũ Đình Liên thời tiền chiến. Vì “cái hồn thơ” nó rất giống bài
thơ Ông Đồ, cũng một bài thơ “tả cảnh hoài niệm”. Nhưng xem lại
thì rất khác nhau, một bên đối với người lớn hoài niệm “một hồn
thiên cổ”. Và một bên là diễn tả “cảnh đau buồn của một em bé
vừa mất mẹ”. Do đó cảm hứng thơ, khung cảnh thơ, tình cảm thơ nó
rất khác nhau. Vã lại khi viết cuốn “Thi Nhân Việt Nam” Hoài
Thanh và Hoài Chân không đề cập đến bài thơ Mất Mẹ có trong
“Tinh Hoa” của Vũ Đình Liên, mà chỉ giới thiệu những thể thơ
tiêu biểu của nhà thơ là thơ 8 chữ mà thôi.
Cũng có người cho rằng tác giả bài thơ Mất Mẹ là Nhà thơ Xuân
Tâm, cũng vào thời tiền chiến. Vì Xuân Tâm có xuất bản một tập
thơ có tựa đề là “Lời Chim Non” in vào năm 1941. Nhưng vẫn theo
Hoài Thanh và Hoài Chân, thì sở trường của Thâm Tâm cũng với thể
thơ 8 chữ. Như những bài thơ: “Xa Lạ, Nghỉ Hè”...(có trích học
trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư ở trong nước, vào thời Đệ Nhất Cộng
Hòa).
Thế nên, tác giả bài thơ Mất Mẹ vẫn còn nằm trong vòng “nghi
vấn” ! Mong rằng các bậc thức giả bốn phương, ai biết được
xuất xứ và tác giả của bài thơ nêu trên, xin phổ biến trên các
diễn đàn văn học, để không còn là nghi vấn nữa ! Mong lắm
thay.
(Trong lịch sử Văn học Việt Nam cũng có trường hợp nhiều tác
phẩm không ghi tác giả, lâu ngày rồi trở thành tác giả là “vô
danh” ! Như ca dao và tục ngữ là văn học dân gian, được truyền
miệng từ muôn đời cho đến bây giờ.
Nhưng những tác phẩm nào mà không biết đích xác ai là tác giả,
chỉ “phỏng đoán” mà thôi, thì cũng nên điều chỉnh lại cho đúng.
Điều nầy nghĩ rằng không phải là việc làm vô ích vậy” !). |