Khách ghé quán
trọ, nghỉ một đêm hay lưu tạm dăm ba bữa, rồi khách cũng đi. Người
chủ quán không di chuyển, vẫn ở đó, nhận diện rõ ràng từng người
khách đến và đi. Người chủ quán rất bình an, thanh thản như thế,
trước khi khách đến cũng như sau khi khách đi. Người khách này ra
đi, có thể, người khách khác lại ghé, rồi cũng lại đi. Chủ quán
chẳng vì người trước hay kẻ sau mà di chuyển.
Hạnh phúc hay đau khổ,
giầu nghèo hay sang hèn đều là khách trần, đến rồi đi.
Bản Tâm ta là chủ quán,
trụ trong an tịnh, không đến cũng không đi.
Khách trần đến rồi đi là
sinh diệt.
Bản Tâm không xao động,
không di chuyển là thường hằng.
Tự thể của tâm là Không
Tánh. Đó là tự tánh Bát Nhã, không trong không ngoài, không nhơ
không sạch, không thêm không bớt ... Chỉ có giòng tương tục của tâm,
khi xúc cảnh, khởi phân biệt mà bị nhận diện là có nhiễm ô phiền não
hay không mà thôi. Khi tâm đạt được thể Không Tánh, tức là trụ được
trong bản chất đích thực thì phiền não thế gian sẽ chỉ như những
khách trần, như những hạt bụi luôn xô đẩy nhau, lao xao biến hoại
trong hư không mà chẳng hề khiến hư không giao động.
Lý thì như thế
nhưng thực tế không hẳn hoàn toàn là thế. Khi học đạo, chúng ta
thường được quý minh sư nhắc nhở phải giữ ý buông lời, nắm lấy chủ ý
để khi thực hành, khi va chạm, biết tùy cảnh huống mà quán xét, chớ
như ngài Huệ Khả, vì chấp văn tự mà uổng phí bao năm đi tìm sự an
tâm cho đến ngày gặp Tổ Đạt Ma mới chứng ngộ.
Cũng thế, chẳng
phải trước mọi cảnh huống tâm đều biểu lộ tự tại mới là tâm trụ nơi
Không Tánh. Trong Đại Trí Độ nói rằng Bồ Tát Thường Đề thực hành Đại
Bi Tâm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật rất thuần nhuyễn, uyên áo, nhưng
nhìn thấy chúng sanh quá trầm thống trong biển khổ nên đôi mắt ngài
lúc nào cũng đẫm lệ. Lệ này chắc chắn không phải lệ bi thương ủy mỵ
nên lệ này chẳng thể làm xao động tâm an trụ. Lệ này khởi từ lòng bi
mẫn chỉ khiến Bồ Tát xả thân nhiều hơn.
Với tâm thế nhân
thì ý niệm yêu thương thường hạn hẹp, vị kỷ. Khi yêu thương ai, ta
phải được đáp lại, được gần gũi mới là hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng
tình yêu của Đức Thế Tôn thì khác. Thế Tôn yêu thương mọi người mọi
loài bình đẳng nên suốt bốn mươi chín năm trên đường hoằng hóa, Thế
Tôn đã độ cho bất cứ ai mà ngài có thể độ, từ em bé chăn trâu, người
gánh phân, tên sát nhân cho tới hàng vua chúa, vương tôn công tử.
Bước chân Thế Tôn tới đâu là quà tặng an lạc được trao tới đó. Kẻ
nhận quà, nếu biết thụ hưởng thì dù Thế Tôn còn đó hay đi xa, quà
tặng đã trở thành gia tài của người nhận.
Điều này thể hiện rất rõ
trước phút Thế Tôn nhập Niết Bàn. Giữa rừng cây sa-la đầy hoa trắng,
Thế Tôn đã ân cần nói với các đệ tử thân yêu quanh ngài rằng “Sau
khi ta diệt độ thì Pháp và Luật mà ta để lại chính là ta, là đạo sư
của các con. Tuân hành và tu tập theo Pháp và Luật đó chính là các
con vẫn luôn ở gần ta, là ta không từng rời xa các con”.
Nghe những lời
dặn dò đó, tôn giả Anan cũng phải nín bặt khi đang úp mặt vào thân
cây, nức nở khóc. Nhưng sự nín bặt đó cũng chỉ là hình thức ngưng lệ
chảy mà thôi chứ đâu thể ngưng được lòng buồn khổ. Chẳng phải riêng
ngài Anan mà hầu hết những đại đệ tử của Phật đều không thể dễ dàng
chấp nhận sự bình thản khi Thế Tôn ra đi, dù trên lý, các ngài đều
đã hiểu rất rõ lời Thế Tôn căn dặn.
Lòng hoài vọng nhớ thương
Tôn-sư đã lồng vào Pháp và Luật, nên suốt thời gian dài sau đó,
Tăng đoàn tuy vẫn học, vẫn tu mà vẫn âm thầm buồn bã, vì sự thiếu
vắng hình bóng vị Thầy tột cùng tôn quý, là khoảng trống chẳng một
ai có thể thay thế được.
Những đại đệ tử, những
tỳ-kheo được thân cận và học hỏi trực tiếp từ Đức Phật mà còn khó
ngăn cảm xúc như thế, huống chi chúng ta, hàng hậu duệ vô minh cách
xa Phật gần hai ngàn sáu trăm năm, tất nhiên còn yếu đuối tới đâu !
Điều quan trọng là khi ta biết ta yếu thì hãy nhắm mắt, thở thật
sâu, niệm hồng danh Đức Thế Tôn, xin Từ Phụ truyền năng lượng để ta
trở về được chánh niệm. Đừng nản lòng vì những lời trách cứ thiếu từ
bi của thế nhân như “Phật dạy mọi sự vô thường, sao lại bi lụy ở
những cái vô thường vậy ?” hoặc những câu hỏi thiếu thiện chí tìm
cầu mà chỉ nặng phần gay gắt như “ Quý vị được dạy là bản-
thể-Như-Lai vốn thanh tịnh, sao còn phải tu để được thanh tịnh ?”
Chúng ta phải tập quen
với tâm thế gian này, để nhẹ nhàng phân giải rằng, bản-thể-Như-Lai
quả là vốn thanh tịnh nhưng vì bị vô minh che lấp, duyên theo huân
tập vô minh mà sanh ra hiện tượng khổ đau phiền não.
Đó là trạng thái bản thể
duyên ra hiện tượng.
Chúng sanh luôn ở trong
trạng thái này nên chúng sanh cần phải nỗ lực tu, vận dụng Tăng,
Thượng, Huệ để đối trị tà kiến, ái dục, ngã mạn mà trở về bản thể
trong sáng của mình. Thành Phật là chuyển hóa trí tuệ, đạt tới vô
thượng Bồ-Đề và giữ được tâm này thường hằng, không hề đứt đoạn.
Có lẽ Đức Phật là vị giáo
chủ duy nhất không nhận mình là giáo chủ, là thánh, là thần, là cao
tột, khác biệt với mọi người. Ngài chỉ nhận là mình đã thấy được lẽ
vô thường, đã nhận ra bản chất đích thực cao quý trong mỗi tấm thân
tứ đại vô thường, đã tìm ra cai ngục tên là Vô Minh, hằng nhốt chúng
sanh trong luân hồi tăm tối. Ngài chỉ là người thấy trước nên ân cần
chỉ dạy lại cho những ai muốn thoát khỏi quỹ đạo khổ đau này. Những
ai TIN lời ngài, NGUYỆN theo đường ngài đi, PHỤNG sự tuân thủ những
pháp môn ngài chỉ và HÀNH trì nghiêm chỉnh những gì học hỏi được thì
người đó cũng bình đẳng với ngài. Ngài là Phật thì người đó cũng là
Phật.
Lời ngài nói trung thực
và đơn giản thế thôi.
Gần hai ngàn sáu trăm
năm, Đức Phật đã là ông chủ quán nhìn tường tận nhất, những khách
trần đến rồi đi, sinh rồi hoại. Ông chủ quán chưa hề rời quán vì ông
thường hằng hiển hiện sáng ngời qua Pháp và Luật ông để lại.
Lành thay, những khách
trần sớm biết mình là bụi để kịp dừng lại lao xao mà tĩnh lặng với
hư không trong vô sanh bất diệt.
Đó chính là những chúng
sanh đã giác ngộ nên chuyển hóa được thân phận Khách Trần của mình
để trở thành Chủ Quán.
Tôi không nhớ
mấy câu thơ không đầu không cuối này từ đâu, do vị nào viết, nhưng
chính cái chất liệu lơ lửng này lại khiến ý thơ tràn đầy bát ngát.
Xin tác giả cho phép ghi lại đây, thay búp tay sen để được dừng bút:
“Tâm
sầu lắm ư ?
Thôi đi nhị kiến,
Chẳng còn ba, tư
Trên con đường thật
Người về với NHƯ”