Buổi ra mắt sách “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ Và Phương Trời
Mộng” của tác giả Thích Nguyên Siêu tại San Diego là dịp đồng bào
hiện diện được nghe nhắc về Thiền-sư Thích Tuệ Sỹ.
Nhắc về Thầy Tuệ Sỹ không phải chỉ là nhắc về chú điệu
Nguyên- Chứng cực kỳ thông minh và hiếu học của gần sáu thập niên
trước, không phải chỉ là nhắc về vị giảng sư rất trẻ trên bục giảng
các Đại học Phật đường, không phải chỉ là nhắc về một trí tuệ uyên
bác làu thông Kinh, Luật, Luận, tư tưởng triết học đông tây, kim cổ,
không phải chỉ là nhắc về nhà sư vóc hạc, chân trần, mắt ngời sáng
long lanh nhìn thẳng vào sức mạnh bạo quyền không một chút nao núng…
Có lẽ
không ai, và không thể, khi nhắc về Thầy Tuệ Sỹ mà tự thể cá nhân
người đó có thể phác họa được Chân- Dung-Tuệ-Sỹ một cách tạm đầy đủ.
Mỗi người chỉ có thể, bằng cảm nghĩ riêng mình, đứng ở vị thế, môi
trường mình mà nhìn Thầy Tuệ Sỹ theo góc cạnh nào đó.
Vì Thầy Tuệ Sỹ không chỉ là một ông thầy tu, pháp danh
Tuệ Sỹ.
Trải qua khúc quanh cực kỳ nghiệt ngã của lịch sử, thầy
Tuệ Sỹ đã đồng nghĩa với Lịch Sử, đồng nghĩa với Quê Hương, đồng
nghĩa với Dân Tộc. Bước đường Thầy đã, và đang đi không chỉ thể hiện
tinh thần Bi Trí Dũng của Đạo Phật mà còn thể hiện Không Khí để con
người được thở, Tự Do để con người được sống, Cơm Áo để con người
được ấm no. Hình ảnh Thầy cũng đã gắn liền với xương sống Quê Hương
là Trường Sơn, mà trên đỉnh núi tuyết đó, vạt áo nhật bình mong manh
lồng lộng gió không thể lay động hình hài gầy guộc của tấm lòng Bồ
Tát đang đi vào Sinh Tử, đòi hỏi Quyền Làm Người cho người dân Việt
Nam.
Thầy
Tuệ Sỹ như thế, mà tôi đang ngồi đây, trong am thất nhỏ bé của mình
để mạo muội viết đôi nét về Thầy!
Làm
sao tôi hiểu biết đủ, để viết về Thầy?
Tất
nhiên, tôi cũng chỉ chia xẻ những xúc cảm mà từ một góc độ nào đó,
qua hình ảnh Thầy, đã cho tôi niềm xúc cảm. Một góc độ hết sức giới
hạn mà thôi.
Trong
hội trường buổi ra mắt sách “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời
Mộng” ngoài những trang trí thông thường, còn có một màn ảnh lớn,
chiếu hình ảnh sinh hoạt thường nhật của Thầy Tuệ Sỹ ở quê nhà. Đồng
bào hiện diện đều rất xúc động khi được nhìn thấy vóc dáng gầy guộc
của Thầy quanh quẩn ra vào thư phòng, trầm ngâm bên kệ sách, chăm
sóc dăm nhánh hoa hay nghiêm túc trước tăng sinh. Những hình ảnh đó
rào rạt trong tôi thành bước nhảy của con chim Hồng.
“Không chịu tiệm tiến từng bước vững chắc, mà như những đợt nhảy của
con chim Hồng: nhảy bên bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất
cạn, nhảy trên cành cây, nhảy lên gò cao và cuối cùng, bay trong
thương khung để lông cánh làm đẹp cho bầu trời.”
Có thể
không mấy người biết con chim Hồng như thế nào, nhưng đọc đoạn ngắn
trên đây, trích từ luận đề “Tánh không luận là gì?” của Thầy Tuệ Sỹ,
hẳn tấm lòng người đọc như có sự nhiệm mầu đang nhẹ nhàng vén tấm
màn vô minh mờ ảo, mở ra, mở rộng ra, để cảm nhận bao la từ ái của
những cánh bướm làm đẹp cho hoa, của những tiếng ve làm rộn rã nhạc
hè, của những con đò đưa người qua sông, của những cơn mưa làm lúa
trổ bông, của những cho đi mà không chờ nhận lại …
Nói về
những tột cùng sâu thẳm tâm linh, về sự sống còn, thành hoại hoặc
ngay cả về bước ngoặc bi thảm của lịch sử, mà bằng Tâm Từ của Thầy,
chúng ta cũng chỉ bắt gặp những từ ngữ đơn sơ, đôi khi lại là những
hình ảnh thi ca cực kỳ diễm lệ như:
“Sự tựu thành của một cơn mưa như thác lũ khi con bướm mùa hè đã
chịu khép lại những đôi cánh mỏng để lắng nghe trong thầm lặng, hơi
thở của cỏ nội. Chờ đợi kiên trì và dừng lại trong sự bế tắc của một
thời chỉ còn ánh sáng vĩnh cửu của mặt trời. Kiên trì và dừng lại
trong sự bế tắc là liều lĩnh ký thác mình cho một cuộc chơi ngoạn
mục của thiên nhiên, là liều lĩnh đứng lại giữa dòng thác đổ của vạn
hữu.”
Đó là
tư tưởng Triết Lý Tánh Không được nói bằng ngôn ngữ của Thầy Tuệ Sỹ.
Thầy nói về Tánh Không nhưng có phải chỉ là Tánh Không đâu! Khi
“Kiên trì dừng lại để chờ đợi trong sự bế tắc là liều lĩnh đứng lại
giữa dòng thác đổ của vạn hữu”, thầy Tuệ Sỹ đã dừng lại giữa dòng
thác đổ ấy, khi phát nguyện ở lại cùng Quê Hương, cùng Dân Tộc, khi
lịch sử quằn quại trong triền thác vô minh. Bồ Tát đã mang Nguyện
Lực mà đi vào Nghiệp Lực của chúng sinh, thể hiện những bước nhảy
hào sảng của chim Hồng “Nhảy bên bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy
trên đất cạn, nhảy trên cành cây, nhảy lên gò cao và cuối cùng, bay
trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho bầu trời”
Khi
đọc những bài viết về Triết Học Tánh Không của Thầy Tuệ Sỹ, Thích
Phước An đã từng than: “Đọc Triết Học Tánh Không chẳng hiểu gì cả!”
thì Thầy Tuệ Sỹ cười, và nói đùa lại rằng: “Tôi là tác giả của nó mà
đọc lại còn chưa hiểu, huống gì là ông!”.
Tất
nhiên, đây chỉ là một cách nói thân mật trong tình huynh đệ giữa hai
nhà sư, nhưng chính câu đối thoại thân thương này lại vô tình hiển
lộ nét đa dạng hài hòa kỳ diệu nơi Thầy Tuệ Sỹ.
Triết
Học Tánh Không, tự nó, đã tiềm ẩn những dị, đồng, cực kỳ vi tế khi
ngài Long Thọ, nhà hiền triết lỗi lạc của Ấn Độ từ mười tám thế kỷ
qua, đã coi phương tiện và cứu cánh là một.
Bước
vào thế giới của triết học khô khan và rối bời “Chính mâu
thuẫn đã phối trí thành một trật tự mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu
thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được thừa nhận là mâu thuẫn thực sự khi
người ta có thể tìm được mạch lạc của nó trong một trật tự nào đó.
Bởi vì, nếu không có sự mạch lạc giữa những mâu thuẫn và không mâu
thuẫn, làm thế nào ta nhận biết đó là mâu thuẫn?” (*),
thầy vẫn có thể dẫn chúng ta tìm đến khu rừng già bí hiểm bằng những
lối đi quang đãng, tươi mát hơn “Khi con bướm mùa hè dừng lại
trên đóa hoa, khép lại đôi cánh và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội
hoa ngàn”.
Con
bướm mùa hè hay bước nhảy của chim Hồng mà Thầy dẫn chứng như triết
lý của “những đời sống trong băng lạnh và trong núi cao” mà triết
gia Nietzsche đã từng nói. Những đời sống đã vượt khỏi sự chi phối
của định luật vô thường thì dù đời thường đón nhận thế nào, tự thân
những đời sống đó chỉ là Tự Tại, là Thong Dong, là Cô Liêu, là Lững
Thững:
“Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa!”
Nếu đi tìm “Sự mâu thuẫn trong mạch lạc” thì khô khan và
rắc rối biết bao, trong khi, bằng thi ca thơ mộng, hãy thử nhìn
triết-gia-Tuệ-Sỹ qua hình ảnh nhà-thơ-Tuệ-Sỹ thì “sự mâu thuẫn trong
mạch lạc” này sẽ mạch lạc vô cùng! Sao kể chuyện cũ xa xưa mà người
phải “đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng?” Phải chăng, đây là
“Khi nói về cái Có thì nói trong sự bao dung của cái Không; Khi nói
về cái Không thì nói trong sự bao dung của cái Có” (*)
nên lòng sông này chẳng phải lòng sông nước chảy mà là lòng sông
lịch sử. Ở lòng sông lịch sử này, người mới kể chuyện ngày- xưa-
Giác- Ngộ cho ngày- nay- vô- minh được nghe. Và con bướm nhỏ, với
đôi cánh mỏng vẫn thầm lặng, thanh thản đi, về nên chiếc lá, tưởng
là bâng khuâng chốn về nhưng thật ra, lá đã biết đường về từ lúc
chưa rơi.
Tôi
bỗng nhìn ra Triết Học Tánh Không khó nhai khó nuốt, bàng bạc ngay ở
những áng thơ mượt mà này. Cứ chủ quan cho như thế để phấn khởi,
tiếp tục men theo nhà-thơ-Tuệ-Sỹ mà tìm triết-gia-Tuệ-Sỹ:
“Anh ôm chồng sách cũ
Trầm mặc những đêm dài
Xót xa đời lữ khách
Mệnh yểu thế mà hay!” (+)
A!
Trong bốn câu thơ năm chữ này có đủ cả vui, buồn, thân phận, tử,
sinh, nhưng chấm dứt với hai chữ “mà hay” đã biến dạng toàn bộ những
chi phối của định luật vô thường. “Mà hay”, như cánh hạc vút lên
cao, ra khỏi tầng mây xám để không cơn mưa nào làm ướt được đôi
cánh, như Thiền-sư Thõng Tay Vào Chợ trong Thập Mục Ngưu đồ
“Lưng trần, chân đất, chợ người. Cát lầm bụi vẩn, ta cười say sưa.
Thần tiên bí quyết cũng thừa. Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng”
(+) cho nên, dù những gì Thầy đang nói, có vẻ như có sự hiện
hữu của bản ngã, có tôi trầm mặc, xót xa, mệnh yểu nhưng tất cả
những cái Có đó lại lồng vào cái Không: “Mà hay!” nên cái Không đã
phủ trùm lên cái Có khiến các triết gia luận về Tánh Không phải nhận
rằng: “Khi truy nhận về một tập hợp sắc, mà tập hợp ấy lại
không có các phần tử cực vi hội tụ lại, thì tập hợp ấy há không phải
là một tập hợp trống không? Và như vậy, cái Không vẫn có thể hiện
diện như là đối tượng của nhận thức” (*)
Trong những kỷ niệm Thầy Nguyên Siêu ghi lại về những
ngày đầu của lớp học chuyên khoa dưới mái Phật Học Viện Hải Đức, Nha
Trang, cả Viện đã háo hức, xôn xao chờ đợi khi được tin Thầy Tuệ Sỹ
sẽ từ Sài Gòn ra đảm nhận lớp học.
Thầy
Nguyên Siêu chia xẻ: “Lần đầu tiên nghe Thầy giảng sao mà khó hiểu
quá! Có lẽ chưa quen hay trình độ mình quá kém chăng? Có lẽ cả hai!”
Tăng
sinh ngỡ ngàng trước những danh từ Triết học mới lạ khi Thầy thao
thao bất tuyệt giảng Triết học Tây phương qua tư tưởng của các triết
gia Henry Miller, Jean Paul Sartre, Platon …; rồi lại sửng sốt
ngưỡng phục khi Thầy hào sảng đọc những bài Đường thi của các danh
nhân Lý Bạch, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Tô Đông Pha … khi giảng về triết học
Đông phương; và tận dụng sự chú tâm khi Thầy dạy Tam Tạng giáo điển,
Kinh, Luật, Luận …
Sự ngỡ
ngàng của Tăng sinh khi mới tiếp nhận cách chỉ dạy của Thầy chỉ là
giai đoạn đầu, vì với tấm lòng thiết tha trao truyền kiến thức cho
hàng hậu duệ, Thầy Tuệ Sỹ tất tìm ra phương thức thích hợp nhất để
học trò lãnh hội được bài học. Cũng trong lời tâm tình, Thầy Nguyên
Siêu lại chia xẻ: “Suốt bốn năm Trung đẳng, từ 1970-1974, ngày hai
buổi đều đặn cắp sách đến lớp học, Thầy trò chẳng rời nhau. Thời
gian bốn năm tuy không dài nhưng anh em đã học được rất nhiều nơi
Thầy, từ sự tu tập bản thân đến kiến thức trên nhiều lãnh vực.”
Tất cả
tài năng, trí tuệ, cùng tâm lượng Từ Bi vô lượng, Thầy Tuệ Sỹ đã
cung hiến trọn vẹn cho Đạo và Đời, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi,
không từ nan, như cánh chim Hồng lồng lộng, miệt mài bước nhảy hằn
dấu chân in vạn nẻo, cuối cùng, bay trong thương khung để lông cánh
làm đẹp cho bầu trời.
Trí
tuệ tuyệt luân đã đạt tới tận cùng cái Không: “Không có trí,
không có đắc, không có chứng. Bởi vì Vô Đắc”.
NAM
MÔ BÁT NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT.
-------------------
(*)
Tánh Không Luận- Thích Tuệ Sỹ
(+) Thơ Thích Tuệ Sỹ