Thiền trà cùng
trăng.
Chiều nay, những nụ quỳnh
óng mượt đã uốn cong, báo hiệu khi mặt trời khuất dạng, hoa sẽ cùng
với bóng chiều chậm rãi nắm tay nhau đi dần vào màn đêm. Mỗi bước đi
là mỗi hé nở. Mỗi hơi thở là mỗi ngạt ngào hương sắc.
Nhẹ nhàng.
Tĩnh lặng.
Quỳnh chỉ đến với trăng
và thinh không bóng tối.
Quỳnh rất đẹp!
Rất thơm! Tiếc là đời hoa quá ngắn, chỉ qua một đêm thôi. Tôi đã
từng tham lam, khởi nghĩ “Phải chi quỳnh còn tới ban ngày!”. Nhưng
sau đôi lần cùng quỳnh ngồi thiền dưới trăng khuya tôi mới biết rằng
nếu quỳnh nở cả ban ngày thì không còn là quỳnh nữa!
Tối nay tôi sẽ
đón quỳnh và trăng bằng trà quý. Tôi có hộp trà này là do tâm thành,
cắt những bông sen đầu mùa mang tới chùa cúng Phật. Thầy trụ trì cảm
kích bèn mở tủ, tặng lại hộp trà. Để dành mãi, chưa thấy bạn hiền
nào ghé chơi nên hôm nay tôi sẽ đãi trăng và 39 đóa quỳnh hương.
Vâng, tôi đếm cẩn thận lắm, 39 đóa quỳnh sẽ ghé thăm vườn tôi đêm
nay.
Bóng tối đã bao
phủ khu vườn nhưng trăng cũng long lanh ánh bạc trên vòm cây, nhánh
lá. Tôi rót trà mời trăng khi quỳnh đang nhẹ nhàng hé cánh bạch
ngọc. Những cánh trắng mong manh lụa nõn, thở từng làn hương thoảng,
mở nhẹ từng búp, lộ dần nhụy hoa dáng thon dài như chiếc thuyền độc
bản lững lờ trên giòng sông êm. Cứ thế, mỗi phút thầm lặng trôi qua,
mỗi cánh hoa lay động nở dần.
Tôi đã từng ngồi
lặng hàng giờ, theo dõi bước thiền hành của hoa, từ lúc hé cánh tới
khi mãn khai, hoan hỷ chiêm ngưỡng những đóa quỳnh hương, xiêm y
trắng muốt, ca múa dưới trăng. Tôi đã được thấy nhiều lần, và không
lần nào không rung cảm khi NHÌN được sự chuyển động mầu nhiệm của sự
sống; sự chuyển động chuyên chở sức mạnh thầm lặng vô song trong
tương quan vạn hữu.
Đêm về khuya,
trăng như sáng hơn. Trăng lồng bóng hoa, quyện vào nhau, tới lúc
không biết trăng là quỳnh hay quỳnh là trăng nữa. Lạ thay, tôi bỗng
mở khóa chân kiết già khi nghe thấy âm-ba những câu thơ từ đâu dội
tới:
“Trăng
Huyền-Không mở hội
Hương lan
ngát bên đồi
Mây ngàn phương
về hội
Giờ tao ngộ đến
rồi”
Giòng thơ cứ lập
đi lập lại, chỉ bốn câu như thế thôi. Thơ đã chuyển thành nhạc, réo
rắt, mênh mang. Nhưng điều đó có gì liên hệ đến lúc tôi đang ngồi
thiền dưới trăng trong đêm quỳnh nở này? Và sao chỉ có bốn câu vần
vũ mà thôi?
Đổi lại thế ngồi
bán già, tôi nhắm mắt, thở một hơi thật nhẹ, thật dài. Và bây giờ
tôi chỉ còn nghe thấy một câu:
“Giờ tao ngộ đến
rồi”
Vâng, trăng ơi,
tôi đã biết. Giờ tao ngộ của Thầy với Đất Phật đã đến. Ngài đã đi.
Thầy Huyền-Không Mãn-Giác đã đi.
Mà nào phải Thầy
đi!? Không, trăng ơi, Thầy đã về mới đúng chứ! Thầy vừa trở về căn
nhà Phật, nơi từ đó, Thầy đã khai sinh. Vậy thì, đi, hay về, với
Thầy, chắc một nghĩa như nhau thôi.
Có lẽ bài thơ này làm đã lâu rồi, nhưng sao lời thơ như
tiên tri vậy? Trăng muốn được nghe trọn bài ư? Mời trăng, mời quỳnh,
hãy nhấp ngụm trà thơm rồi tôi đọc nhé:
“Bên bờ suối vô-vi
Trăng lên, chờ ta đó
Ngàn xưa, tự ngàn xưa
Trăng vẫn chưa hề lặn
Ta đi vào viễn xứ
Trăng đưa lối ta về
Trùng dương muôn bến mộng
Nên ta vẫn còn mê
Trăng Huyền-Không mở hội
Hương lan ngát bên đồi
Mây ngàn phương về hội
Giờ tao ngộ đến rồi
Quê-hương vẫn là đây
Trăng vẫn mảnh trăng này
Ngàn sau, ngàn sau nữa
Lồng lộng giữa trời mây”
*
Cám ơn trăng đã xúc động,
nhắc khẽ lại câu “Giờ tao ngộ đến rồi”. Quả đúng thế. Giờ tao
ngộ của Thầy không chỉ với đất Phật mà còn với bạn tri kỷ.
Qua sách vở, họa hoằn lắm
tôi mới bắt gặp thấp thoáng đôi câu hai Thầy bộc lộ về tình huynh đệ
đồng môn, mà với tâm hồn cùng ẩn chứa chất liệu phóng khoáng của thi
nhân, hai Thầy đã thân thiết nhau từ thời làm điệu ở chùa Bảo Quốc.
Đã có người liên tưởng sự đồng tâm của hai Thầy như tình huynh đệ
thắm thiết giữa hai ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khi xưa.
Thương thay, những chướng duyên nhân thế đã khiến không gian, thời
gian thành nghìn trùng xa cách. Thầy Huyền-Không Mãn-Giác từng ngậm
ngùi nói về bạn mình: “Thầy Nhất Hạnh là người có cái thấy vượt xa
người cùng thời, có khi trước cả vài ba mươi năm. Cũng vì cái thấy
đó mà từ ngày còn trẻ đến bây giờ, Thầy là nạn nhân tội nghiệp của
những đối xử bất công từ những thành lũy bảo thủ cố chấp, thế mà tấm
lòng với Đạo của Thầy vẫn muôn năm vằng vặc”
Thầy Nhất Hạnh
có thấy trước, ngày Thầy Huyền-Không Mãn-Giác ra đi không? Trăng ơi,
riêng tôi, tôi tin là có. Từ nhiều thập niên qua, hai vị Thầy vẫn
chạnh nhớ về nhau mà không thường gặp được nhau vì đều quá đa đoan
Phật sự. Nay, sự mầu nhiệm nào đã khiến Thầy Nhất Hạnh cùng tăng
thân Làng Mai đến tận chùa Việt Nam thăm Thầy Huyền-Không Mãn Giác,
trước chỉ một tháng, ngày Thầy Mãn Giác về cõi Phật? Làm sao đây có
thể là sự tình cờ, khi hai vị đã từng cảm ứng nhau qua không gian vô
tận và thời gian vô biên.
Trăng chưa nhìn
thấy hình ảnh cảm động đó phải không? Thầy Nhất Hạnh đến chùa Việt
Nam khi tiền đình vừa nhuộm vàng nắng sớm. Tăng thân Làng Mai đều
quỳ xuống khi Thầy Huyền Không Mãn Giác bước ra. Hai vị Thầy im lặng
nhìn nhau, giòng lệ nóng lặng lẽ rơi trên đôi má Thầy Huyền Không
Mãn Giác. Thầy Nhất Hạnh nắm lấy bàn tay run rẩy vì xúc động của
bạn. Dù phong thái Thầy Nhất Hạnh an nhiên trong chánh niệm, nhưng
đôi tay Thầy hẳn cũng bồi hồi, xao xuyến. Rồi hai Thầy ngồi xuống
bên nhau.
Vẫn im lặng.
Mà ngàn lời đang nói.
Có lẽ đây là giây phút
Minh Tịnh, chạm tới cái Tột của Không để vô- đoạn, vô-thường hiển lộ
Chân Thường; vô-ngã, vô-phi-ngã hiển lộ Chân Ngã.
Trăng ơi, khi
Thầy Nhất Hạnh truyền tăng thân Làng Mai hát bài “Niệm Bồ Tát Quan
Thế Âm”, cúng dường Thầy Huyền Không Mãn Giác thì hầu như các vị
hiện diện, không ai cầm được nước mắt! Không phải đây là nước mắt bi
lụy đâu trăng ạ. Nước mắt rơi khi tiếng niệm Bồ Tát Quan Thế Âm trầm
bổng ngân lên là nước mắt “Từ nhãn thị chúng sanh”, nước mắt
của tình thương bao la từng nhỏ xuống vì thương xót hết thảy chúng
sanh. Hai vị Thầy đã nhân lần gặp cuối, ngồi bên nhau, nắm tay nhau,
truyền năng lượng Bồ Đề Tâm, cùng hướng về Đấng cứu khổ cứu nạn.
Trăng ơi, chẳng phải là chúng sanh đang chìm ngập trong biển khổ vô
cùng vô tận hay sao? Trăng hãy nhìn quanh xem, từ Đông sang Tây, từ
Âu tới Á, những khắc nghiệt, những đọa đầy, những oan khiên, những
tàn khốc đang nghiền nát nhân loại. Nên phút giây đó, dưới mái chùa
Việt Nam, âm thanh niệm Hồng Danh Quan Thế Âm ngân lên, lúc khoan,
lúc nhặt, lúc trầm, lúc bổng, qua hình ảnh đôi bạn Xá Lợi Phất - Mục
Kiền Liên cùng tận dụng chuyển vận năng lượng cầu nguyện cho nhân
loại, đã là những gì mà ngôn từ thế gian không thể diễn đạt nổi.
Có chăng, chỉ là
sự hùng tráng bất biến của:
“Ngàn xưa, tự
ngàn xưa
Trăng vẫn chưa
hề lặn”.
-----------------------
* Thơ Thiền sư Viên Minh.
Như-Thị-Am,
tháng
10.2006 |
|
|