Cuốn
lịch xé từng tờ mỗi ngày, cứ mỏng dần, mỏng dần, đến hôm nay thì chỉ
còn dăm cánh bướm (mỏng như cánh bướm); bướm chỉ vỗ nhẹ đôi cánh
thăm mấy nhụy hoa là đã … hết năm 2006 ! Khi người Tây phương tưng
bừng đón năm mới thì người Đông phương cũng rộn ràng không kém, vì
Tết âm lịch theo ngay sau dương lịch không xa.
Trời
đất lặng thinh nhưng vận hành vạn hữu đâu ra đó. Mùa Xuân cây lá
xanh tươi, đâm chồi nảy lộc, hoa nở, chim ca, muôn loài như tràn đầy
niềm tin và sức sống nên sự sung mãn của mùa Xuân còn lan tới mùa Hè
nắng ấm mây xanh, phượng đỏ rực trời khiến đàn ve ca hát không thôi
! Có lẽ vì say sưa tiêu thụ năng lực quá nhiều ở hai mùa Xuân, Hạ,
nên Thu sang, vạn hữu thấm mệt, lá chớm vàng rồi lả tả rơi theo từng
ngọn gió heo may. Ấy thế mà sự êm ả này lại là chất liệu thơ mộng
cho bao thi nhân sáng tác. Chỉ cần một giọt mưa thu cũng đủ để lại
cho đời những giòng cung bực bất hủ:
“
Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi. Trời lắng u buồn mây hắt hiu
ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ hồ. Trong mưa thu ai khóc ai than
hờ…”*
Niềm
u hoài của mùa Thu cũng man mác sang Đông khi muôn loài như ngủ yên
trong giá rét nhưng nghệ sỹ thì không thể để rung động của mình ngủ
yên nên chúng ta đã từng nghe réo rắt:
“Đêm
đông, ôi ta nhớ nhung đường về xa xăm. Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia
đình yêu thương. Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha hương. Có
ai, thấu tình cô lữ đêm đông không nhà …” +
Cuối
năm cũ, nhìn về năm mới, đáng lẽ chỉ nên nói tới mùa Xuân nhưng mùa
Xuân là gì, mùa Xuân ở đâu, nếu không có Hạ, Thu, Đông? Hoa mai, hoa
đào là gì, nếu không có hoa cúc mùa thu, hoa phượng mùa hạ?
Vạn
hữu luôn tương quan trong lặng thinh mầu nhiệm. Tôi biết thế. Nhưng
lòng tôi đang không trôi êm ả theo vận hành vũ trụ. Mùa Xuân đang
ở quanh tôi nhưng
tôi không nghĩ đến hoa đào, hoa mai. Trong lòng tôi đang chỉ có hình
ảnh một loài hoa. Loài hoa này không đặc biệt tiêu biểu cho một mùa
nào, cũng không đặc thù tới mức được nhắc đến một cách đặc biệt,
ngoài hương thơm. Loài hoa này, chúng tôi cũng có một cây, ngoài
vườn sau.
Cây
ngọc-lan về với chúng tôi đã hơn mười năm nhưng chỉ cao khoảng ba
thước vì chúng tôi đã quyết định không trồng xuống đất. Nếu được
thoải mái bám đất, rễ sẽ mọc rất sâu, tàn lá sẽ phát triển rất cao,
rất rộng, và như thế, cây ngọc-lan sẽ không còn ‘trong tầm tay” mình
nữa. Cây sẽ thuộc
về đất, về trời. Cái ý nghĩ chấp ngã “cái của tôi” đã khiến cây
ngọc-lan chỉ nằm trong chậu, nhưng an ủi là một chậu kiểng bằng sứ,
khá đẹp, khá lớn nên cây tạm hài lòng, nở hoa đủ bốn mùa, góp hương
cùng hoa chanh, hoa bưởi.
Nhưng từ khi tình cờ đọc được bài viết từ nội san Quảng Hương Già
Lam, về xuất sứ cây ngọc-lan bên chánh điện của Tu-viện Quảng Hương
Già Lam tại quận Gò Vấp, tôi đã không nhìn cây ngọc-lan của mình như
một cây kiểng mang hương sắc trang trí nữa, mà mỗi khi ra vườn, đứng
trước cây ngọc-lan, tôi đã tự động chắp tay lúc nào không hay! Vì
cây ngọc-lan của tôi được cùng họ, cùng tên với cây đại thụ trong
sân ngôi cổ tự mang tên Quảng Hương Già Lam mà tới nay tôi mới biết
ý nghĩa đích thực danh tự của tu viện.
Sự
hời hợt của tôi chắc cũng là sự vô tâm của nhiều người. Chùa chiền,
bảo tháp, tu viện ở Việt Nam thì quá nhiều, mấy ai tìm hiểu tại sao
ngôi chùa này có tên như vậy, tại sao ngôi tháp đó được gọi thế kia
? Bản chất dân tộc Việt Nam quá chân thật, đơn giản nên chùa tọa lạc
trên đất làng Dâu thì gọi là chùa Dâu, tọa lạc phía tây, thôn Bút
Tháp thì gọi là chùa Bút Tháp, trên núi Yên Tử thì là chùa Hoa Yên,
bên suối Giải Oan thì là chùa Giải Oan. Riêng ngôi chùa cổ nhất miền
Bắc là chùa Trấn Quốc, được dựng lên từ thời Lý Nam Đế với cái tên
văn hoa hơn, là Khai-Quốc-Tự, nhưng sau cũng đổi lại thành chùa Trấn
Quốc cho đơn giản của ý nghĩa “giữ nước” chăng?
Vào
tới miền Trung thì danh xưng của chùa đã thấp thoáng mang nghĩa đạo,
như các chùa Sắc Tứ Tường Vân, Sắc Tứ Vạn Phước, Sắc Tứ Tây Thiên Di
Đà ở Thừa Thiên-Huế. Hoặc những chùa Chúc Thánh, Phổ Đà, Pháp Lâm ở
Quảng Nam-Đà Nẵng. Riêng tỉnh Khánh Hòa thành phố Nha Trang có chùa
Hải Đức tọa lạc trên đồi Trại Thủy đã là địa danh ghi dấu ấn trong
lòng Phật tử Việt Nam vì nơi đây chính là Viện Phật Học Hải Đức, đã
đào tạo bao tăng-tài sau khi Hòa Thượng Thích Phước Huệ cúng dường
chùa Hải Đức lên Hòa Thượng Thích Giác Nhiên năm 1956 để chuyển
thành nơi tu học.
Xuống tới miền Nam, ngoài những ngôi chùa mang khuynh hướng và mầu
sắc thời đại, còn có những mái cong ẩn tàng dấu tích lịch sử như
chùa Ấn Quang tọa lạc trên đường Sư Vạn Hạnh, từng là trụ sở
Phật-Học-đường, trụ sở Giáo Hội Tăng Già Việt Nam; chùa Xá Lợi tọa
lạc trên đường Bà Huyện Thanh Quan, là nơi tổ chức Đại Hội thành lập
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1963. Và, ở quận Gò Vấp
nhỏ bé trên đường Lê Quang Định là Tu Viện Quảng Hương Già Lam, nơi
cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ sáng lập, dành cho các học tăng cấp Đại
Học, tiếp nối từ Phật Học Viện Hải Đức- Nha Trang. Cũng chính nơi
đây, cố Hòa Thượng Viện trưởng đã thêm vào tên chùa Già Lam hai chữ
Quảng-Hương, mà kẻ phàm phu như tôi vừa biết được ý nghĩa!
Quảng Hương là tên vị học tăng đã tự tay trồng nhánh cây ngọc-lan
nhỏ xíu bên chánh điện. Tất nhiên, không phải vị học tăng chỉ trồng
cây hoa trong khuôn viên chùa mà pháp danh được đặt tên chùa. Thưa,
vị học tăng pháp danh Quảng Hương, đệ tử của Hòa Thượng viện trưởng
đã mang trái tim Bồ Tát trong tự thân, chứng kiến ngọn lửa Từ Bi tỏa
vô lượng quang từ nhục thân Bồ Tát Quảng Đức thắp lên cúng dường Đạo
pháp trong thời pháp nạn 1963. Dù đang bận rộn với những chương
trình học của tăng sinh nhưng ngọn lửa vô hình không ngừng nung nấu
trong lòng khiến vị học tăng đó đã không thể âm thầm giữ cho riêng
mình. Tỳ kheo Quảng Hương đã trình lên sư phụ là HT Thích Trí Thủ, ý
nguyện noi theo bước Bồ Tát Quảng Đức, dùng thân tứ đại, cúng dường
Tam Bảo để tranh đấu cho sự tồn vong của đạo pháp. HT viện trưởng
tất biết rằng khi người con Phật khởi niệm cúng dường cho chánh pháp
thì không gì ngăn nổi, chỉ còn chờ thuận duyên mà thôi. Chính thời
gian “chờ thuận duyên” này, tỳ kheo Quảng Hương tìm được một chồi
ngọc-lan, đem về trồng bên chánh điện. Chồi non chưa lớn bao nhiêu
thì thuận duyên đã tới. Và tỳ kheo Quảng Hương hoan hỷ được thực
hiện tâm nguyện qua ngọn lửa rực sáng, tựa như phẩm “Dược Vương Bồ
Tát Bản Sự” trong kinh Pháp Hoa.
Sau
lễ trà-tỳ, HT viện trưởng muốn ghi dấu tinh thần Bồ Tát của người đệ
tử yêu quý nên tu viện Già Lam đã được HT và tất cả Tăng, Ni sinh
khắp nơi trang trọng gọi là Tu Viện Quảng Hương Già Lam.
Chất
bón Bi Trí Dũng từ người trồng cây đã khiến ngọc-lan lớn như thổi,
nay, ngọn đã vượt mái cong, tàn lá xòe rộng, mát rượi sân chùa và
hương ngọc-lan không chỉ là hương của một loài hoa mà còn là Hương
Giới Đức bay ngược gió, thẩm thấu vào từng tấm lòng tìm về Giác Ngộ.
Ngày
nay, tu-viện Quảng Hương Già Lam không chỉ có cây ngọc-lan-giới-đức
làm phương hướng cho những người con Phật khắp năm châu tìm về.
Quảng Hương Già Lam còn có Thị-Ngạn-Am, nơi từ trước, và sau cơn
hồng thủy, thấp thoáng bóng dáng một nhà sư vóc hạc “xuất thế gian
nhưng không rời thế-gian-pháp”. Từ nhiều thập niên, Phật tử khắp nơi
nói đến Thị-Ngạn-Am là nói đến Quảng-Hương-Già-Lam; và hướng tâm
đảnh lễ về Quảng-Hương-Già-Lam là đảnh lễ về Thị-Ngạn-Am vì thật đơn
giản. Nhà sư thấp thoáng ẩn cư nơi Thị-Ngạn-Am trong ngôi cổ tự
Quảng-Hương-Già-Lam cũng là hình bóng mà Phật tử thấy thấp thoáng
suốt quê hương Việt Nam, suốt đau thương cùng cực, suốt hoan lạc vô
bờ …
Thầy
Tuệ Sỹ lặng thinh mà là tất cả.
Thử
nhìn đoạn đường Thầy đã và đang đi, có phải là đường Chư Bồ-Tát đã
đi từ nghìn xưa đến ngày nay không?
Viết
tới đây tôi mới hiểu rằng, sao mùa Xuân mà tôi không nghĩ tới hoa
mai, hoa đào, lòng lại chỉ thơm ngát hương ngọc-lan.
Thì
ra, tôi đang thực sự được hưởng mùa Xuân Di Lặc, Xuân của đất trời
bát ngát Hương Giới Đức bay ngược gió, quyện vào không khí bao la
cho những duyên tao ngộ hít thở được năng lượng nhiệm mầu của Giải
Thoát.
NAM MÔ ĐƯƠNG
LAI HẠ SANH DI LẶC TÔN PHẬT