Thập loại chúng
sanh
Là người Việt Nam, ít ai không thuộc dăm ba câu trong truyện Kiều,
cũng như ít ai không biết tác giả áng văn tuyệt tác viết bằng thể
thơ lục bát đó là thi hào Nguyễn Du. Rất nhiều đoạn, nhiều
câu, nhiều tình huống trong truyện Kiều đã trở thành văn học dân
gian vì những tâm trạng, những hoàn cảnh đó quá gần gũi với môi
trường thực tế trong xã hội, cả thời xưa cho đến ngày nay.
Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn
là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc
đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”.
Tự thân Nguyễn Du đã nhận chịu quá nhiều đau thương buồn tủi từ thuở
ấu thơ nên tâm hồn rất nhạy cảm trước nỗi đau nhân thế. Những tác
phẩm của tiên sinh thường bàng bạc tinh thần Phật giáo qua luật nhân
quả, vòng tử sinh
luân hồi, vay trả mà chưa phân minh thì sau khi thác sẽ thành những
oan hồn uổng tử, vất vưởng khắp chốn u tối mịt mùng. Những oan hồn
đó chỉ trông chờ vào mùa mưa tháng bẩy, chầu chực miếng cơm chén
cháo nơi các trai đàn chẩn tế thí thực cho!
Tại sao lại tháng bẩy?
Vì đó là thời điểm Đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên phương thức cứu
mẹ khỏi chốn địa ngục A-Tỳ. Lòng thành của người con thảo thỉnh cầu
Chư Tăng đang tụ hội về trong ngày Tự Tứ, cùng góp lời cầu xin và
sám hối, không những đã cứu được bà Thanh Đề khỏi nghiệp gông cùm
đói khát, mà cũng trong ngày đó, năng lượng dũng mãnh của Chư Tăng
còn lan tỏa, xá tội được cho tất cả bao oan hồn uổng tử vất vưởng
chốn u tối ngục hình.
Nhân gian từ đó noi theo, lấy ngày rằm tháng bẩy là ngày Vu Lan báo
hiếu, đồng thời lập đàn, bày thực phẩm thí phát cho những oan hồn bơ
vơ không ai tế độ.
Văn minh nhân loại, hợp cùng y học thực tiễn, dù tinh vi đến đâu
cũng chưa thể giải thích thỏa đáng những trường hợp hiển linh, chứng
minh về sự cố “Chết, chưa là hết. Chết mà chưa siêu được thì hồn
vẫn vất vưởng trong cõi u minh”.
Kinh Pháp Cú có đoạn dạy rằng “kẻ nào không tin luật nhân quả,
không tin có sinh tử luân hồi thì không điều ác nào mà kẻ ấy không
dám làm” Lời dạy này thật đơn giản, vì nếu không tin làm ác gặp
ác, thì cứ việc gì mang lợi tới cho bản thân là làm, dù việc đó gây
tai hại cho người khác; Không tin luân hồi sinh tử thì đang có thân
người đây, mục đích duy nhất là phục vụ thân này, dù dẫm đạp lên
người khác, vì khi chết là hết, can chi phải nương tay, dại gì không
tận hưởng!
Thương thay cho những ai lập luận rằng nhân quả và luân hồi vô hình
vô tướng, mù mờ quá, lấy gì mà tin! Họ thấy chăng những cái có hình
có tướng đang nắm giữ trong tay, cột chặt trong người mà vẫn chớp
mắt vuột mất thì lại quyết tin là có thật! Này là bằng hữu tôi, này
là tri kỷ tôi, này là vợ, này là chồng tôi, này là những gì quý
nhất, bền bỉ nhất của tôi, nhưng tỉnh dậy mà nhìn quanh xem, nhan
nhản biết bao cảnh vô thường. Bóng câu chưa khuất ngang khung cửa
thì tình đã nhạt, hương đã phai, những cái tưởng của tôi muôn đời,
đã lạnh lùng biến dạng, đã là của người khác!
Tình đã thế, tiền thì sao? Này là xe tôi, này là nhà tôi, này là của
cải tôi, chỉ cần qua một đêm mộng mị, tình huống ngoài xã hội kia
chợt thay đổi khiến tiền cất kỹ trong băng trở thành giấy, ngôi nhà
đang ở trở thành nợ nần, không chạy khỏi cho mau sẽ còn mang lụy!
Những gì có hình có tướng, ngỡ đã cất giữ thật chặt, thật kỹ đó,
chúng ta vẫn thường đau khổ chứng kiến sự ra đi phù du của chúng.
Nhưng lạ thay, dù thấy, dù biết, ta vẫn cố níu kéo cho tới ngày
thành ma vất vưởng!
Tiên Sinh Nguyễn Du động lòng trắc ẩn đã dùng ngòi bút lân mẫn mà
khóc cho thập loại chúng sinh:
Thập loại là những loại nào,
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh
Nguyễn Du cất tiếng kêu cứu, khóc cho tất cả kiếp nhân sinh khi
sống đã buông lung, không sợ nhân quả, lúc thác đi, làm ma côi cút
lang thang. Mười loại chúng sinh tiêu biểu trong xã hội, từ vua quan
tể tướng, kẻ sỹ, kẻ nông, kẻ già, người trẻ, kẻ thầy, người thợ, nếu
thác đi không ai tế tự, đều mòn mỏi đợi mùa tháng bẩy tìm về những
trai đàn chẩn tế:
Tiết tháng bẩy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh ngắt sương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau khóm bạc lá ngô đồng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọc đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm!
Những kẻ lúc sống, ngủ vùi trong giấc mộng vô thường, khi thác đi
mới chợt tỉnh thì ôi thôi:
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dù có như không
Sống thời tiền chảy, bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi!
Khi đó, thân người chẳng có, trí huệ cũng không, bà con quyến thuộc
nay đều trở thành người dưng kẻ lạ vì:
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ!
Nguyễn Du là người từng lắng tâm, tụng đọc kinh Kim Cang hàng ngàn
lần để thấu đáo sâu sa lẽ vô thường “Nhất thiết hữu vi pháp. Như
mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điển. Ưng tác như thị quán” (*)
Từ đấy, mới rộng lòng xót thương bao kẻ chưa kịp tỉnh giác đã vội
thác làm ma, đồng loạt lang thang khổ sở như nhau, chẳng còn chi là
giầu nghèo, cao thấp nữa. Nguyễn Du đã nhỏ lệ, cất lời cầu xin bình
đẳng cho tất cả:
Hương khói đã không nơi nương tựa
Phận mồ côi lần lữa đêm đêm
Còn chi ai khá, ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền, ai ngu
Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát
Nước tịnh bình tưới hạt dương chi
Nương nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ, hồn về Tây Phương
Là con Phật, nếu chúng ta tin, hiểu lời Phật dạy, ta sẽ dễ dàng biết
mở rộng cánh cửa từ bi sẵn có trong mỗi trái tim để cùng chia xẻ với
ngài A Nan khi thấy Đức Phật dừng lại bên đường và quỳ lạy đống
xương khô. Trong đống xương hỗn độn đó, với vòng sinh tử luân hồi
chưa từng ngưng dứt, mấy ai dám chắc không có thịt xương ông bà, cha
mẹ mình! Sự chiêu cảm giữa đất trời và âm dương chia cách là những
thực thể chúng ta từng thấy:
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gởi tha phương
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng!
Trong niềm bi ai khóc cho lỗi lầm nhân thế, Nguyễn Du cũng không
quên những oan hồn trẻ thơ, chưa tội tình gì mà đã thác oan. Những
linh hồn bé bỏng, chưa tự lo liệu, chưa biết nghĩ suy, làm sao nơi
cõi âm tăm tối mà tìm được hạt cơm, hớp cháo!? Tiếng khóc này của
Nguyễn Du mới cực kỳ bi thiết làm sao:
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ, lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng!
Thương thay, bao oan hồn bơ vơ, lầm lũi theo nhau trong đêm tối:
Nghe gà gáy tìm đường ẩn tránh
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng cố lại mà nghe kinh
Bằng tất cả niềm tin dũng mãnh nơi năng lượng vô biên, mầu nhiệm của
Chư Phật, Nguyễn Du khuyến tấn:
Kiếp phù sinh như bào như ảnh
Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không
Ai ơi, lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi vòng trầm luân
Với sự tin tưởng đó, Nguyễn Du tiên sinh đã kết thúc “Văn tế thập
loại chúng sinh” bằng một trai đàn chẩn tế, thành tâm dâng cúng:
Ai đến đây, dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều.
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật từ bi hữu tình phổ độ
Chớ ngại rằng có có, không không
Nam
Mô
Phật,
Nam
Mô Pháp,
Nam
Mô Tăng
Nam
Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu và cúng thí cô hồn, xá tội vong nhân, xin
trích lại phần nào bài văn tế của thi hào Nguyễn Du để góp lời cầu
nguyện dâng lên mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh
Tăng, xin nhủ lòng lân mẫn cứu độ muôn loài còn đang ngụp lặn trong
bể khổ sông mê, sớm đủ duyên chạm được ánh từ quang mà vượt thoát.
Nam
Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam
Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Huệ Trân
(Biển Dài – Mùa Vu Lan 2009)
(*) Kệ kinh Kim Cang.
- Những câu thơ song thất lục bát là trích trong văn bản “Văn tế
thập loại chúng sinh” của thi hào Nguyễn Du
|