Quán không và
chiếc ghế trống
Sau
thời công phu sáng, tôi thường tự đãi mình một tách trà nóng. Bên
khung cửa sổ nhìn ra khu vườn trước, những cây phong cao sững, lá
vàng từ mùa thu, đang chuyển mầu đỏ sậm, và thỉnh thoảng, có những
lá đã vui chơi, bay theo làn gió mùa đông mời gọi.
Thường, đây là những khoảnh khắc tĩnh lặng và an lạc nhất trong
ngày, khi lời kinh còn phảng phất không gian và hương trà nhắc nhở
“Hãy sống giây phút hiện tại”
Ấy thế, mà sáng nay, hương trà lại luẩn quẩn bên hiên hàng xóm. Họ
làm gì mà thức sớm, mở cửa garage, rồi khá huyên náo? Hình như họ
chuẩn bị đi đâu? Chắc thế, vì người lớn, trẻ nhỏ đều lăng xăng túi
xách, và không lâu, họ gọi nhau lên xe; xe lăn bánh, cửa garage tự
động, từ từ khép.
Không gian trở lại yên tĩnh.
Bây giờ, căn nhà hàng xóm hoàn toàn trống vắng sau khi mọi người
cùng lên xe, cho một chuyến đi chơi đâu đó.
Bên này, tách trà đã nguội, nhưng hậu vị thơm thơm, chát chát của lá
trà thì vẫn còn nguyên.
Có thật căn nhà đã trống vắng? Có thật hương trà hãy còn nguyên, hay
chỉ là cảm nhận? Vừa khởi nghĩ thế, tôi tưởng như quanh đây, tiếng
mõ ai đang gõ nhịp âm, trầm và đều của có, không, còn, mất …
Những cánh cửa căn nhà hàng xóm đã đóng kín. Mọi người đều vừa lên
xe, ra khỏi nhà. Căn nhà đó đang trống vắng. Đúng thế. Nhưng nhìn
qua lăng kính Tương Tức, Tương Nhập thì căn nhà đó có thật trống
vắng không? Hay nhìn vào căn nhà ấy, bằng tâm Quán Không, vẫn thấy
có người, có đầy đủ gia đình hàng xóm, dù thực tế, họ đã ra khỏi
nhà?
Tại sao thế?
Bởi có người ở, mới có cái nhà. Ta không xây nhà để không có người
ở. Vậy, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” có phải là:
“Căn bản của KHÔNG là, cái này có thì cái kia có; và căn bản của CÓ
là, cái này không, thì cái kia không”?
Rốt ráo, thì không chứng đắc mới thực là chứng đắc.
Khoảnh khắc tĩnh lặng buổi sáng, tưởng chỉ bị chút huyên náo của
hàng xóm khiến tâm khởi xôn xao thế thôi. Ai ngờ, cái có, cái không
đó lại lập tức liên tưởng đến tin tức đang chạy hàng đầu trong loạt
tin tuần qua, mà dù không đọc nội dung, chỉ những cái tựa cũng đủ
biết điều gì. Đó là, giải Nobel Hòa Bình năm nay đã long trọng được
đặt vào một chiếc ghế trống!
Một giải thưởng cao quý, được thế giới công nhận từ nhiều thập niên,
nay trao giải cho CÁI GHẾ TRỐNG ư?
Tất nhiên là không phải!
Toàn thể quan khách dự kiến, đồng loạt đứng dậy, vỗ tay không dứt,
để bầy tỏ sự ngưỡng mộ và tán thưởng khi chủ tịch Ủy Ban giải Nobel
Hòa Bình đặt văn bằng và huy chương vào chiếc ghế trống.
Mọi người nhiệt liệt ngưỡng mộ và tán thưởng CÁI GHẾ TRỐNG ư?
Tất nhiên là không phải!
Vậy thì, cái ghế đó TRỐNG, nhưng KHÔNG TRỐNG.
Văn bằng KHÔNG người nhận, nhưng CÓ người đã được chọn để nhận.
Sở dĩ có hình ảnh chiếc ghế trống và văn bằng cùng huy chương không
người nhận là vì người được chọn lãnh giải là ông Lưu Hiểu Ba, một,
trong những sinh viên lãnh tụ phong trào tranh đấu cho Dân Chủ và
Nhân Quyền tại Thiên An Môn năm 1989. Người sinh viên 33 tuổi năm
đó, nay đã 54 tuổi, và hiện đang ngồi tù với bản án 11 năm, bị tuyên
xử năm 2009.
Nhà nước Trung Quốc đã tận dụng mọi cách, để phản đối Ủy Ban tuyển
chọn nhân vật đoạt giải Nobel Hòa Bình ở Na Uy, khi tên ông Lưu Hiểu
Ba được công bố. Không ngăn được điều đó, họ quay sang, dùng toàn
lực, thế kẻ mạnh để vận động những nước còn bị dưới áp lực của họ,
không được cho đại sứ ở Na Uy tới dự lễ trao giải (trong đó có Việt
Nam). Tất nhiên, là nhà nước ngăn cấm ngay, tất cả những ai được
nhận diện là gia đình, thân thuộc, bạn bè của ông Lưu Hiểu Ba, để
không cho phép được đại diện ông, sang Na Uy lãnh giải.
Lịch sử luôn tái diễn những điều nghịch lý, bị phản ứng ngược, nhưng
hầu như, không nhà nước độc tài nào đi ra ngoài vết xe đó được.
Những gì càng bị cấm đoán, càng bùng vỡ khát khao đòi hỏi; càng bưng
bít, càng gây hiếu kỳ tìm tới, phanh phui.
Vô hình chung, trước sự theo dõi và quan tâm của toàn cầu, chiếc ghế
trống đã hiển lộ toàn diện những gì mà nhà nước Trung Quốc muốn phủ
nhận, muốn che dấu! Đó là tước đoạt nhân quyền của người dân.
Lại nữa, điều cực kỳ hiển nhiên, là dưới nhãn quan toàn cầu, dù bênh
hay chống, dù thuận hay nghịch, đều nhìn thấy nơi chiếc ghế không
người ngồi đó, có nhân dáng kiên cường, dũng mãnh mà lại vô cùng an
lạc, từ bi, của khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình năm 2010: Nhà tranh
đấu cho nhân quyền, ông Lưu Hiểu Ba, đang chịu án 11 năm trong nhà
tù Trung Quốc vì dám tiếp tục nói những điều mà nhà nước không cho
nói!
Hầu hết, ai đọc bất cứ hình thức thông tin nào về lễ trao giải Nobel
Hòa Bình năm 2010, đều NHÌN thấy ông Lưu Hiểu Ba NGỒI ở chiếc ghế
trống đó! Thế mới lạ! Tưởng như, nếu nhà nước Trung Quốc cho phép
ông sang lãnh giải thì hình hài bằng xương bằng thịt của ông trên
chiếc ghế danh dự ấy, có thể, chưa rực rỡ, linh động, bằng TINH THẦN
LƯU HIỂU BA. Đó là sức mạnh của vô hình, vô tướng, một sức mạnh
không quyền uy, không thế lực nào xâm phạm được. Chiếc ghế trống hôm
nay, chắc chắn sẽ thành vô giá, trong bất cứ cuộc đấu giá nào!
Đời sống tâm linh nó lạ thế đấy. Bao năm khổ công cầu đạo, quỳ dưới
tuyết sương suốt ngày đêm ngoài cửa động, đến mức toàn thân sắp
thành đá, rồi chặt cánh tay dâng lên cúng dường cũng vẫn chẳng thấy
đạo đâu. Vậy mà, chỉ một lời khai thị đúng lúc của Tổ Đạt Ma:
“Đưa cái tâm bất an ra đây, ta an cho”, Ngài Huệ Khả đã ngộ đạo,
thấu suốt cõi mình, cõi người.
Hình ảnh “chiếc ghế trống, mà không trống” đã khiến nhà nước
Trung Quốc nhức nhối tới mức vội vã đặt ra một giải khác, mang tên
là “ Giải Khổng Tử Hòa Bình”, hy vọng đối đầu với giải Nobel Hòa
Binh, đã được thế giới tôn trọng và chấp nhận từ nhiều thập niên
qua. Nhưng vì quá vội vã để khai sinh giải này trước ngày phát giải
Nobel Hòa Bình ở Na Uy, nên người được chọn lãnh giải Khổng Tử Hòa
Bình lần đầu, là phó Tổng Thống Trung Hoa dân quốc ở Đài Loan, lại
không về kịp, khi Bắc Kinh tuyên bố! Sự dàn dựng còn hấp tấp tới mức
nhân viên phụ trách văn phòng của người trúng giải cũng không biết
gì về tin này! Rồi em bé gái được cho mặc áo đẹp, lên đại diện nhận
giải, cũng chẳng biết nhờ tiêu chuẩn nào mà được chọn! Những doanh
nhân, những ủng hộ viên giải này, trên nguyên tắc, sẽ hội ý để bầu
chọn qua Internet, thì do tình trạng quá khần trương nên lần này
chưa kịp hội ý gì! Vân vân … và … vân vân …
Chuyện “khó thấy”, là sao những đầu óc thường mưu lược, lại làm
những chuyện “dễ thấy” như thế?
Bây giờ, chẳng phải tách trà chỉ nguội, mà bình trà cũng cạn. Không
dám pha thêm trà vì biết đâu, nhâm nhi nhàn hạ lại dẫn tới Quán Khó,
Quán Dễ, thì hết ngày mất thôi! Trong khi, nắng sớm ngoài kia đã lên
rồi. Biết bao nụ-ý cúng dường một ngày mới, sẽ thăng hoa!
Huệ Trân
(Trung tuần, tháng cuối 2010) |