Kẻ gánh cỏ khô
trên đường thiên lý
Con
đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi
dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri
thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa!
Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn
kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi
chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không
thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi
vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là
“Phật đã thành”.
Không phải vô cớ mà Đức Phật khai thị Hội Pháp Hoa bằng lời xác định
một sự thật mới mẻ như thế. Sự thật này là kinh nghiệm của chính bản
thân Đức Phật khi ánh sao mai canh ba hiện lên rực rỡ, chiếu sáng cả
khu rừng mà sa môn Gotama đã ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề suốt
bốn mươi chin ngày đêm.
Đó là phút giây kỳ diệu của sự chứng ngộ.
Cũng khu rừng đó, gốc cây đó, con người, đó, ánh sao đó, nhưng tất
cả đều hoàn toàn mới mẻ, vì con người đó vừa bứt phá được mọi gông
cùm xiềng xích phiền não bằng thanh gươm trí tuệ. Phải nhận ra cội
rễ khổ đau mới có thể chặt đứt chúng để trở thành con người tự do,
tự tại, vốn sẵn tiềm ẩn nơi mỗi chúng sanh.
Nhưng ở không gian và thời gian đó, sự thật này lại khó tin đến mức
khiến hơn năm ngàn vị Thanh Văn Duyên Giác hốt hoảng đứng dậy, rời
Pháp Hội, xuống núi!
Làm sao tin nổi là mọi chúng sanh, bất kể sang hèn giầu nghèo, khi
nhận ra được là trong hình hài phàm phu này, có một vị chân nhân,
thì kẻ đó đang là Phật! Và, nếu chịu tin như thế rồi, việc còn lại
chỉ là ân cần chăm sóc và quán sát cái thân tâm phàm phu này, hăng
hái lau chùi bụi bậm đi, tẩy rửa uế nhiễm đi, sẽ thấy được vị chân
nhân bên trong.
Nhưng vị chân nhân đó, dung mạo ra sao, già trẻ thế nào, để có thể
thấy hay không thấy? Dùng cái thân tướng phàm phu giả tạm, do kết
hợp từ đất, nước, gió, lửa, để đi tìm cái không hình không tướng,
không biết từ đâu đến và chẳng biết sẽ về đâu thì có dễ không?
Chắc là không, vì cõi ta-bà, muôn “Phật sẽ thành” vẫn
nổi trôi trong biển khổ, hoặc phó mặc trầm luân, hoặc nhọc nhằn cầu
học. Kẻ phó mặc trầm luân, ví như đã an phận theo dòng sinh tử, còn
người cầu học mới phải khổ công nhọc trí, bôn ba tìm thầy, nương
pháp để chỉ cho cách tìm ra cái “đang ở trong ta”.
Một vị giảng sư, mỗi lần đăng tòa thuyết pháp, đều nhắc nhở đại
chúng: “Ngoài đời-thường, học vị nào, công việc nào cũng có lúc hoàn
tất. Đạt kết quả rồi, người đó có thể nghỉ ngơi, hưởng thụ công
trình của mình, bằng cách này hay cách khác. Nhưng với người cầu sự
giác ngộ giải thoát thì không có phút nào được ngưng nghỉ, bởi phút
nào giải đãi, phút đó mất ngay chánh niệm; mất chánh niệm thì thân,
tâm, ý, theo vọng mà hành xử ngay!”
Đây là lời nhắc nhở rất quan trọng cho những ai thực tâm cầu đạo.
Lời nhắc này cũng nói lên sự dễ, hoặc khó, trong việc lau bụi vô
minh, hiển lộ Phật Tánh. Loại bụi này chẳng phải chỉ bám vào một
nơi, một chốn, cũng chẳng phải chờ gió, chờ mưa nó mới di chuyển,
lây lan. Để cho một ý bất thiện khởi lên mà không kịp nhận diện, nó
có thể biến thành hành động, nhanh như tia chớp. Tác hại hơn, nếu nó
còn mưu lược phác họa chương trình, rồi thân tâm ý cùng hỗ trợ nhau
tích cực hành động thì chẳng bao lâu, giọt nước sẽ biến thành sóng
thần, thành cuồng phong bão tố! Nhân vật Hitler chỉ không ngăn được
lòng không ưa một chủng tộc, mà dẫn đến việc sát hại hơn sáu triệu
dân Do Thái vô tội trong những lò hơi ngạt!
Lịch sử nhân loại từng chứng minh vô vàn sự bi thảm, mà Đức Phật đã
cảnh giác: “Không tỉnh thức nhận diện để kịp ngăn chặn những bất
thiện ý, thì cũng như coi thường một con rắn nhỏ, có thể khiến ta
mất mạng, coi thường một đốm lửa nhỏ, có thể thiêu rụi thôn làng”.
Suy ra từ lời dạy này, cũng chớ coi nhẹ điều thiện nhỏ, mà không
làm, vì dù sự việc điều thiện đó có nhỏ, nhưng khởi được ý-thiện và
hành động theo ý-thiện đó thì kết quả có thể vô lượng.
Trong sáu căn, Ý là kẻ chỉ đạo, rồi với sự hợp lực và tuân theo của
năm căn kia, Ý nào khởi lên cũng có thể thành hành động. Chính vì
thế mà chúng ta tìm thấy trong Tạp A Hàm, riêng sự quan trọng về
việc hộ trì sáu căn đã được lồng vào câu chuyện về tỳ-kheo Vangisa,
suốt mười ba kinh. Câu chuyện dẫn cho thấy những tiến trình nguy
hiểm khi sáu căn được thả lỏng. Thầy Vangisa là vị tỳ-kheo xuất sắc
trong nhiều lãnh vực nghệ thuật, từng được Đức Thế Tôn ngợi khen tài
sáng tác thi kệ, nhưng vì không dành đủ sự quan tâm tới sáu Căn
khiến khi chúng đối trước Trần, đã dễ nẩy ra Thức ngã mạn, rồi mất
chánh niệm đến nỗi suýt bi lụy vì nữ sắc. May nhờ có nội lực tu tập,
thầy sớm nhận ra, bèn tìm tới Ngài Ananda, xin giúp đỡ.
Do việc này, một lần, Đức Thế Tôn đã nghiêm túc dạy rằng:
- Này các thầy tỳ-kheo, sáu căn của các thầy, mỗi căn là một đại
dương mênh mông, sâu thẳm. Trong mỗi đại dương đó đều có vô số loài
thủy quái sống giữa những dòng xoáy ngầm vô cùng hung hãn. Các thầy
chỉ là những chiếc thuyền nan, bập bềnh trên biển cả, nếu không cẩn
trọng trong từng phút giây, thuyền sẽ bị sóng ngầm và thủy quái nhận
chìm, tiêu diệt ngay!
Quả là một thí dụ gợi hình, đầy linh động, khiến kẻ lơ mơ như tôi mà
qua lời cảnh giác quý báu này, tôi đã bật nhớ một câu giảng sư từng
viết lên bảng, bằng Hán tự, trong một lần giảng pháp: “Phù vi đạo
giả, như thị càn thảo, hỏa lai tu tỵ” Nghĩa nôm na, tôi hiểu đại
ý là “Người cầu đạo, ví như kẻ đang gánh cỏ khô, thấy lửa, phải
tránh xa.”
Lửa ở đây, tạm nhận diện là những tư duy và hành động sai lầm, từ
mười sử tiêu biểu, gồm tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ. Mười sử này khai triển thành tám
vạn bốn ngàn trần lao, cuốn ta trôi lăn trong dòng phiền não, sinh
tử luân hồi.
Lửa tinh vi và mênh mông vô hình vô tướng như thế, lúc nào cũng vây
quanh đời sống, ẩn hiện dưới muôn hình vạn trạng, làm sao mà sự
chểnh mảng chẳng khiến ta dễ dàng bị đốt cháy!
Vừa chợt nhớ lại ví dụ này, tôi tưởng như gánh cỏ khô trên vai đang
được ai đó chất cho đầy hơn, nặng hơn, vì nó mang theo một thông
điệp không thể không biết sợ : “Này, thân mạng đang vùi trong cỏ
khô, hãy nhìn cho rõ, những gì là lửa nhé!”
Trên đường thiên lý hôm ấy, gió đi theo, và cùng cất tiếng hát với
đoàn người gánh cỏ:
“Nhờ ơn Thầy chỉ dạy,
Cám ơn gánh cỏ khô
Vì cỏ, ta tránh lửa,
Xa lửa, gần Chân Như…”
Huệ Trân
(Trung tuần, tháng cuối 2010) |