Người điên thơ mộng
Cư
dân cùng xóm, khi đi dạo trên lối mòn quanh co ven dòng suối, thường
dừng bước trước hàng hiên tôi, vừa ngắm nghía, vừa thì thào khen
ngợi.
Mà có chi nhiều đâu!
Hai rừng lựu, một vườn hồng, hai bồ đề đại thụ, hai rừng mai, một
vườn quýt, một bụi chuối, hai vườn chanh, một bờ rào trúc tím hoa
vàng, uốn ghép theo ngẫu hứng từ bốn câu kệ của các thiền sư
“Thanh thanh túy trúc. Tận thị pháp thân. Uất uất hoàng hoa. Vô phi
Bát Nhã”, đại ý “Trúc biếc xanh xanh, đâu cũng là pháp thân.
Hoa vàng rậm rạp, đâu chẳng là Bát Nhã”, rồi dăm giò phong lan
tựa lưng đó đây và một chậu rau thơm đủ loại, cũng chen chân vào cho
… thêm hương.
Tả thế này, chắc bạn
nghĩ cái hàng hiên tôi là công viên mới chứa đủ! Thưa không, tất cả
cây cỏ lá hoa này đều bị tôi dỗ dành “Đừng lớn! Đừng lớn nghe em!
Hãy cứ là trẻ thơ để đùa với mưa, cười với nắng, chứ lớn sẽ khổ
lắm!” Chúng đều nghe lời tôi, trừ chậu rau thơm (vì rau không
lớn thì tôi lấy chi mà cuốn với bánh tráng!) Còn lại tất cả đều
chung một họ là Bonsai, dù anh chị nào cũng xấp xỉ thập tam, thập
lục niên.
Chúng đều là những đứa
con tôi cưu mang từ trứng nước, nghĩa là, tôi gieo hạt từ những
giống cây tôi thích. Khi chúng nhú lên, tôi lựa những cây mạnh, sang
vào chậu. Khoảng hơn một tháng, từ khi sang chậu mới biết cây nào ở,
cây nào đi. Đã chủ ý tạo chúng thành bonsai thì cho đất ít, nhưng
thuốc bổ phải đầy đủ. Khi rễ đã bén vững vàng thì chăm sóc chúng,
chẳng nhọc công gì. Nếu trời nóng thì hai ngày, mát thì ba ngày một
lần, cầm vòi nước, set up ở dạng shower( là những tia nước nhỏ), rồi
lia đều một vòng là xong! Thêm chút lưu tâm là sự ân cần lắng nghe
ngôn ngữ thầm lặng của chúng. Nếu lá lựu vàng, chúng dư hay thiếu
nước đây? Nếu chanh không trổ hoa, chắc chúng đang xin thêm thuốc
bổ. Ngược lại, quýt đã lác đác kết nụ rồi, không thấy, mà cho thuốc
bổ vào là nụ rụng hết!
Chẳng phải chỉ con
người cần hiểu và thương, mà vạn hữu cũng cần như ta, để cùng mang
cho nhau hạnh phúc. Không tin, bạn cứ thử thủ thỉ chuyện trò với cây
cỏ mà xem, bạn sẽ ngạc nhiên vì tìm thấy tri kỷ ngay trong vườn nhà
bạn.
Hôm qua, đang tưới tới
gốc bồ đề, khi khổng khi không, hai câu thơ Bùi Giáng bật lên trong
trí, mạnh tới mức vòi nước nghiêng sang vườn chanh:
“Người điên, cái
bóng cũng điên
Người khùng, cái
mộng oan khiên cũng khùng”(*)
Dường như cội bồ đề
mỉm cười bảo: “Đại thụ thơ gọi rồi đó”
Tôi bèn tắt nước, lấy
chổi quét sàn. Và những nhát chổi chậm, thong dong theo bước chân
thi nhân độc đáo của thế kỷ này.
“Ngó chân, ngón
thiếu ngón thừa
Còn bao nhiêu bước,
duỗi vừa cuộc chơi?”(*)
Tôi thảng thốt dừng
chổi. Đúng là cụ Bùi Giáng mới thả được chữ “duỗi” tuyệt hảo vào cái
khí phách phiêu bồng thế này.
Có lẽ, không người
Việt Nam nào không một lần từng nghe đến tên Bùi Giáng, nhất là sau
thời điểm cuối tháng Tư 75. Cái hình ảnh bị cho là một ông già điên,
lang thang đầu đường xó chợ, ngửa cổ ngâm thơ, vung tay ca hát,
không xa lạ gì với đám trẻ trong làng, ngoài phố. Nhưng với người
lớn, nhất là những người trong giới văn học nghệ thuật thì Bùi Giáng
có điên không?
Ngót bốn mươi năm,
thiên hạ đã tốn quá nhiều giấy mực để viết về người điên tài hoa này
rồi, và hình như càng viết lại càng thấy chính mình mới điên, vì có
vận dụng bao nhiêu cái tỉnh cũng chẳng diễn tả nổi phần nào cái điên
này!
Biết thế, tôi dại gì
mà viết! Sát na bất chợt gặp lại người, chỉ xin vừa thong thả quét
sân, vừa lâng lâng hạnh phúc khi tàng-thức trải ra dăm câu thơ đã
thuộc tự bao giờ:
“Tôi cười, tôi khóc
bâng quơ
Người nghe cười
khóc, có ngờ chi không?”(*)
Dạ không. Không ngờ
chi cả! Đứng trước gương, hình hài vật lý sẽ hiện trung thực 100%,
nhưng chỉ là bóng của hình “Người điên, cái bóng cũng điên”
Bùi Giáng đứng trước gương, thấy một ông già râu tóc bù xù, áo quần
tơi tả thì đó là cái bóng của người điên! Phàm những gì không theo
ước lệ người đời đặt ra thì bị cho là điên? A ha!
Nhưng những gì bên
trong cái bóng, không hiện ra trong gương là chi? Ai thấy được cái
đó? Ai thấy được những oan trái, nhân quả, luân hồi, vay trả? Ai
thấy được cánh bướm này có thể là cha, nụ hoa kia có thể là mẹ từ vô
lượng kiếp nào?
Có Chư Phật, Chư Bồ
Tát thấy, nhưng nhắc nhở hoài, hầu hết chúng sanh vẫn không tin, vì
nếu tin, thì cõi ta-bà đâu đến nỗi tiếp tục ngập ngụa tang thương
thế này!
Nếu nhìn hình hài
người điên Bùi Giáng qua gương thì thấy “cái bóng cũng điên”
nhưng nhìn tâm Bùi Giáng “Người khùng, cái mộng oan khiên cũng
khùng”, lại chẳng thấy điên khùng chút nào! Điên khùng mà biết
tới oan khiên ư? Thử hỏi bao người tỉnh, e rằng họ đang lao vào
“mộng-oan-khiên” mà cứ tưởng “thực-hạnh-phúc” (trong đó có tôi, một
thời!)
Một người làm thơ dễ
và nhanh, như thò tay lấy chữ trong túi ra, đã tự phác họa mình:
“Điên cuồng mà
tưởng nên thơ
Cuồng điên mà tưởng
làm thơ như thần!”(*)
Điều này, chắc cư sỹ
Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm năm xưa biết rõ hơn ai hết.
Ông rất trân quý Bùi Giáng, nên gặp đâu là nói:
- Có gì mới, đưa tôi
in đi!
Vừa nói buổi sáng,
buổi chiều đã thấy nhà thơ lững thững ghé quán sách, móc trong bị ra
một xấp dầy, ném huỵch xuống bàn. Thanh Tuệ sửng sốt:
- Viết hồi nào thế?
- Thì viết lúc ông bảo
viết đó. Muốn nữa không?
Ông Thanh Tuệ chia sẻ
với thân hữu là đã từng không in kịp thơ Bùi Giáng, vì cứ hỏi thì
thơ tuôn ra ngay!
Mà có phải chỉ là thơ
đâu! Viết và nói về những triết gia lừng danh Âu, Á, từ Nietzsche,
Heidegger, Sartre, Camus đến Khổng Tử, Lão Tử, đối với Bùi Giáng
cũng chỉ đơn giản như đang giỡn thôi; nhưng giới văn học nghệ thuật
cùng thời và cả hàng hậu bối, khi lần giở những trang tiểu luận đại
luận này, đều kinh hồn bạt vía vì những nhận định sắc bén và cực kỳ
mới mẻ.
Tài hoa như thế mà cứ
bị gán là ông già điên, nên mới có những câu ỡm ờ cho vui vẻ cả
làng:
“Hỏi tên? Rằng biển
xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng
ban đầu rất xa
Gọi tên? Là một, hai, ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi
tâm”(*)
Ai người tỉnh, xin giải dùm mấy câu
trên, xem có thấy rưng rưng trước tấm lòng của một người sanh lầm
thế kỷ hay không. Rồi lời này mới thấm thía hơn nữa:
“Rong chơi râu tóc bạc phơ
Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu
người” (*)
Ngàn trang giấy tỏ bày nhân bản
cũng chỉ đến thế mà thôi. Tình yêu đời, yêu người, xót xa cùng cực,
đồng thời cũng cô đơn cùng cực khi đã biết chẳng tìm đâu tri kỷ:
“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên mầu ấy
không?
Ta đi, còn gởi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương
mù!”(*)
Giữa những ngày tháng ly tan, người
người hoảng loạn chạy xa đất mẹ, là những vết đau cắt da xẻ thịt
trong cơn ác mộng, thấy mình lạc lõng ngay giữa quê nhà. Người điên
nào trong cơn đau ấy mà khóc lên được bằng nước mắt của cả biển
đông, chỉ qua hai câu thơ tê tái này không:
“Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là Chiêm
Bao!”(*)
Chắc hẳn, trong cô đơn cùng cực,
cũng có lần thi nhân chắp tay hướng về một giáo pháp đã hứa khả
rằng, mỗi chúng sanh đều có một viên minh châu như nhau. Viên ngọc
đó vốn sẵn, không từ đâu đến, không đi về đâu, nương viên ngọc ấy
thì không chi mà không qua được, vì ánh sáng đó soi đường chỉ lối
cho ta chuyển vọng thành chân, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành
ngộ.
Ánh sáng viên minh châu trong
Người-Điên từng rực rỡ tuyệt vời Bát Nhã thế này:
“Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu
tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng, tới phiền muộn
sau” (*)
Nếu được đổi một ngàn phút tỉnh quờ
quạng của mình, lấy một phút điên siêu đẳng này, tôi sẵn sàng xếp
hàng ngay, chờ tới phiên. Phải xếp hàng, vì tôi chắc, không riêng
tôi nhiệt thành xin đổi.
Thế kỷ này, tìm đâu thêm một người
điên cực kỳ thơ mộng như tiên sinh Bùi Giáng!
Thế nên đành:
“Thưa em, rượu uống bây giờ
Là thiên cổ lụy còn trơ bên
mình!” (*)
Hạnh Chi
(Tào-Khê tịnh thất – sau một thời
thiền tọa)
(*) Thơ Bùi Giáng |