Bông mai nở muộn của thiền sư Mãn
Giác
Bài
kệ của thiền sư Mãn Giác, từ thế kỷ thứ XI, mà tiếng ngân của hai
câu kết còn âm vang đến ngày nay, thì chắc hẳn hai câu đó không chỉ
ở mặt bằng của ngôn ngữ, mà những gì ẩn dụ thẳm sâu dưới chữ nghĩa
mới là giá trị để tồn tại.
“Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai”
Đại ý: “Chớ bảo
xuân tàn, hoa rụng hết
Đêm qua
sân trước một cành mai”
Biết bao giấy mực đã dàn trải để chia sẻ những thấm thía cảm nhận
được từ hai câu thơ này. Nhất là khi mùa xuân đến, bông mai nở muộn
của thiền sư Mãn Giác lại bát ngát tỏa hương, đến kẻ lơ mơ như tôi
cũng không tránh khỏi bùi ngùi khi làn hương này chợt thoảng tới.
Lạ thay, trọn bài kệ
có tựa đề “Cáo tật thị chúng” chỉ gồm sáu câu mà bốn câu đầu
được thiền sư giảng bày cặn kẽ, lại ít ai nhắc; tới hai câu cuối, kệ
biến thành thơ, chỉ mơ màng, lãng đãng, lại ẩn chứa nội lực vô hình,
vô song, khiến ai mang chút nhạy cảm trong tâm hồn, đều không thể
đọc mà không rung động.
Tại sao rung động?
Tùy căn cơ, mỗi người
đều có thể tự biết vì đâu chỉ hình ảnh bông hoa mai nở muộn mà khiến
ta bâng khuâng đến thế!
Riêng tôi, rung động
mà không biết vì sao! Chỉ cảm nhận như ghềnh đá hồn nhiên, hân hoan
đón sóng vỗ. Phải chăng, cảm nhận được sự rung động, đối với tôi, đã
là quá đủ, đã là hạnh phúc. Vâng, chắc thế. Tôi từng khởi tâm tội
nghiệp một người em không biết mỉm cười trước cái đẹp thầm lặng của
vạn hữu. Em thản nhiên dẫm lên hoa dại như dẫm lên sỏi đá (mà sỏi đá
nào phải không biết đau!), nói chi tới bông mai nở muộn, nhưng thực
chẳng nhìn thấy bông mai!
“Xuân
khứ bách hoa lạc
Xuân
đáo bách hoa khai
Sự trục
nhãn tiền quá
Lão
tùng đầu thượng lai
Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai”
Đại ý: “Xuân đi,
trăm hoa rụng
Xuân
đến trăm hoa cười
Việc
đời qua trước mắt
Tuổi
già trên đầu rồi
Chớ bảo
xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua
sân trước một cành mai”(*)
Tôi ngẫm, thiền sư thật từ bi, mượn hoa để giảng lẽ vô thường, mượn
mùa xuân tươi đẹp để nhắc nhở mùa đông lạnh lẽo sẽ đến thôi. Xuân
đến, trăm hoa nở, nhưng xuân đi thì trăm hoa phải rụng. Từ đời hoa
tới đời người, nào khác chi. Tóc xanh đấy, nhưng chớp mắt đã bạc,
tưởng khỏe mạnh đấy, mà bệnh tật đã theo sau.
Thiền sư nhắc lẽ vô
thường để làm gì? Có phải để nhắc ta hãy trân quý đời hiện tại? Mà
đời ta là gì? Chẳng phải thiền sư vừa dạy, là đến rồi đi, còn rồi
mất, là hoa nở rồi tàn, là tóc xanh rồi bạc? Đó là ảo, đó là huyễn,
sao lại nhọc công trân quý? Thiền sư có mâu thuẫn không?
Ôi, ngôn ngữ nhà thiền
phải chăng là đây? Hoa nở rồi tàn, tóc xanh rồi bạc, mượn cái phù du
để diễn đạt cái thường hằng của vô thường! Và chính cái thường hằng
của vô thường này, lại là chân lý muôn đời của trần gian!
Đức Thế Tôn áo vải
chân trần bôn ba khắp chốn, giảng nói ròng rã non nửa thế kỷ để đạt
tới lời cuối “Suốt bốn mươi chín năm qua ta chưa từng nói lời
nào!”
Những lời Bậc Giác Ngộ
đã nói, phải là sự thật, có thật, mà tăng đoàn 1250 vị tỳ kheo đã
từng được trực tiếp nghe. Nhưng cái “có” sẽ trở thành cái “không”
khi cái Có đó được hành trì, tùy căn cơ, để trở thành cái Có của kẻ
lãnh hội. Chính khi đó những lời Phật nói mới không còn chỉ là của
Phật. Chính khi đó, bao lời Phật nói mới đạt tới tâm từ bi của Phật,
là khai mở Phật tánh cho chúng sanh. Thế nên, Phật đã nói, để đạt
tới rốt ráo, là chưa từng nói.
Không biết có cái gạch
nối mơ hồ nào ở điểm này không, khi thiền sư bâng khuâng thả nhẹ đôi
dòng kết:
“Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai”
Ai cấm một bông mai vẫn nở, dù mùa xuân đã tàn? Bông mai đó ở đâu mà
cưỡng chống được thời gian, nếu không là sự luân chuyển thầm lặng
của lẽ vô thường.
Nở rồi tàn.
Nhưng nhìn bằng con
mắt nào để thấy được bông mai này tàn ở thời gian quá khứ nào, rồi
luân hồi tới không gian xuân muộn trước sân chùa mà hé nở?
Bông mai có mặt khi
xuân tàn mang theo cái nghịch lý của tuần hoàn vũ trụ, có phải là
công năng cây gậy thiền sư quất vào thiền sinh để thúc gọi hãy ý
thức huyễn mộng bào ảnh mà chấm dứt giấc mộng dài?
Chẳng phải tình cờ mà
ngài Không Lộ đứng giữa không gian mênh mông trên đỉnh núi mờ sương
u tịch, bỗng cất lên được tiếng hú hào sảng, làm lạnh cả đất trời:
“Hữu thời trực
thướng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư ”
Phải ở sát na kỳ diệu,
tâm thức thoắt vượt thoát lưới vô thường chằng chịt mới chạm tới
cõi-thường vô tướng vô thanh. Sát na này không gì chuẩn bị được. Nó
là lằn chớp của hoắt nhiên chợt ngộ.
Dị thường chăng, khi
dùng hữu thanh mà đạt vô thanh, dùng hữu tướng mà đạt vô tướng! Khác
chi ngài Văn Thù Sư Lợi cất lời khen sự im lặng của trưởng giả Duy
Ma Cật thì sự im lặng đó mới được đặt lên ngôi vị tuyệt chiêu!
Dưới tiết xuân, bằng
từng bước thiền hành chậm rãi, ta thử xoay cái nhìn vào nội tâm, xem
có phải bông mai nở muộn kia mang cho chúng ta thông điệp của hy
vọng, của sự chuyển nghiệp? Đó là, Phật tánh sẵn trong mỗi chúng
sanh, như nhựa nguyên sẵn trong mỗi đời cây. Mưa nắng kém thuận hòa
nên cây không trổ đủ lá hoa, nhưng chồi non vẫn ẩn, nụ vẫn chờ. Vô
minh che lấp nên chúng sanh ác nhiều hơn thiện, nhưng căn lành vẫn
tiềm tàng, mới có ngày A Dục Vương quy y Tam Bảo, mới có phút
Angulimala buông đao, quỳ lạy Đức Thế Tôn.
Được nghe dạy, được
biết thế, nhưng chúng ta phải làm gì để hiển lộ Phật tánh, để dù
xuân đã qua, vẫn còn bông mai nở, khi thời gian không hề giây phút
nào ngừng trôi?
Mùa Xuân đang đến đấy,
nhưng theo lý duyên sinh thì trong Xuân đã hiện hữu Hạ vàng. Thiền
hành rồi, mời bạn dừng lại trên thảm cỏ non, thử khoanh chân, tĩnh
tọa “ngoài dứt muôn duyên, trong bặt nghĩ tưởng” xem có thấy
thấp thoáng bông mai nào nở muộn nơi cuối Xuân này không nhé!
Huệ Trân
(Tào Khê tịnh thất,
ngày đầu Xuân)
(*) GS Lê Mạnh Thát
dịch. |