Lạc gót sen hương
Một sư huynh, mỗi lần
có dịp giới thiệu tôi với người mới gặp, không hiểu sao thầy thường
vui đùa, bắt đầu bằng một tràng mỹ từ: “Đây là văn sỹ, thi sỹ, ca
sỹ, chiến sỹ …”
Theo tôi, tùy môi
trường và hoàn cảnh, muôn người muôn loài đều thường xuyên từng là
những mỹ từ này. Văn sỹ là gì? Là chia sẻ, là trải lòng mình với
người. Thì ai chả có lúc làm điều đó. Thi sỹ là gì? Là khi cảm xúc
thật đầy, ngôn ngữ sẽ trở thành vần điều. Thì tất cả những bà mẹ ru
con đều chẳng là thi sỹ ư? Ca sỹ là gì? Cũng khi cảm xúc đầy, ngôn
ngữ là âm thanh trầm bổng. Thì ngàn chim trời nào chẳng là ca sỹ?
Chiến sỹ là gì? Là kẻ luôn phải tranh đấu để bảo vệ và đạt được lý
tưởng mình đặt ra. Thì ai chẳng phải là chiến sỹ chiến đấu với chính
mình trước cái tâm-viên-ý-mã ít khi chịu dừng vọng tưởng.
Hình như chỉ một thứ
“Sỹ”, thầy quên đề cập tới. Đó là Họa Sỹ. Họa sỹ này, như tôi từng
được nghe giảng đôi lần, thì đó chính là Cái Tâm. Đúng vậy, tâm là
họa sỹ vẽ ra mọi cảnh giới. Và cảnh giới tâm vẽ ra đó, cũng sẽ là
hạnh phúc hoặc khổ đau. Nghe ra, cái tâm có vẻ khờ khạo, bất nhất vì
nếu đã là họa sỹ, vẽ những điều mình muốn, sao tâm không chỉ vẽ
những gì hạnh phúc? Vẽ chi đau khổ để rồi khổ đau? Có ai thử trắc
nghiệm khả năng hội họa của mình để tìm xem do đâu tâm ta được toàn
quyền tự do họa cảnh cho chính mình mà lại cứ đời này sang đời khác,
tạo mãi những khổ nhiều hơn vui?
Đã quá thất thập cổ
lai hy, tôi vừa bất ngờ “sang trang” cho phần cuối đời mình. Bước
ngoặc này làm hầu hết thân nhân, bạn bè sửng sốt. Hình như, cả chính
tôi cũng đã mở to mắt nhìn mình!
Bẩy mươi hai tuổi,
đang ngụ trong một cái thất xinh xắn, an ninh, gần chùa, gần huynh
đệ, gần bằng hữu thân thương giữa một đô thị “muốn gì cũng có”, tôi
đã buông bỏ tất cả!
Chỉ trong vòng chưa
đầy hai tuần lễ, tôi quyết định buông bỏ tất cả để sẽ dời lên ngôi
chùa hoang vu trên ngọn ngồi hiu quạnh thuộc thị trấn cách nơi tôi
đang cư ngụ tới gần ba ngàn dặm!
Tôi lên đó với ai? Làm
gì?
Ồ, không ai cả! Chỉ
một mình! Thực sự một mình giữa đồi thông, rừng trúc, đồng cỏ mênh
mông. Hàng xóm gần nhất là cặp vợ chồng già, người da đỏ, cũng cách
chùa hơn nửa dặm!
Một bạn đạo, thương
tôi hết lòng, vừa nức nở khóc, vừa nài nỉ; “Đừng! Đừng! Sư cô ơi!
Phải suy nghĩ cho kỹ đã! Lớn tuổi rồi, làm sao chịu nổi sự quạnh hiu
và khí hậu nghiệt ngã phương ấy? Lại còn chưa kể tới an nguy, lỡ đêm
hôm xảy ra điều gì, cầu cứu ai cho thấu!”
Rồi bạn cứ nắm chặt
tay, không buông, dù tôi chỉ mới ngỏ ý, nào đã đi đâu! Ý định này,
tôi giới hạn lắm, chỉ rất ít ngưồi thân biết thôi. Phản ứng cực kỳ
hốt hoảng của bạn lại càng khiến tôi phải giới hạn hơn. Thế nên,
ngày ra đi, tôi đã lặng lẽ nhờ một Phật tử đưa ra phi trường, trong
khi các huynh đệ, bằng hữu đều tưởng tôi chỉ mới dự tính thôi!
Nếu tôi không lầm thì
suốt gần bẩy mươi hai năm có mặt trên cõi đời này, tôi chưa từng
sống một mình. Nhỏ thì có cha mẹ, anh em; lớn thì có bạn bè; xuất
gia thì có thầy trò, huynh đệ. Sau khi xuất gia, tôi ở thất riêng,
ba ngày cuối tuần về chùa cùng tu tập, hoặc những ngày khác, khi có
Phật sự mà huynh đệ gọi thì cũng có mặt. Dù ở thất riêng nhưng chưa
phải là một mình, vì sát vách là hàng xóm, ngay ngoài cửa thất là
những xôn xao mời gọi, khởi tâm muốn gì là có nấy khi lúc nào xăng
cũng đầy bình, túi cũng rủng rỉnh đôi đồng tiền hưu trí. Những ngày
cuối tuần, về chùa cùng tu với đại chúng thì nào có mệt nhọc chi, mà
sau mỗi thời khóa, tiểu thực, dược thực đã bày dọn ê hề!
Một đôi lần, sau khi
từ chùa về thất, lạy Phật rồi tĩnh tọa, tôi đã giật mình tự hỏi:
“Ta đi tu để làm gì đây? Tu giải đãi, tu để hưởng thụ thế này ư? Nếu
ngày qua ngày chỉ có thế, thì bội bạc ơn
Chư Phật quá! Nếu chỉ
có thế, Chư Phật nào muốn ta cạo đầu, khoác áo Như Lai? Nếu chỉ có
thế, ta chỉ muôn đời là kẻ cùng tử lang thang đói rách trong khi gia
tài của cha, thực đã sẵn trong tay!”
Với những vị tu vững,
tu giỏi thì bao phương tiện quá đầy đủ này chẳng ảnh hưởng chi.
Nhưng kẻ tu non, tu dở như tôi thì cảnh có thể làm hỏng tâm!
Những đêm ngồi thiền
lặng lẽ trong bóng tối, bao câu tự hỏi cứ lập đi lập lại như điệp
khúc của một trường ca bất tận.
Cứ thế.
Rồi bất ngờ, giọt nước
làm tràn ly là sự ra đi đột ngột của người anh, một cư sỹ bỏ bao tâm
huyết tạo dựng ngôi chùa trên đồi nhưng vì là nơi hoang vu vắng vẻ,
đã không đáp ứng được những nhu cầu thế gian. Bao năm, người anh
quẩn quanh, mỗi cuối tuần, từ nhà con cháu ở dưới phố, lái xe lên
chùa để lau bàn Phật, thắp nhang, cắt cỏ … Trước khi mất khoảng hai
tuần, anh gọi tôi, khoe: “Sư cô ơi, tôi thuộc Chú Đại Bi rồi! Tôi
vừa cắt cỏ, vừa niệm Chú Đại Bi, có được không?”
Giọt nước tràn ly này
bỗng trả lời cho bao câu hỏi trong nhiều đêm thiền tọa. Và điệp khúc
của bản trường ca bỗng chuyển từ những dấu hỏi, thành lời thúc giục
lên đường: “Hãy đi! Hãy đi! Hãy đi thôi! Hãy buông hết mà đi! Hãy
gõ, thì cửa sẽ mở! Phải thực sự gõ thì cửa mới mở!”
Điệp khúc hùng tráng
này nao nức lòng tôi khi được sự yểm trợ của vị sư huynh tôi yêu
kính. Có tình cờ không, khi thầy cũng bất ngờ chấp nhận lời thỉnh
cầu của một số Phật tử miền đông bắc Hoa Kỳ, về nơi đó lập chùa cho
họ có nơi nương tựa. Ngôi chùa tương lai của thầy cách ngôi chùa
hoang vu trên đỉnh đồi, nơi tôi sẽ về, chỉ khoảng bẩy trăm dặm.
Bẩy trăm dặm, mười
tiếng lái xe, so với non ba ngàn dặm thì quả là “Tuy xa mà gần,
tuy gần mà xa”. Thầy sẽ có thể thỉnh thoảng qua thăm.
Tôi lên đường với một
lời cầu xin duy nhất: “Xin Đức Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
xót thương, ban cho con Hạnh-Vô-Úy. Xin che chở con. Xin cho con
đừng sợ hãi giữa chốn hoang vu để con có thể bình an phụng sự Tam
Bảo, báo đáp ơn Chư Phật. Con phải tự độ, mới mong có cơ duyên độ
tha. Cuộc đời của cây nến chỉ thực sự có ý nghĩa khi ngọn lửa được
thắp lên thân nó và cháy rụi cho đến lụn tàn”
Đêm đầu tiên, tôi bật
đèn hào quang trên chánh điện, rồi theo con dốc thoai thoải xuống
nơi ngủ nghỉ, bật dăm ngọn đèn ngoài hàng hiên trước khi vào phòng,
cẩn thận khóa chốt cửa.
Cái thất vừa bỏ lại,
được tôi đặt tên là Tào-Khê tịnh thất, vì có dòng suối nhân tạo rất
thơ mộng, luôn róc rách ngày đêm. Còn nơi này sẽ gọi là gì đây? A!,
tên nơi này sẽ không do cảnh, mà do hoàn cảnh. Tôi từng dời đổi nơi
cư ngụ khá nhiều, từ Độc Cư Am, Như Thị Am, Cốc Thảnh Thơi, Pháp Lạc
Thất ..v…v.. khác chi chim trời không ngừng di chuyển.
Vậy thôi, nơi này sẽ
là Thiên Di Am nhé!
Đêm đầu, trong Thiên
Di Am, tôi tọa thiền thật lâu, có lẽ là rất lâu, bởi tôi có cảm
tưởng như từ nay mình bỗng có thêm rất nhiều thời giờ. Ngoài nửa
ngày, từ sáng sớm đến giờ ngọ tu trì trên chánh điện, tôi còn tha hồ
thời giờ. Không xe cộ nên chẳng đi đâu, không thân quen nên chẳng
gặp gỡ, cư trần lạc đạo, cứ đói ăn, khát uống, mệt ngủ thôi.

Tọa thiền tới mệt, tôi
xả thiền, vào giường. Trước khi nhắm mắt, tôi nệm Đức Quán Thế Âm,
lại chỉ xin một điều duy nhất “Xin ban cho con Hạnh-Vô-Úy”
Và giấc ngủ đầu tiên ở
nơi hoang vắng, êm đềm tới mức khi chim rừng đánh thức dậy, tôi đã
muốn cất tiếng hát:
Đêm qua mộng lại
thật gần,
Đừng lay tôi nhé,
hồng trần mong manh
Tôi cảm nhận rõ, lời
cầu xin đã được đáp ứng. Sáng hôm đó, tôi đắp y, ra hồ sen, quỳ
trước tôn tượng Quán Thế Ấm, tạ ơn Bồ Tát. Quả thật, ánh mắt từ bi
của Bồ Tát không bỏ sót một chúng sanh nào chí tâm cầu khẩn Ngài.
Giữa trời mây bao la, cùng rừng núi mênh mông thanh tịnh, một sinh
linh nhỏ bé quỳ trước Bồ Tát đã khóc như chưa bao giờ được khóc.
Những gịot lệ tạ ơn tầm tã rơi xuống hồ, đọng trên lá sen, tưởng như
không hạt kim cương nào trên thế gian đẹp bằng!

Thế nhân ơi! Có phải
thông điệp tôi vừa nhận được là “ Chúng ta chỉ nhìn rõ nhau khi
nhìn bằng trái tim. Ta sẽ không thể hiểu nhau, không thể thương nhau
nếu ta chỉ nhìn nhau bằng hai con mắt”
Tất cả nhân loại, muôn
người muôn loài, mỗi động niệm, dù nhỏ nhoi cũng là vừa tạo nên nét
chấm phá trong bức tranh tự họa. Tâm đang nghĩ gì, muốn gì, thì mầu
sắc và cảnh trí hiện ngay ra bức họa như thế. Muốn gặp ai là thấy
liền bóng hình người đó, muốn đến nơi nào là chân chưa bước đã thấy
ngay cảnh trí nơi đó. Trăm ý khởi là trăm cảnh hiện. Trăm cảnh hiện
là trăm thôi thúc. Cái tâm họa sỹ vẽ không ngừng nên sự thôi thúc
cũng không ngừng. Tâm an lành thì thôi thúc tìm sự an lành. Tâm loạn
động thì thôi thúc tìm sự loạn động.
Khi Ngài Pháp Tạng Bồ
Tát phát 48 lời đại nguyện, tâm Ngài đã vẽ ra cõi Tịnh Độ phương
Tây. Khi Ngài Địa Tạng Bồ Tát phát lời nguyện “Địa ngục vị không,
thệ bất thành Phật” thì tâm họa sỹ của Ngài đã vẽ ra muôn cảnh
địa ngục. Hai bức tranh đó đối chiếu nhau là lời khuyến tấn và cảnh
báo đầy từ bi của Chư Phật, Chư Bồ Tát. Chúng sanh phải tận dụng sự
tinh cần và trí tuệ mới tránh được địa ngục mà về nơi an lành.
Dù muốn hay không, mầu
sắc và bút cọ luôn sẵn trong tâm mỗi người. Nếu cái tâm họa sỹ đừng
vội vã khoa tay múa bút, đừng vội pha mầu chát chúa tối tăm, mà hãy
ngồi yên - dăm sát na thôi - với ba hơi thở sâu, thở nhẹ nhàng thư
thái, rồi thầm thì rằng “Ta không làm cho người, những gì ta
không muốn người làm cho ta”. Chỉ cần thế thôi, bức tranh sẽ
hiện ra với những nét chấm phá thanh tao, hỷ lạc.
Tôi đang nương lời
dạy.
Bức tranh huyền ảo ánh
trăng khuya giữa bầu trời đầy sao bỗng hiện hai đốm sáng nơi bìa
rừng trúc.
Bước chân dạo hồ sen
dừng lại.
Hai đốn sáng lung linh
cũng chợt dừng lại.
Bốn mắt nhìn nhau.
Và chúng tôi cùng nhận
ra nhau.
Con nai rừng ngơ ngác
và bà sư già quờ quạng.
Tôi thở một hơi thật
sâu, thật nhẹ, rồi lên tiếng trước:
- Chào em.
Lời chào chưa được đáp
lại, nhưng chân nai không nhúc nhích. Dấu hiệu đó đủ tốt để khích lệ
tôi lên tiếng tiếp:
- Chào em. Thế nào
chúng ta cũng có biết nhau rồi mà! Từ vô lượng kiếp, từ vạn luân
hồi, thế nào chả có kiếp chúng ta từng biết nhau. Đến đây! Đến gần
đây đi!
Bấy giờ thì chân nai
nhúc nhúc. Bốn mắt vẫn không rời nhau. Nai chậm rãi ra khỏi rừng
trúc. Ôi! Tôi nghe lòng mình thổn thức biết bao!
Nhưng chỉ dăm bước
ngắn, nai quay lưng, trở vào rừng!
Tôi đứng dưới trăng
khuya, một mình.
Đó là đêm thứ ba, ở
ngôi chùa trên đồi.
Ngước nhìn tôn tượng
Quán Âm cao vòi vọi giữa trăng sao, tôi lại tạ ơn Ngài đã cho tôi sự
bình tĩnh mà chính tôi chẳng thể ngờ.
Làm sao có thể tưởng
tượng nổi cảnh này nếu tôi không dời phố thị và không được Đức Quán
Âm che chở?
Đi,
Về,
Chỉ một cõi
Lặng lẽ ánh trăng
thu
Tử sinh vừa tròn
kiếp
Càn khôn, giấc mộng
du…
Huệ Trân
Thiên Di Am, Chùa
Chánh Pháp
Bedford, Kentucky
Hạ tuần tháng sáu,
2013
|