"Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh..."
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ
duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ
được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy
là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà
năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi - tôi chơi ngông vác lều
chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự
học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định
dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp
thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm,
hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ
tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng
Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi... (theo Lê Thọ Bình, báo
Pháp Luật số Xuân Giáp Thân)
Với mảnh bằng tú tài Tây trong
tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà
nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy
kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái thị
Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông
Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở
Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi
thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến
(theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).
Bà Tham Kỳ là một người hiền
lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi
chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư,
bà gọi mãi, đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn
bước ra khoanh tay miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong,
cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to,
đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí
tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết.
Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn
nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh,
dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như
một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách
kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn lúc thì vài
quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn;
những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi
trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...
Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non"
ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện
đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở
buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi
vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi
không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện
cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn
một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau,
em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai
đồng ý: "Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!" Em không
chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi
đánh bạo xin phép ông bà Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...
Xe kéo chạy chừng một giờ mới
tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi
đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo
tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng
nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân
trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím
ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì
mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tỉnh dậy, em đã
ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen
nhánh, chín mọng.
- Thầy ăn đi!
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa
lên miệng và trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong
một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì,
nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến
thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này
đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím,
đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi
cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp
những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi
lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận
đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên tới bờ đê,
nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em
giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả
và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Em vẫn đứng yên
đó...Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em
nữa...
Những năm tháng ở chiến khu,
thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em
vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em
mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ
trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...
Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi
rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật
đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ
vì hai gia đình không "môn đăng hộ đối" một chút nào. Mãi sau
mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em
ngấm ngầm "soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết
hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, "không đòi may áo
mới trong ngày hợp hôn", bảo rằng là: "Yêu nhau, thương nhau
cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học
giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông
chồng độc đáo.
Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị
Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông
Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng
khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi đi
thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn
304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn
đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây
em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý
của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như
chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác
thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu
xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin
dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày
25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông
Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lấy tấm áo
bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con
nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn
lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp
nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái
tim tôi.
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín
trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng
đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không
hồn... Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May
sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ
nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được
dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi
ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra
ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc
mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ
đội
Những em nàng có em chưa biết
nói
Khi tóc nàng đang xanh...
...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc
bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc
quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã
chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh. Đó là
bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn đọc đã biết
tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916, hiện tại
đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là
chỗ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh
Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím
hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa
cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới
viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim
/những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không
hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang
tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán
đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm
ruộng, một phần cũng vì tính tôi "hay cãi, thích chống đối,
không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi". "Bọn nó"
nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp
nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ
chúng! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại,
tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của "bọn nó" rồi!
Tôi về quê chúng chẳng buông
tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ
tôi cũng chẳng cần biết! Sau bao nhiêu năm trời ngậm cay nuốt
đắng, tôi đã được dịp phơi bày tâm sự trong hai kỳ phỏng vấn
của Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt phát thanh trong hai
ngày 5 và 12-10-2002. Theo tôi thì tình hình chung của đất
nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng
dân chứ có cái gì đâu... Sau phần đầu nói về nguồn gốc của Màu
Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài thơ này, trong phần II tôi
đã nói về cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự của
đảng đối với tôi và gia đình tôi từ năm 1956. Dù gian khổ và
chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ. Hồi ấy,
ra làm ở ngoài Trung Ương thì bắt phải theo cộng sản nên tôi
bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về... Nó làm tôi tam tình,
tứ tội, làm đủ cách đễ thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có
sự che chở của Trời - Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao
nhiêu lần đầu độc không xong... Đó là cái thời 1955 - 1956 khi
phong trào Văn nghệ sĩ chống Ðảng bắt đầu bùng lên với sự xuất
hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, và
đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy
phản bạn, dốc tâm ca tụng Ðảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn
của chế độ. Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh
thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi.
Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc
bấy giờ là phải làm về Ðảng, ca tụng Ðảng, ca tụng cộng sản,
ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái
dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó
kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ
trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy
cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ
người ta đang một tí là đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao
Hồ Chí Minh... trong khi tôi lại đề cao cái Tình Yêu. Tôi khóc
người Vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc
đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như
trong Thơ nói đấy: tôi lấy Vợ rồi đi Bộ đội, mới lấy nhau được
có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông... Tôi
thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy
giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm
về bác Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của mình... Cái
đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?
Bọn nó xúc phạm đến danh dự và
tình cảm thiêng liêng của người Vợ mà tôi hằng yêu quý, cho
nên vào năm 1956, tôi bỏ Ðảng, bỏ Cơ quan về thẳng nhà để đi
cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không
xin... Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Ðảng, tôi muốn
bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi
cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn
nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít,
loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước,
có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó
cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có
lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ
gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà chúng
nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi
theo dõi, cho người theo hại tôi... Nhưng mà lúc nào cũng như
có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của tôi đã có lần
cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao
lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu Quê hương, nhớ Quê
nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình
của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.
Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có
một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về
rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện
cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm!
Chiếc chiếu
Có ai thấy một người cha
Từng buổi, từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng Mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đã hạ giá
Trong óc nổi bòng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Ðôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai nhìn gầm giường
Ðốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Nhưng con đái dầm lại tiện
Ròng rã mười năm kháng chiến
Cầm vững hai tay
Một cái tình thần
Choảng nhau với súng với bom
Gian khổ còn ư ?
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng không quay
Con vứt đi phụng phịu
Sáng kiến làm đồ chơi
Bố thì không thiếu
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên tò he. Tò he
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã
Tò he. Tò he
Như một thiên sứ Hài đồng
Xuống lệnh điềm tin
Tò he. Tò he
Nhớ truyện Ðông Chu
Sao đỏ, sao đen
Tò he. Tò he
Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ
khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Phạm Thị Nhu,
cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn
nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của
Việt Minh.
Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy
tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân
thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán
nản quá và không còn kính trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa cộng
sản nữa. Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm
rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng! Trong một xã
thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi ở độ mười lăm
cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần
năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu
nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu
ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để
ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải
thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời
đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh
danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế
rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ
chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn
xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa
qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu
số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị
đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn
nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi
nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng
cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng. Biết
chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi
hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống
ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể
nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút
đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai
Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều
nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt...
Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt
mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ
sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên
miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi
thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố
chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi;
hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ
trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày
mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm
thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động. Suy nghĩ rất
nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh
cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi
đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôî cũng nghèo, tôi
lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng
cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no... Cho đến ngày
nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và
cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về
quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày hốt
đá đi bán, túi dắt theo vài quyển sách cũ tiếng Pháp, tiếng
Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng
vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi mở, tôi được
tụi nó ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.
Năm 1988, tôi "tái xuất" giang
hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà đèo heo
hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên
Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để
đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực
sự.
Dọc đường đất nước trên chuyến
đi, tôi đã đọc cho công chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài
thơ dài mới nhất tên là "Chuyện tôi về", một loại bút ký thơ
kể về thời gian "Ba mươi năm không phải chuyện / Một sớm một
chiều/ Một ngày tù đã dài như thế kỷ / Ấy là tù giữa chợ..."
Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17
năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết... Cũng trong dịp này,
tôi được may mắn quen biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết
lách dưới bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức đa
tài đầy nhiệt huyết nầy, tôi đã chép tặng bài thơ
Chuyện Di Tề với những câu như sau:
"... Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó-Mộc"
Lần đó, chép xong mấy câu thơ, tôi đã chỉ tay vào trang giấy
nói: "Anh thấy đó chữ Rìu, Bào và Phó-Mộc viết hoa. Anh biết
tôi muốn ám chỉ ai rồi." Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!
Chuyện này sau đó tôi quên tịt, nhưng hẳn là đã để lại trong
tâm tư anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng chứng là 17 năm sau,
anh bạn trẻ (lúc này 60 tuổi, và tôi cũng đã 90!) lần mò từ
Sài Gòn đến tận nhà thăm tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng
thu gom được chút lực tàn để hầu chuyện cùng anh, ăn chung với
anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi là đãi khách từ xa tới!
Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ tôi không còn
nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến xuyên Việt
năm 1988! Nhưng những sự việc trước đó thì tôi nhớ như in,
nhất là vào cái thời chúng nó trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh
bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi không cho; anh bảo cái gì
anh cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm, có gì mà
không bỏ được?! Cái gì có hại là phải bỏ, cộng sản nó ghê gớm
đến thế mà tôi còn bỏ được, nói chi thuốc lá?! Nể mặt tôi nên
anh giữ im lặng, nhưng tôi thấy rõ ánh bất bình trong mắt
anh...
Anh bảo ra về sẽ viết một bài ký sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và
anh đã giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay thật tài ba! (TDBC:
Hữu Loan, cây gỗ vuông chành chạnh...)
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột
nhiên ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với
giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản
văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế còn
90, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại
30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già, sau khi trích một ít để
in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy
tập thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để
bán!
-----------------------------
Màu tím hoa sim,
bài thơ chuyển nhượng bản quyền cho Vitek VTB
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt (*)
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Bản chép tay của Hữu Loan chỉ dài tới câu "tím chiều
hoang biền biệt", sau đó
được nhà thơ Hữu Loan đánh dấu (*) để nối thêm một đoạn nữa,
thành nguyên bản toàn bài (mới hơn và dài hơn) trên đây được
dùng chuyển nhượng bản quyền cho Vitek.
Thân thế Hữu Loan
qua truyền thuyết và giai thoại
Về thân thế của nhà thơ Hữu Loan, nhất là trong thời kỳ bắt
đầu quen biết gia đình ông Lê Đỗ Kỳ và cô Ninh, có nhiều tài
liệu ghi khác nhau. Có người bảo rằng: Hữu Loan quen biết bà
Ninh khi ông còn học Collège Đào Duy Từ, Thanh Hóa. Ngài Tổng
thanh tra ngưỡng mộ danh tiếng của cậu học trò Hữu Loan đã vời
cậu vào dạy học cho con gái. Sau khi tốt nghiệp thành chung,
Hữu Loan phải ra Hà Nội học tú tài. Trong một đợt phát động
Tuần Lễ Vàng, Hữu Loan diễn thuyết trước đám đông, gặp lại cô
học trò ngày xưa, nay đã trở thành thiếu nữ "đẹp một vẻ trong
trắng, giản dị". Họ nhanh chóng thành thân với nhau vào năm
1948.
Cũng có một thuyết khác kể rằng ngày ông đặt chân đến gia đình
ông Lê Đỗ Kỳ làm gia sư cho ba người con trai của ông cũng là
ngày bà Kỳ sinh hạ một bé gái xinh xắn. Điều khác thường ở chỗ
là cô bé không cất tiếng khóc chào đời như mọi đứa trẻ khác;
khi gia đình mang cô bé đặt lên trên nắp một cái thùng phuy để
cầu nguyện một điều gì đó, ông tò mò lại ngắm nhìn thì cô bé
nhoẻn miệng cười với ông. Lớn lên, ông đi đâu cô bé ấy cũng
đòi đi theo. Khi quay trở lại làm gia sư dạy học cho cô bé,
mặc dù nhà ông tham Kỳ lúc nào cũng có vài ba mươi người ăn,
kẻ ở hầu hạ nhưng cô luôn giữ va-ly và không cho bất kỳ ai
giặt quần áo của ông, mà tự tay cô ấy giặt, là lấy rồi gấp xếp
vào va-ly cho ông.
Cô bé càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện. Hai người
cưới nhau ngày 16-2-1949 thì đến ngày 29-5 cùng năm đó, cô
Ninh mất do chết đuối, khi ông đang hoạt động cách mạng ở Nưa
(huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá). Đau thương này kéo dài lắm, vì
lẽ đó ông có ý định không lấy vợ nữa. Mỗi lần nhớ tới cô ấy là
ông lại "khóc" ra một quãng của bài thơ Màu Tím Hoa Sim...
Theo tạp chí Nhà Văn (số tháng 9/2003) (http://sacmauvanhoa.vdcmedia.com/Lyluan-c.asp?PostID=624&Day=0&Date=0&Year=0&Page=35)
thì "Nhà thơ Hữu Loan, tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm
1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
Là con một gia đình nông dân nghèo, lại đông anh chị em, nên
Hữu Loan có một tuổi thơ lam lũ ở quê hương. Ngay từ niên
thiếu, Hữu Loan đã luôn luôn nỗ lực vươn lên để đạt tới một
cuộc sống tốt đẹp hơn. Biểu hiện đầu tiên về khát khao vươn
lên của Hữu Loan là học rất giỏi, học chữ nho với thầy đồ ở
quê cũng giỏi, rồi lên trường huyện học chữ quốc ngữ cũng rất
giỏi. Bởi kết quả học hành xuất sắc của Hữu Loan mà một gia
đình nông dân nghèo như bố mẹ Hữu Loan đã dám chắt bóp cho con
ăn học lên nữa. Năm 1937, Hữu Loan lên thị xã Thanh Hóa theo
học Trường Collège. Để có thêm tiền ăn học, Hữu Loan nhận làm
gia sư cho gia đình ông Lê Đỗ Kỳ khi đó đang làm Tổng thanh
tra Nông Lâm Đông Dương. Cô Lê Đỗ Thị Ninh, học trò của Hữu
Loan, chưa đầy 10 tuổi, như sự sắp đặt của số phận, sau này
trở thành vợ nhà thơ và để lại một dấu ấn sâu nặng trong thơ
ông. Tuy nhiên, những năm trước 1945, Hữu Loan đâu đã biết bản
thân sẽ trở thành nhà thơ, đâu biết sẽ gắn bó với Lê Đỗ Thị
Ninh một cách lạ lùng... Học rất giỏi, đỗ Thành Chung, rồi Hữu
Loan vươn lên nữa, đỗ Tú tài Tây ở Hà Nội. Với sự thành đạt
đó, ở vùng quê nghèo Nga Lĩnh, người ta đã gọi Hữu Loan một
cách trọng thị: “Ông Tú”, hoặc gần gũi thân tình cũng gọi “Tú
Loan”. Dù đã thi được chân Thư ký Văn phòng Toàn quyền, Hữu
Loan không đi làm cho người Pháp, mà đi dạy học ở các trường
tư thục. Cũng từ năm 1941 đó, Hữu Loan tham gia hoạt động
trong phong trào Bình dân, rồi tham gia Việt Minh. Đến năm
1943, tổ chức phân công Hữu Loan trở về xây dựng phong trào
Việt Minh ở Nga Sơn. Cách mạng Tháng Tám, Hữu Loan được cử làm
Phó chủ tịch ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Vào tuổi ba
mươi, trong lòng Hữu Loan đã chất chứa nhiều buồn vui sướng
khổ. Qua những năm niên thiếu cay cực trên quê hương khổ
nghèo. Qua những năm gắng lòng học tập để vươn lên. Đặc biệt,
qua những năm tham gia phong trào yêu nước... Tất cả đã làm
cho Hữu Loan có một tấm lòng thương yêu quê hương, thương yêu
con người thật sâu nặng, và, có thể nói, tất cả những nếm trải
cuộc đời đã làm cho Hữu Loan hoàn thiện một phẩm chất với một
trí tuệ mạnh mẽ và một tâm hồn nồng cháy. Mọi người đều thấy
một Hữu Loan xuất sắc, được điều lên ủy ban lâm thời tỉnh
Thanh Hóa, phụ trách bốn ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính
và Công chính, tổ chức Tuần lễ vàng rất thành công. Trong cuộc
mít tinh này, Hữu Loan diễn thuyết trước đông đảo dân chúng
với một cảm hứng lớn và mới mẻ, khiến rất nhiều người góp vàng
góp tiền cúng. Hôm đó, cô học trò Lê Đỗ Thị Ninh vừa 16 tuổi,
cũng vô cùng cảm kích bởi tài diễn thuyết của Hữu Loan, đã cởi
vòng xuyến vàng của mình trao cho chính quyền mới...
...Đầu năm 1948, Hữu Loan nhận được tin nhắn, gọi về thị xã
Thanh Hóa ngay. Nguyên do, cô học trò Lê Đỗ Thị Ninh đã thổ lộ
với mẹ về tình cảm của mình đối với “gia sư” Hữu Loan. Mẹ cô,
từ xưa đã quý mến cậu gia sư, nay rất mừng, đồng ý ngay với
quyết định của con gái. Đám cưới được tổ chức ngày 6 tháng 2
năm 1948. Bảy tháng sau, khi đang ở Ban Tuyên huấn Sư đoàn
304, đóng ở Thọ Xuân, Thanh Hóa, Hữu Loan nhận được tin người
vợ trẻ của ông đã mất. Thoắt cái, Hữu Loan trở thành một người
trầm lặng lạ lùng...
Riêng Trịnh Hưng đã viết trong
Âu Du (số 47 Xuân Quý Mùi, t.88)
như sau:
... Học ở trường huyện thi đậu bằng Tiểu Học Pháp mà lúc bấy
giờ là rất hiếm người đạt được. Anh quyết chí đi học tiếp
Trung Học nhưng muốn vậy thì phải ra tỉnh mới có trường. Nhà
nghèo ham học nên anh mong muốn ra tỉnh vừa tìm việc làm vừa
đi học. Một hôm, tình cờ anh may mắn xin được dạy kèm cho các
con ông Lê Đỗ Hữu Kỳ, kỹ sư Canh Nông ở Pháp về, hiện làm
Thanh Tra cho Bộ Canh Nông của Pháp. Nhà ông có 500 mẫu ruộng
gia nhân làm việc 5, 6 chục người. Ông có nuôi thêm một miệng
ăn thì cũng chẳng thấm vào đâu. Bà Kỳ là một người rất rộng
lượng và tốt bụng và thường hay giúp đỡ người nghèo nên bà sẳn
lòng cho anh ăn ở, dạy kèm cho các con. Nhờ vậy, Hữu Loan đã
an tâm đi học. Thấy anh hiền lành, lễ phép nên bà Kỳ rất mến
và nhận anh làm con nuôi cho ăn học thành đạt.
Khi anh bước chân vào nhà ông Kỳ ở, thì bà Kỳ sinh cô Ninh ở
nhà hộ sinh. Hai ngày sau, anh xin phép vào thăm. Thấy cô bé
bụ bẩm xinh đẹp nên Hữu Loan bế lên nâng niu trên tay. Cô bé
mới sinh có hai ngày mà cứ nhìn anh cười. Anh vội nói với bà
Kỳ:
- Má à! Em mới có hai ngày mà đã biết cười. Không hiểu sao em
cứ nhìn con cười.
- Mấy bà đỡ đẻ cũng nói là con nít sinh ra là khóc, còn con bé
nầy thì không khóc một tiếng nào mà nó lại biết cười ngay. Đó
là một điều lạ.
Từ đó anh an tâm học hành, các con ông bà Kỳ rất mến anh. Anh
hay dẫn các con ông Kỳ đi chơi và ẳm bồng cô bé Ninh. Đến kỳ
thi Trung Học anh đậu hạng tối ưu. Ông bà Kỳ rất mừng và
khuyến khích anh học tiếp. Năm 1941 đến kỳ thi Tú Tài ở Hà Nội
anh đậu hạng ưu. Sau đó, người Pháp xem bài thấy anh thông
minh nên họ mời anh vào làm tại phủ Toàn Quyền có lương bổng
cao. Hữu Loan lúc đó ghét Tây nên đã khước từ và về Thanh Hoá
sống với gia đình cha mẹ nuôi và đi dạy học. Hữu Loan gặp được
cụ Trần Trọng Kim, lúc đó cụ đang thành lập Hội Thanh Niên
toàn tỉnh. Cụ thấy anh nhanh nhẹn, thông minh nên giao cho
nhiệm vụ làm Tổng Đoàn Trưởng Thanh Niên của cụ
Lê Nguyên Dũng
|