.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)


bút
việt
hồn
quê

Bài vở cho trang này xin gửi về:
nhà văn PHONG THU
phongthu@mindspring.com

THƯ MỤC CÁC TÁC GIẢ

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Nguyễn Thị Thanh Dương Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Võ Thị Trúc Giang | Nguyễn Thế Hà | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Thạch Lang | Đại Lãn Lâm Kim Loan | Vũ Nam | Nguyên Nhung | Chân Y Nghiêm | Pháp Nhật Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Anh Thư | Diệu Trân | Tiểu Tử | Nguyễn Ước Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Chân dung nhà văn:

Vóc dáng nhạc sĩ:
Thạch Chương - Cung Tiến

2.

Chúng ta đã phác họa chân dung văn chương Cung Tiến qua bút hiệu Thạch Chương và Đăng Hoàng. Vóc dáng nghệ sĩ của ông thật đa dạng và ở bất cứ một địa hạt nào cũng đều là kết quả của sự học hỏi khổ luyện từ khởi đầu của một bộ óc suy tư và nhạy cảm. Hôm nay, chúng tôi sẽ tản mạn về chân dung nhạc sĩ mà ở những bản nhạc xuất hiện đầu tiên đã trở thành những bản nhạc được hoan nghênh ưa thích. Chúng ta sẽ cùng bước chân vào cõi khai phá của một người nghệ sĩ luôn tìm tòi mong đạt được đến đỉnh cao nhất của những sáng tác để đời.

Chính vì sự đa diện phong phú nên phác họa lại chân dung nhạc sĩ Cung Tiến cũng không phải là một công việc đơn giản.

Nếu được đặt ra câu hỏi rằng công việc ấy có “khó“ không thì sự việc không đơn giản. Trả lời cho rõ ràng đến nơi đến chốn thì phải dài giòng lắm. Chúng ta như đi vào một khu rừng và chỗ nào cũng muốn bước đến, chỗ nào cũng đầy mùi thơm của hương hoa của đất trời. Nếu trả lời thật giản dị là yêu thích nhạc Cung Tiến nhất cũng xong nhưng nếu đi tìm những kỳ hoa dị thảo thì có lẽ cũng tốn hao thời giờ nhiều lắm. Nhưng nếu nói một cách thành thật nhất thì tôi yêu thích một vài bản nhạc Cung Tiến vì có một vài kỷ niệm với nó.

Kỷ niệm ? Chắc là kỷ niệm với một nàng bé bé xinh xinh nào rồi. Có người đã bói quẻ để đoán mò như thế.

Nhưng trật. Trật lấc! Kỷ niệm không phải với một nàng bé bé xinh xinh nào. Mà không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe lại bản nhạc Hương Xưa là tôi lại nhớ đến một người bạn đã chết trên chiến trường Tây Nguyên năm 1972. Lúc đó tôi ở Pleiku và có một người bạn là phi công trực thăng thường hát luôn miệng hai câu nhạc đầu của bản nhạc Hương Xưa và chỉ láy đi láy lại hai câu ấy mà thôi ”Người ơi! Một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa. Người ơi! Đường xa lắm con đường về làng hồn có mơ xa...” Những buổi chiều nhạt nắng, ngồi ở thảm cỏ đầu hiên barrack chờ đi ra phố ăn cơm, nhìn trời nhìn đất mà nghe những câu hát ấy thì quả là buồn nẫu ruột. Có lần tôi hỏi anh bạn sao hát hoài chỉ có một câu hát ấy thôi thì anh hồn nhiên trả lời "Vì câu hát mà tôi gọi người ơi là để nhớ tới em bé của tôi" Tôi bực mình kê nhẹ ”nhớ gì mà nhớ lắm thế? Cứ ù nhè mỗi buổi chiều hiu hắt như thế này mà nhớ thì thiệt là hại bạn vô cùng đó nghe!” Anh cười trừ và đánh trống lảng. Nhưng, rồi một ngày, con tàu của anh tan vỡ trên không và anh đã ra đi trong phi vụ ấy. Lúc nghe tin dữ tôi lạnh buốt cả người. Và tự nhiên câu hát ấy cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Buổi chiều về cư xá, hình như tôi vẳng nghe câu hát. Những câu người ơi của tha thiết tự tình. Những chữ người ơi của một mối tình đã tử biệt sinh ly. Tôi hình dung lại vóc dáng của người bạn và thấy khao khát vô cùng làm sao nghe được câu hát xưa. Nhưng người bạn đã ra đi và không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe bản nhạc ấy là như sống lại một thời thuở đó, của những ngày tuổi trẻ tưởng như mới đây mà đã hơn mấy chục năm. Nhạc để nhớ bạn và tôi đã từ những ca từ ấy để trở về nỗi niềm của hoài vọng xa xưa…

Thật là một kỷ niệm buồn! Nhưng lại có câu hỏi tiếp. Chẳng lẽ yêu nhạc Cung Tiến chỉ vì lý do ấy thôi sao?

Dĩ nhiên là có nhiều lý do chứ! Một trong những lý do là nhạc của ông tượng hình cho những bước chân suốt đời đi tìm kiếm. Luôn luôn thay đổi, từ phong cách đến ngôn từ, nhất là nhạc của ông dường như gắn liền với thơ, với những khung trời thơ mộng lãng mạn. Trong hành trình sáng tác, từ nhạc có lời sang nhạc không lời, từ những bản nhạc đầu tay như Hoài Cảm, Hương Xưa như những bài thơ văn xuôi trữ tình sang cả đến những bản nhạc về sau vượt qua cửa ải ngôn ngữ. Nhạc không lời có âm vực riêng và có phong cách diễn tả dễ làm người nghe xúc động...

Nhạc của Cung Tiến liên quan thế nào với thi ca? Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm soạn cho 21 nhạc khí được trình diễn tại San Jose với dàn nhạc thính phòng. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là một áng thi ca nổi danh của dân tộc Việt nam viết về một giai đoạn chiến tranh của đất nước. Theo lời phụ dẫn của tác giả thì thi phẩm này vô cùng súc tích về cảnh, về cách xử dụng ngôn ngữ cũng như nhạc đệm của tiếng Việt. Vì thế không ai dám nghĩ đến việc phổ nhạc cả tập thơ để hát mà chỉ dùng nó như một cảm hứng cho sáng tác của mình. Do đó nhạc tấu khúc này cũng chỉ là một cố gắng “minh họa” chấm phá bằng nhạc một số tình, ý, và cảnh chính yếu trong tập thơ mà thôi. Theo đúng thứ tự xuất hiện trong thi phẩm của bà Đoàn Thị Điểm thì tập nhạc gồm 4 phần : Phần giáo đầu với sự phụ họa của các nhạc khí sẽ ngâm giọng sa mạc mười hai câu thơ mở đầu cho tập Chinh Phụ Ngâm: ”Thuở trời đất nổi cơn gió bụi / Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyến /...”.

Phần thứ hai : Chuyển động I – Nuớc thanh bình – Cơn gió bụi. Minh họa 2 câu: “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Chuyển động chấm dứt bằng cảnh tiễn biệt, chia tay của chinh phu chinh phụ

Phần thứ ba chuyển động II: nhạc đề chính từ 4 câu thơ “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi / mặt chinh phu trăng dõi dõi soi / Chinh phu tử sĩ mấy người / nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”

Chuyển động III: Mộng khải hoàn. Chủ đề chính là hai câu thơ ”Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải / Tiếng khải ca trở lại thần kinh” và hai câu thơ ”Giở khăn lệ chàng trông từng tấm / Đọc thơ sầu chàng thấm từng câu”

Phần bạt : từ bốn câu chót của chinh Phụ Ngâm : ”Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ? Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình / ngâm nga mong gửi chữ tình / dường này âu hẳn tài lành trượng phu”

Tiếp theo ông có những nhạc tấu khúc. Năm 1982, nhạc sĩ Cung Tiến lấy 10 bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền để soạn thành ca khúc lấy tên là “Vang Vang Trời Vào Xuân.” Năm 1992, ông hoàn thành tập nhạc Ta Về, thơ Tô Thùy Yên cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, ông soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho giàn nhạc giao hưởng với sự tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc Quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác. Năm 2003 ông hoàn thành một sáng tác nhạc đương đại Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành dựa trên một đoạn dân ca Quan họ.

Trường hợp nào mà ông phổ nhạc thơ của thi sĩ Thanh tâm Tuyền? Chính nhạc sĩ đã kể lại về trường hợp sáng tác này:

“Năm 1991, họa sĩ Duy Thanh từ San Francisco gửi cho tôi tập văn / thơ / nhạc Tắm Mát Ngọn Sông Đào, do nhà Lá Bối mới in ở Paris gồm những sáng tác của một số văn nghệ sĩ miền Nam gửi lén ra từ các trại tù cải tạo.

Trong tuyển tập này có một số bài thơ của một Trần Kha nào đó. Duy Thanh, bằng thư tín với gia đình Thanh Tâm Tuyền còn ở Sài Gòn, bảo rằng ấy là thơ “bạn ta” đấy. Quả nhiên khi đọc tôi nghe thấy đúng là ý và lời của Thanh Tâm Tuyền. Sau này được hỏi ”Sao lại Trần Kha? Muốn làm Kinh kha chăng?” Thanh Tâm Tuyền đáp: Tôi đâu có đặt cái tên kỳ cục ấy! Giá như “Trầm Kha” thì nghe còn đỡ hơn.

Để nhớ tới và vinh danh người bạn thiết, lúc ấy vẫn còn đang “lao cải” trong “các trại học tập cải tạo” của Cộng sản Bắc Việt năm 1982-1983 tôi đã lựa 10 bài “ngục trung thi” của ông để soạn thành một liên ca khúc (song cycle) mang tên Vang Vang Trời Vào Xuân. Tập ca khúc soạn cho giọng hát và piano được biểu diễn lần thứ nhất tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn năm 1985 dưới sự bảo trợ và tổ chức của cặp bạn Lê Văn / Xuân Lan với hai giọng hát xuất sắc Mai Hương và Quỳnh Giao, nhạc sĩ quá cố Nghiêm Phú Phi (1930-2008) đàn piano và Lê Văn (đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, VOA) giới thiệu chương trình.”

Hình như nhạc sĩ Cung Tiến có một biệt nhãn nào đó với thơ Thanh Tâm Tuyền. Phải nói thơ Thanh Tâm Tuyền rất khó phổ nhạc bởi vì thơ của ông có âm điệu khá đặc biệt, hay xử dụng vần trắc và diễn tả ý nghĩa cũng theo một cung cách âm vực riêng. Nhưng nhạc sĩ Cung Tiến đã phổ nhạc thành công có lẽ nhờ tình tri âm tri kỷ với nhau. Sau này, nhạc sĩ đã hỏi nhà thơ khi ông đang định cư tại Minnesota ”ông làm bài này trong tâm trạng nào?” về bài thơ “in trong tập Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. Thanh Tâm Tuyền trả lời ”Tức là... dạo ấy mình đã chán làm thơ quá rồi. Miền Nam thì coi tôi như là thi sĩ tả phái, và miền Bắc thì coi tôi là thi sĩ hữu phái. Thế thì tôi là kẻ untouchable rồi, là hủi rồi chứ còn gì nữa? Thì làm thơ thêm làm quái gì cho mệt?“ Thành ra, bài hát ấy muốn lấy nhạc minh họa cho tâm trạng chán chường day dứt của cái ông thi sĩ lúc nào cũng thấy mình cứ vẫn “còn cô độc" này”.

Vói thi sĩ Vũ Hoàng Chương ông cũng có lòng kính trọng và liên tài không kém. Ông viết về trường hợp đã sáng tác bản nhạc Hoàng Hạc lâu từ bản thơ dịch từ Đường Thi Thôi Hiệu:

“Vì sao tôi lấy tên ca khúc Hoàng Hạc Lâu đặt tên cho Tuyển tập I này? Ấy là để ghi lại biến cố lịch sử 1975 của dân tộc ta, kết thúc cuộc nội chiến Nam Bắc đau thương trên hai mươi năm với những ly tán, thù hận, oán ghét, Năm 1976 lúc tôi mới qua Úc Châu định cư, cố họa sĩ Ngọc Dũng (1930-2000) từ Hoa Kỳ gửi cho tôi bài thơ tên ấy của Vũ Hoàng Chương (1916-1976) dịch thơ Thôi Hiệu (670-727). Xúc động vì lời thơ và nhớ tới thi sĩ ( lúc ấy đang bị giam cầm tại khám Chí Hòa) tôi đã phổ nhạc bài này với ý định sẽ gửi về Sài Gòn để Thái Thanh hát cho nhà thơ nghe. Không dè “Thi Vương“ họ Vũ (như Vũ Hoàng Chương tự xưng trong bài thơ Nét Đau Mặt Chữ) đã mất khoảng một hay hai tháng trước khi tôi có dịp gửi về Việt Nam. Trong sáng tác này để gợi không khí Đông Phương của Đường thi tôi đã dùng tự do thang âm ngũ cung để soạn giai điệu và hòa âm và đây cũng là lần đầu tiên tôi sử dụng một cách có ý thức chất liệu quý báu này của âm nhạc dân tộc ta.”

Bản dịch thơ Hoàng Hạc Lâu của thi bá Vũ Hoàng Chương mà có người cho rằng còn hay hơn cả nguyên tác và là một tuyệt bút của nỗi niềm tượng trưng cho một thời đại đặc biệt Việt Nam :

”Xưa hạc vàng bay vút bóng người

Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Trắng một mầu mây vạn vạn đời

Cây bến Hàm Dương còn nắng chiếu

Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi

Gần xa chiều xuống nào quê quán

Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”

Ca sĩ mà cũng là nhà văn Quỳnh Giao nhận xét:

”Toàn bài Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Đông Phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài “Clair De Lune”. Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Đông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy “Arpège” rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái...

Bìa Hoàng Hạc Lâu là viên ngọc quý của thơ Đường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết gợp lạ kỳ của tình cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ của nhạc. Điều hơi tiếc là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam chúng ta khi mình đã mất hết.

Lần cuối mà miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào Tháng ba năm 1975 tại phòng trà của Khánh Ly do Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Đã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác “Vàng tung cánh hạc”... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt. Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ và nhạc.”

Nhạc sĩ Cung Tiến còn phổ nhạc rất nhiều những bài thơ độc đáo của những thi sĩ nổi danh. Ông đã phổ nhạc rất nhiều. Như bản “Nguyệt Cầm" ý thơ Xuân Diệu như bản : Hoàng Hạc Lâu” từ bản dịch thơ của Vũ Hoàng Chương. Như “Vết Chim Bay” phổ thơ Phạm Thiên Thư. Như “Thuở làm Thơ yêu Em” phổ thơ Trần Dạ Từ. Như “Đi Núi” phổ thơ Xuân Diệu. Như “Đường Hoa “ phổ từ bài thơ “Đôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng. Như ”Khói Hồ Bay” phổ từ bài thơ ”Thu ở Vermont” của Nguyễn Tường Giang. Như bài “Lệ Đá Xanh” và “Đêm” phổ thơ Thanh tâm Tuyền…

Phổ thơ Thanh Tâm Tuyền, từ những bài như Lệ Đá Xanh hay Đêm, nhạc sĩ Cung Tiến dường như ở trong tình trạng cùng chia sẻ với và chung xúc dộng cùng. Ông bày tỏ: ”Thơ Thanh Tâm Tuyền được sáng tác trong những năm đầu thập kỷ 50 và xuất hiện trong tập thơ đầu tay của ông mang tựa đề ”Tôi không còn cô độc” Sáng Tạo in năm 1956. Tôi phổ nhạc thi khúc này năm 1957 lúc đang học năm thứ nhất đại học ở Sydney, Úc Châu. “Đá Xanh” chỉ giản dị là thứ đá cứng màu xanh đập nhỏ ra để trải đường trước khi tráng nhựa. Vì với những viên đá xanh phải chăng vì những hạt lệ thầm “khóc không rơi ngoài trái tim mình” của nhà thơ đã không chảy được thành dòng mà đóng thành khối cứng, vô hình? Người nhạc sĩ bạn quá cố phạm Đình Chương năm 1970 đã trích mấy giai điệu gần cuối của ca khúc này để viết Nửa Hồn Thương Đau, bài hát chính trong phim Chân Trời Tím...”

Có một bản nhạc của nhạc sĩ Cung Tiến được giải thưởng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Giai điệu ca khúc ”Mùa Hoa Nở” được soạn tại Sài Gòn năm 1955 đáp ứng thông cáo về cuộc thi của Đài Phát Thanh Quân Đội bấy giờ đang kiếm một ca khúc nào nói về cuộc di cư lịch sử vào Nam của những người miền Bắc để tránh chế độ Cộng sản. Ca khúc Mùa Hoa Nở được chấm giải nhất của Tổng Thống VNCH và được hai đài phát thanh Quốc Gia và Quân đội trình diễn nhiều lần trong nhiều năm với hòa âm và phối khí cho dàn nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng.

Nôi dung lời ca của ca khúc này nói về giấc mơ khải hoàn của những đoàn chiến sĩ quốc gia tiến về giải phóng Hà Nội…

Có những bài nhạc Cung Tiến hoàn thành rất sớm khi còn tuổi thanh thiếu niên nhưng lại có giá trị trường cửu. "Thu vàng “ và “ Hoài Cảm “ là những bản nhạc mà Cung Tiến đã sáng tác sớm nhất khi vừa 15 tuổi còn học ở trung học. "Thu vàng” viết về mùa thu Hà Nội của những ngày ấu thơ nhặt lá vàng. Ca khúc trở thành một bản nhạc của những người di cư luôn nhung nhớ quê hương đất Bắc của mình rất được thính giả ưa thích qua phần trình diễn trẻ trung sống động của Tâm Vấn, Đỗ Tuấn, Kim Tước, Mai Hương,... toàn là các ca sĩ trẻ trong giới sinh viên học sinh. Tiếp theo, ông viết “Hoài Cảm” để tặng Đỗ Đình Tuân (tức ca sĩ sinh viên Đỗ Tuấn) và cũng được ái mộ ngay từ buổi trình diễn đầu tiên. Theo nhạc sĩ Cung Tiến thì “đó là hai trong số những bài hát sớm nhất được viết năm 1952 hồi tôi đang học năm thứ ba bậc trung học. Người đầu tiên đem phổ biến hai bài này trên đài Phát Thanh Quốc gia dạo ấy là Đỗ Tuấn rồi tới ca sĩ Tâm Vấn, nhất là bài Thu Vàng. Giai điệu và hòa âm của hai bài này đơn giản cấu trúc và nhạc thể rất chân phương và lời ca mang ảnh hưởng nặng của các nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu, Huy Cận.”

"Hương Xưa” là bài nhạc Cung Tiến gửi tặng Khuất Duy Trác, một người bạn thân thiết của ông. Và cũng từ chính giọng hát của Duy Trác đã đem “Hương Xưa" đến đài phát thanh và các tiền trường sân khấu của các trường trung học hoặc đại học và trở thành một hãnh diện của những người trí thức trẻ say mê văn nghệ.

Nhưng tại sao, chính nhạc sĩ lại coi những ca khúc này như những bài tập - exercise mà thôi? Đó là một cá tính của nhạc sĩ Cung Tiến. Trong sự nghiệp âm nhạc của ông có nhiều giai đoạn phải tự vượt qua. Cung Tiến viết nhạc đầu tay ca từ trữ tình lãng mạn. Cung Tiến không xử dung ca từ thi ca của mình mà lại phổ nhạc những bài thơ mà ông ưa thích và quý trọng. Rồi sau đó ông không viết nhạc có lời nữa mà viết nhạc không lời. Có lẽ ông nghĩ rằng nếu đích thực là âm nhạc thì nhạc có ngôn ngữ riêng và cũng có những quy luật diễn tả tự nhiên như trời đất vẫn hiện hữu.

Với sự thay đổi chủ đề cũng như tìm tòi để có những ý tưởng cũng như giai điệu đấy chất sáng tạo như thế chắc căn bản nhạc lý của ông vững vàng lắm?

Thì trong thực tế chúng ta tìm ngay được câu trả lời. Với niềm say mê âm nhạc, ông đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh ở bậc trung học. Du học qua Úc, tuy môn học chính là kinh tế nhưng ông cũng đã theo học các lớp về dương cầm, hòa âm, đối điểm và phối cụ tại âm nhạc viện Sydney. Rồi khi du học bậc cao học về kinh tế học phát triển tại viện đại học Cambridge ở Anh, ông cũng theo học thêm các lớp về nhạc sử, nhạc học, nhạc lý hiện đại. Và về sau này ông cũng là người tự học rất nhiều nên trong các tác phẩm của ông đã bày tỏ sự gắng công dù ông có thiên khiếu về âm nhạc. Và hình như, ông vẫn tự coi mình là một amateur trong âm nhạc, một nghệ sĩ tài tử coi bộ môn này như một thú tiêu khiển làm đẹp cuộc đời…

Nếu có một kết luận thì tôi sẽ kết luận như thế nào về chân dung nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ? Tôi nghĩ mình khó mà gói ghém được tất cả những điều gì mà mình nghĩ về và cảm nhận về. Thôi thì mượn lời của nhà văn Phan Lạc Phúc vậy. Theo ông thì những bài hát đầu tay của Cung Tiến từ khi xuất hiện tới nay, trên 40 năm, không lúc nào ngừng tỏa hương thơm. Một hương thơm dịu dàng sâu kín, có để ý tìm mới thấy. Nó không gây ồn ào như một số nhạc thời thượng, tiền tuyến, hậu phương, du ca, về nguồn, thân phận nhưng có một sức sống riêng bền bỉ. Đó là một khu vườn Cung Tiến không lẫn với ai, nhạc “xưa” nhưng không cũ bao giờ, nghe càng lâu càng thấm. Nó chịu được sự thử thách của thời gian”.

Nguyễn Mạnh Trinh


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu, Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.