Thi nhân yêu
quê hương và hình như lúc nào trong tâm thức cũng lẩn quẩn những
bước chân hay những hình bóng của quê nhà. Với Quang Dũng, quê
hương là con sông Đáy hiền hòa một dòng lửng lơ chậm rãi giữa
hai bờ xanh tươi những bãi mía nương dâu. Quê hương là Bương,
Cấn, là núi Sài Sơn, là những làng đồi, có những giếng nước
trong soi đôi mắt cô thôn nữ đa tình:
“Bao giờ
trở lạo đồng Bương, Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng..”
Sơn Tây, nơi
có “đôi mắt người Sơn Tây / u uẩn chiều lưu lạc / buồn viễn
xứ khôn khuây.” Sơn Tây, nơi “vừng trán em mang trời quê hương /
mắt em dìu dịu bùôn Tây Phương / Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
/ em có bao giờ em nhớ thương/”
Bài thơ “Đôi
mắt người Sơn tây” mang cái u uẩn của người xa xứ, luôn hoài ụ
niệm nhớ về quê làng xưa, thôn ấp cũ. Chiến tranh làm mọi người
trôi dạt, nhưng vẫn mong có ngày trở về, để nghe tiếng sáo thanh
bình, thấy lại đỉnh Ba Vì, để thấy lại quê Bất bạt…
Và, không
phải Quang Dũng chỉ là một thi sĩ, mà ông còn là nhạc sĩ. Bài
hát “Ba Vì” thông dụng trong thời kháng chiến có những câu như:
“Ba Vì mờ
cao
làn sương chiều xa buông
gió về hương ngát thơm
đưa hồn về đâu?..
Một bản nhạc
của tấm lòng yêu quê hương thiết tha!
Quang Dũng (1921-1988) từ trần vào ngày 14 tháng 10 năm 1988 thì
vào ngày này mười lăm năm sau, năm 2003, tình cờ tôi giở đúng
một trang sách cũ viết nhân ngày kỷ niêm năm năm ngày mất của
thi sĩ. Bài viết “Khúc Độc Hành Quang Dũng” của một tác giả tên
Văn Chinh đăng trong nguyệt san Văn Nghệ Quân Đội xuất bản ở Hà
Nội tháng 10 năm 1993. Trong đó tôi tìm được một vài đoạn làm
tôi suy nghĩ. Như:
“… Dọc con
đường đến hiệu cà phê Hói, tôi cứ trân trân ngó tấm lưng gấu hơi
gù của Quang Dũng, lòng cứ thắc mắc mãi. Một thân hình cao to
quá khổ, mỗi bữa ăn hết một cân gạo cơm mậu dịch với năm mét
phiếu vải và mười ba cân rưỡi gạo, ông sống thế nào nhỉ ? Vậy mà
ông đã đổ vạ cho tôi những tội danh “anh hùng cá nhân tiểu tư
sản”! Trong sổ tay chép thơ hồi tôi còn đi học có bài Tây Tiến.
Bị phát hiện, tôi phải làm kiểm điểm. Tôi còn nhớ rất rõ những
day dứt tự xỉ vả và cả quá trình phấn đấu đầy nhọc nhằn xóa bài
thơ khỏi trí nhớ và thản nhiên đốt cuốn sổ tay thơ. Cũng còn nhớ
cảm giác chân thành thích thú rồi chân thành ghét bỏ Tây Tiến…”
Ơ kìa, tại
sao một bài thơ có thể gọi là tuyệt tác của thi ca Việt Nam mà
lại bị coi như tài liệu quốc cấm như thế? Tại sao mà phải nhọc
nhằn xóa bỏ bài thơ, phải đốt bỏ, phải tự kiểm điểm để ghét bỏ
nó? Có phải vì chính sách chủ trương của lãnh đạo văn nghệ Đảng
như vậy?
Nhà thơ Quang
Dũng đã tự nói về bài thơ tuy tâm huyết nhưng lại gây tai họa
cho cuộc đời mình như sau trong bài viết “Nhớ về Tây Tiến “ in
trong Sách Nhà Văn nói về Tác Phẩm, Nhà xuất bản Văn Học :
“.. Chúng tôi
lúc đầu đi bằng ô tô, sau chuyển sang hành quân bằng đôi chân,
thực sự nếm mùi Tây Tiến: mở rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm
thẳm ”heo hút cồn mây súng ngửi trời”, những chiều “oai linh
thác gầm thét”, những đêm “Mường Hịch cọp trêu ngươi” .. tôi mô
tả trong thơ rất là thực… Hồi ấy trong đoàn chúng tôi có rất
nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu
thốn nên bộ đội không những bị ốm mà còn chết vì sốt rét cũng
nhiều. Chúng tôi đóng quân ở nhà dân cứ mỗi lần nghe tiếng cồng
nổi lên, lại tập trung ra đến nhà trưởng thôn để tiễn một con
người vĩnh biệt núi rừng. Tiếng cồng ở Tây Tiến thật buồn. Buồn
đến nẫu ruột. Kể chuyện lại, bây giờ tôi vẫn nghe văng vẳng
tiếng cồng… “
Tại sao một
bài thơ mà mang lại nhiều hứng cảm cho tác giả đến cả mấy chục
năm sau lại bị để ý và coi như là có “vấn đề” ? có phải vì thành
phần “tạch tạch sè (tiểu tư sản)” của lý lịch tác giả? Hay vì
lòng ghen tài của thợ thơ Tố Hữu người cầm cân nẩy mực lãnh đạo
văn nghệ của Đảng? Hoặc vì ý tưởng lãng mạn của bài thơ nói thực
cái tâm cảm của một người yêu nước? Chỉ biết, về sau, một tài
năng thơ như Quang Dũng mà phải long đong mưu sinh và những tác
phẩm sau cũng là những gượng gạo, những bươc chân đi trong vòng
kiềm tỏa, mang mang tâm thức của một người bất đắc chí lầm lũi
trong cuộc nhân sinh. Cơm áo bó buộc, ăn không đủ no, mặc không
đủ ấm, những nhu cầu tối thiểu của một con người cũng chưa đầy
đủ, chưa nói đến cái nổi hãi sợ cứ luôn ám ảnh. Hoàn cảnh ấy làm
sao mà có được môi trường sáng tác tốt cho văn chương hiển lộng?
Nhà văn Phan
Lạc Tiếp khi từ hải ngoại trở về thăm quê nhà có ghé đến thắp
hương trên bàn thờ nhà thơ Quang Dũng và cảm khái :
“.. Và những
ngày cuối đời của Quang Dũng thật buồn. Ốm đau nằm không còn nói
được. Và đến lúc ấy, lúc nằm chờ chết, Hà Nội mới cho in tác
phẩm của anh, “Mây Đầu Ô“ vào tháng 5 năm 1986. Bạn bè đến thăm
và mừng tác phẩm anh phải nhờ con viết và ký hộ. Cứ vất vưởng
như thế “làm khổ vợ con”:
“Răng
long, đầu bạc lo cơm áo
Tay em : chìa khóa của đời anh
Cái nghèo đeo đuổi mãi không thôi
Chăn không có đắp, tiết đông rồi
Các con oán mẹ không tháo vát
các con trách cha không thức thời..”
Từ xưa đến
nay, chiến tranh đã là một hứng khởi cho thi nhân. Chỉ có nỗi
niềm của người chinh phu chinh phụ cũng đủ làm cho tâm tư người
đọc rung động thiết tha với biết bao nhiêu liên tưởng trùng
điệp. Có mấy ai không cảm thấy chất ngất qua những câu Lương
Châu từ của Vương Hàn đời Thịnh Đường “Bồ đào mỹ tửu dạ quang
bôi. Dục ẩm tì bà mã thượng thôi. Túy ngọa sa trường quân mạc
tiếu. Cổ Lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà cụ Vân Bình Tôn Thất
Lương đã dịch:
“Rượu bồ
đào, chén dạ quang
Ngập ngừng muốn uống tiếng đàn giục đi
Say nằm bãi cát li bì
Xưa nay chinh chiến người đi ai về”
Hay, đọc
những câu Chinh Phụ Ngâm, những xúc cảm lại rưng rưng trong tâm
thức. Những hùng tráng trộn lẫn với những thiết tha, nỗi nhớ
mong cộng với niềm cô quạnh, tất cả làm thành một thế giới lãng
mạn cho ký ức mỗi người. Những hình ảnh tạo dựng bằng thi ca đã
thành những vệt ghi chép hằn trong bộ óc nhớ maĩ tận ngàn sau.
Tôi lại nhớ
đến những câu thơ Nguyễn Bắc Sơn. Những vần hào sảng ngang tàng.
Những hình ảnh đẹp mà buồn bã, những câu thơ hùng tráng mà vẫn
đầy chất lôi cuốn Thơ như những giong tay đi vào một thế giới
lửa đạn, những câu như : ”… Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu.
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo. Mang trong đầu những ý nghĩ
trong veo. …’’ hay “Lỡ mai đụng trận may còn sống .Về ghé
sông Mao phá phách chơi. Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm. Đốt
tiền mua vội một đêm vui…“ Những nỗi buồn rất thật. Chiến
tranh của những người yêu hòa bình, cầm súng để tự vệ. Bao nhiêu
năm, những thanh niên cùng huyết thống giết nhau vì trò chơi chủ
nghĩa. Máu xương chồng chất, sinh lực dân tộc bị phung phí vào
đấu trường bày ra bởi những cường quốc chia hai phe quốc cộng
tương tàn lẫn nhau. Vì chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai, miền Bắc
gây ra cuộc chiến để bao nhiêu bi kịch xảy ra suốt mấy chục năm
cho dân tộc. Thơ Nguyễn Bắc Sơn buồn như tâm sự mênh mang thiên
cổ, của tấm lòng thi sĩ sinh bất phùng thời. Thơ là kết tinh từ
nỗi đau gửi gấm lại cho đời những hằn dấu chung mang của cả một
thế hệ. Thơ có chia sẻ chung của những con tim đập những nhịp
đập của thời quốc biến vang dội từ tiếng trống thúc quân xa xưa
đến âm vọng chinh phu chinh phụ bây giờ. Tôi thích thơ Nguyễn
Bắc Sơn bởi lắng nghe một mẫu số chung của thời đại chúng tôi từ
ngôn ngữ chân thành và nhịp điệu giục giã. Những người lính,
không chỉ đơn thuần là những chiến sĩ mà là những con người tràn
đầy tình cảm. Thơ nẩy sinh từ traí tim…
Trở lại bài
thơ Tây Tiến của Quang Dũng vẽ laị những hào hùng của những
chàng trai Hà Nội. Theo lời nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền
hay kể về đơn vị đặc biệt này thì Trung đoàn Tây Tiến thành lập
từ đầu năm 1947 gồm những chàng trai tiểu tư sản xuất thân từ
thành thị. Họ xuất quân đi về phía biên giới Lào với những địa
danh như châu Mai, châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng qua phía tây
Thanh Hóa. Lính Tây Tiến có những học sinh cũ các trường Bưởi,
Thăng Long, Bảo Hộ … như Quang Dũng, Vạn Thắng, Tuấn Sơn, Như
Trang. .. Lại có những nhân vật đặc biệt như bác sĩ Phạm Ngọc
Khuê, hay cô y tá nổi tiếng hoa khôi một thời của Hà Thành mỹ
danh Phương Lan một thời đã làm rung động những trái tim trai
trẻ….
Quang Dũng viết bài thơ trong cái hào khí một thời, chất ngất
xúc cảm, đầy ắp không khí của Kinh Kha bên bờ Dịch Thủy:
“Sông Mã
xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi…”
Những câu thơ mang lại tai họa cho Quang Dũng. Những câu thơ mà
ngày sau có người đọc lại bị lôi cuốn vào những xúc động trùng
trùng. Thơ như những làn kiếm sắc, vút lên rồi loang loáng ánh
trăng. Những ngôn ngữ có âm vang của đồng vọng thiên cổ, của
những hy sinh vô bờ mà con dân nước Việt ra đi không tiếc nuối
xác thân:
“.. Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
Tây tiến là
một cuộc hành quân qua Lào từ ngõ Tây bắc để mở một mặt trận mới
nhằm chia sẻ chủ lực của quân Pháp. Địa hình cực kỳ hiểm trở, và
cuộc di hành đầy gian khổ đói rét. Trung đoàn Tây Tiến sau cuộc
hành quân trở về bị hao hụt quân số trầm trọng. Nhưng, theo Đỗ
lai Thúy thì nhan đề của bài thơ còn một ý nghĩa nữa :
“..Đó là một
chuyến đi về phía Tây, phía núi, phía mặt trời lặn, phía, theo
quan niệm dân gian, của những người chết. Không phải ngẫu nhiên
mà xưa nay nghĩa địa làng, những làng ma đều ở phía tây. Và
người chết đều được chôn chân về hướng núi, Tây Tiến như vậy, là
từ (chìa khóa của bài thơ, bó lá dứa gai treo trước cổng những
ngôi nhà tang tóc, điềm báo về cái chết. Anh bạn dãi dầu
không bước nữa / Gục bên súng mũ bỏ quên đời..”
Nhưng cũng có
lúc, sự lãng mạn đã đưa suy tưởng đến vùng liên tưởng xa hơn
không gian và thời gian hiện tại. Mơ mộng giống như một sự thúc
đẩy như hình ành vườn lê thơm ngọt của Tào Tháo gợi ra khi cả
đoàn quân đang khát nước đến cực độ. Con người chiến sĩ cùng với
tâm thức thi sĩ đã vượt qua những khắc nghiệt của chiến tranh,
những gian nan của thiên nhiện cheo leo hiểm ác. Một phản xạ lạc
quan của những người vì lòng yêu đất nước mà quên mình:
“Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa
kìa em xiêm áo tự bao giờ
khèn lên man điệu nàng e ấp
nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
người đi châu Mộc chiều sương ấy
có thấy hồn lau nẻo bến bờ
có nhớ dáng người trên độc mộc
trôi dòng nước lũ hoa đong đưa..
Những câu thơ
diễn tả lại một tâm trạng của một thế hệ. Có câu thơ nào gợi lại
cho chúng ta một cảm giác mạnh mẽ hơn câu thơ “áo bào thay chiếu
anh về đất. Sông Mã gầm lên khúc độc hành…” Chữ “gầm lên khúc
độc hành” thật nhiều gợi cảm, thật nhiều liên tưởng đến những
hình ảnh một thời hào hứng của đất nước chiến tranh.
Rồi câu “mắt
trừng gởi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…“ lại
bị phê bình là đầy chất tiểu tư sản mà mục tiêu nhắm đến của
những cuộc đấu tranh giai cấp. Kháng chiến gian khổ mà còn nghĩ
đến tình cảm lãng mạn ngại khó ngại khổ không chịu hy sinh!!!
Đảng chuyên
chế muốn con người thành những bộ máy vô tri không yếu mềm tình
cảm. Thành ra, chế độ ấy đã mang cơm áo làm vòng kim cô để trói
buộc con người. Cũng như, những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường
một đời trí thức thông minh tài hoa hết mực mà bị chế độ trù dập
đến khi chết mà vẫn còn thấy “sợ “. Họ đánh vật với sinh kế chưa
xong nói gì đến chuyện thực hiện những tâm đắc của đời mình. Một
người như Nguyễn Tuân mà giới văn nghệ gọi là Nguyễn Bất Tuân
với nhiều giai thoại cũng phải chịu khuất phục và thú nhận mình
sống còn đến lúc đó là biết sợ.
Quang Dũng
thời kháng chiến tài hoa là như vậy, anh dũng là như vậy mà sau
này bị loại khỏi quân đội, làm một nhân viên có cấp bậc lương
thấp kém nhất và lúc nào cũng lẩn quẩn với sinh kế, vật lộn đến
hụt hơi với cái ăn cái mặc. Người ông to cao nên sức ăn cũng
nhiều hơn người thường nên bị đói kinh niên. Thảm thương cho
người thi sĩ khi qua một câu chuyện kể về một bữa ăn giữa Quang
Dũng và Nguyễn Tuân. Khách là Quang Dũng ăn hết tám bát xôi thịt
trong khi người mời là Nguyễn Tuân chỉ ăn có một bát. Và câu mời
lễ phép “Thưa ông, ông dùng nữa ạ?” của tác giả Vang Bóng Một
Thời Với câu trả lời bình thản của Quang Dũng “Vâng“ tới tám lần
như một điệp khúc nhói đau, của những người sinh ra lầm thế kỷ.
Một người văn võ toàn tài, biết võ nghệ, đánh kiếm, lại thơ văn
trác tuyệt, thế mà cứ lủi thủi trong góc hẹp thành phố để có lúc
phải thét lên trong Mây Đầu Ô :
Mây ở đầu
ô mây lang thang
Ôi ! chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ…”
Cho nên, khi
Quang Dũng được nghe những bài thơ như Đôi Bờ hay Đôi Mắt Người
Sơn Tây được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc qua giọng hát
Thái Thanh thì nước mắt lại ròng ròng vừa cảm khái vừa sợ sệt.
Cũng như khi nghe ai đó tán thưởng câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng
kiều thơm “ thì thi sĩ lại chắp tay lại than thở “Tôi suốt
một đời khổ vì những câu thơ này!”.Ôi một chế độ bạo tàn
đã làm sĩ khí Bắc Hà chỉ còn như trong chuyện cổ tích. Đã xa xôi
lắm rồi có phải những ngẩng cao đầu đứng dậy nhìn ánh mặt trời?…
Thế mà vẫn còn những câu thơ sống mãi. Như bài thơ Tây Tiến, như
Đôi Mắt Người Sơn Tây…
|