Ý nghĩ ngày đầu năm
Ngày đầu năm. Một năm
đi vèo qua. Nhưng vẫn có một chút âm hưởng. Thế mà. Hàng chữ vẫn còn
nguyên trên trang giấy trắng. Biết viết gì đây để khai bút nhân dịp
đầu năm. Năm nay, lễ vào dịp cuối tuần nên thời giờ cũng có phần
thoải mái. Có năm, đầu năm đi làm như thường lệ, buổi sáng nhìn xa
lộ dày dặc màn sương mà lại nghĩ đến câu thơ Cao Tần, lái xe đi từ
căn nhà tòng teng đỉnh dốc để thấy đời mình cũng chênh vênh theo.
Hai mươi sáu năm ở xứ
người mà sao nhanh quá. Năm tiếp năm, tháng tiếp tháng, ngày lại
ngày, cuộc sống vèo qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu mưa, bao
nhiêu nắng. Trong ký ức, sao mhạt nhạt những niềm nhớ. Trong giấc
ngủ, hiu hắt biết bao những giấc mộng ấu thời. Ngày nào, hăng hái
những ôm ấp, làm đẹp cho đời, làm đẹp cho mình. Sống cho ra sống,
như chuyện lập thân ngày xưa, gánh vác cuộc nhân sinh. Dù biết rằng
mình là một người may mắn trong cuộc đời, nhưng sao vẫn thấy nao nao
khi nghĩ về những cơn mơ ngày ấy. Chí lớn chưa về bàn tay không…
Hai mươi sáu năm. Từ
ngày bắt đầu học một nghề và bắt đầu vướng vào một nghiệp. Bắt đầu
từ tuổi ngoài ba mươi, vừa làm vừa học để có một nghề mưu sinh nhưng
cũng cảm khái biết bao với những năm ngần ấy chập chững nghiệp cầm
bút. Làm thơ, viết văn, mới đầu chỉ là để trang trải tâm sự của mình
nhưng sau lại trở thành một công việc kết thành từ sự say mê. Viết
và sống, sống và viết, như hai mặt âm dương của cuộc nhân sinh. Mỗi
năm, ở vào thời điểm như hôm nay, trong cái bắt đầu của cuộc tuần
hoàn mới, tránh sao khỏi được sự ngoái nhìn về một năm đã qua...
Có người bạn, hỏi tôi,
bạn nghĩ gì về văn học Việt Nam qua một năm đã qua. Tôi hơi tức
cười, vì mình là người hay đặt câu hỏi ấy với các văn nghệ sĩ nhân
những cuộc phỏng vấn đầu năm. Những chữ như : nghĩ gì, nhân xét,
đánh giá… dường như quen thuộc lắm. Thế mà, bây giờ bị hỏi ngược
lại. Cũng y hệt một câu hỏi…
Thực ra, đã có nhiều
người đã suy nghĩ và trả lời câu hỏi tuy ngắn nhưng phức tạp ấy.
Nhìn vào thực trạng, thực khó mà có câu trả lời bao quát được hết
các sinh hoạt văn chương, từ trong ra ngoài nước. Người viết, ở
nhiều lứa tuổi khác nhau, sinh sống ở nhiều môi trường địa bàn khác
nhau, mỗi người một nét nên cũng khó để phân tích thành những trường
phái hay khuynh hướng. Người đọc, nhất là ở hải ngoại, thì dần dần
bị hao mòn đi. Có một nhà văn cho rằng có sự lão hóa trong cả người
viết cũng như người đọc. Và như thế, tương lai của nền văn học ấy
cũng chẳng sáng sủa gì lắm.
Trước đây, cũng đã có
người phê phán rằng người viết ở hải ngoại bị đóng khung trong những
thiên kiến và chỉ viết được những tác phẩm chỉ tồn tại được một
thời. Những đề tài như tù cải tạo, như những cuộc vượt biên, hay tố
cáo những hà khắc chính trị,,, sẽ bị nhàm đi và từ từ không còn giá
trị nữa. Vị trí của người cầm bút sẽ dần dần mất đi tính lưu vong
đối kháng với chế độ đương thời. Ngược lại, những đế tài về con
người muôn thuở hay lịch sử rốt cuộc sẽ là đề tài lớn và vượt qua
được sự đào thải của thời gian.
Nhà văn Solhzenitsyn đã
viết bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương và nêu rõ tính chất của
những người viết văn lưu vong đứng về phía đối kháng với chế độ độc
tài. Tác phẩm của ông như ”One Day in the Life of Ivan Denisovich”
hay “The Gulag Archipelago” mặc dù viết về ngục tù, mặc dù rõ ràng
tính chất phản kháng nhưng vẫn có giá trị về sau này, cả khi chế độ
Cộng Sản đã sụp đổ.
Như vậy, không phải là
những đề tài phản kháng chế độ là những đề tài chỉ có giá trị nhất
thời. Ngược lại, nếu ở những cây bút có nghệ thuật diễn tả cao, sẽ
là một yếu tố để làm tác phẩm vượt qua được sự đào thải của thời
gian.
Những sự tiên đoán
thường ít chính xác. Các nhà văn nhà thơ có uy tín như Võ Phiến,
Nguyên Sa,.. khi viết về tương lai của văn học Việt Nam ở hải ngoại
thường có sự dè dặt. Bởi, trong thực tế, có rất nhiều sự kiện bất
ngờ. Tới hôm nay, nền văn học ấy vẫn là một thực thể mà những người
trong nước dù khác chính kiến cũng không phủ nhận được. Có rất nhiều
khó khăn, từ người viết đến độc giả, từ môi trường sống cũng như yếu
tố để phát triển,.. tất cả tưởng như là những điều chẳng thể vượt
qua. Nhưng, rồi sinh hoạt vẫn có sinh khí, có tác phẩm đến tay người
đọc, có những tạp chí văn chương dù sống không mạnh mẽ lắm nhưng
cũng là những diễn đàn có tính chuyên nghiệp cao và thể hiện được
những ưu tư cũng như khát vọng của người cầm bút.
Một tác gỉa trẻ, nhà
văn Cổ Ngư, hiện sinh sống tại Pháp nói về suy nghĩ của mình trong
sinh hoạt văn học hiện thời :
“… Một trong những mối
ưu tư lớn của người viết hải ngoại là làm sao sách của họ in ra đến
được tay người đọc vì người Việt ở rải rác khăp nơi và không phaỉ ở
nơi nào có người Việt cũng có thể tìm được một nhà sách hay một quầy
tạp hóa nhận bán sách báo Việt. Chuyện gửi sách báo qua đường bưu
điện (hay mua sách qua internet) cũng gặp khó khăn do chi phí gửi
khá cao. Do hoàn cảnh đặc biệt, sách báo Việt ở hải ngoại hoàn toàn
không qua bất cứ một sự kiểm duyệt nào ngoài sự đánh giá cũa người
đọc. Điều này khác so với sách viết bằng tiếng bản xứ, xuất bản tại
nơi có người Việt sinh sống (thí dụ sách viết bằng tiếng Pháp xin
giấy phép xuất bản tại Pháp) hoặc sách in tại Việt Nam…”
Thực ra, ở Hoa Kỳ, in
sách Anh ngữ không cần xin phép xuất bản, theo tôi hiểu. Tuy có
nhiều nhà văn cho rằng họ vẫn chưa có tự do sáng tác ở hải ngoại, vì
có nhiều áp lực tạo sức ép khi sáng tác. Nhưng cũng có người, tỉ dụ
như Cổ Ngư thì cho rằng anh rất thoải mái khi sáng tác tại hải ngoại
:
“.. Thế còn tôi? Tôi
viết văn, làm thơ cho ai? Hình như ngay tự đầu tình yêu và niềm say
mê của tôi dành cho chuyện viết văn làm thơ, đặt nhạc, vẽ tranh chụp
ảnh đóng kịch.. đều ngang bằng nhau, cái gì cũng thích, nên cái gì
cũng làng nhàng chẳng đâu vào đâu! Tất cả những gì tôi làm đều có
một đối tượng đầu tiên cái tôi đáng yêu cái tôi đáng ghét! Tôi có
hứng, tôi thích chí, tôi làm. Làm xong, ưng ý tôi giữ lại., không
hài lòng, tôi vứt bỏ. Không ai ép, không ai buộc, không ai đe dọa,
không ai bán mua đổi chác. Cái vòng tròn đầu tiên, mắt bão, lỗ rốn,
người thưởng thức đầu tiên, chính là người tạo tác. Người ta viết
nhật ký để ai đọc, nếu không phải để mình tự nhận ra chính mình.?
Sáng tác, đối với tôi cũng là một cách để nhận ra chính mình. Đôi
khi ngẫm lại một đoạn văn, một bài thơ, một bức phác họa đã lâu
không động đến tôi chợt nhớ lại những cảm nhận đã thấm, những suy
nghĩ đã từng những rung động đã có về bản thân về người đối diện về
đám đông lao xao chung quanh về cuộc sống ở một nơi chốn nhất định
trong một thời điểm nhất định. Bằng sáng tác tôi tự soi gương và
biết mình hiện hữu biết mình từng có và mất những gì mơ ước và chối
bỏ những gì. Bằng sáng tác tôi muốn bày tỏ muốn san sẻ “một phần của
tôi” đến người chung quanh đồng thời hấp thụ trở lại, tập sống suy
nghĩ, hành động như như một hoặc nhiều người khác. Vì vậy khi đối
tượng đầu tiên, bản thân người sáng tác có thực sự yêu mến và rung
động với tác phẩm thì may ra tấm chân tình đó mới lan tỏa được ra
những người xung quanh tác phẩm mới tìm được mối tương giao với
người thưởng ngoạn. Thế nhưng chỉ có rung cảm nghệ thuật và tấm chân
tình không thôi hình như chưa đủ, hình như chỉ là sự tự phát với
khuôn dáng trong gương nhìn mải cũng nhàm, dù ai ai cũng mang trong
người it nhiều hình bóng của Narcisse. Người sáng tác khó nhất là
biết tự mình vượt qua chính mình. Và chỉ có cách duy nhất để có thể
thực hiện điều ấy là phải học hỏi không ngừng những kỹ thuật, phát
kiến mới và không ngại đem áp dụng thử nghiệm vào tác phẩm của mình.
Nếu những kỹ thuật, phát kiến mới ấy lại do chính bản thân sáng tạo
thì còn gì tuyệt vời hơn nữa ! Ngạn ngữ Trung Hoa cách đây nghìn năm
đã có câu ”sự học như con thuyền ngược nước, không tiến ắt thoái“,
nay nếu còn không học hỏi sự thể sẽ trôi dạt về đâu? Mấy năm
trở lại đây, các bài viết của vài nhà nghiên cứu phê bình văn học
đăng trên một số tạp chí văn học đã thực sự khuấy động sự yên tĩnh
của những người viết Việt già nua “Già nua“ ở đây không có quan hệ
với số tuổi đời, mà ở cách suy nghĩ và lối sáng tác…”
Có rất nhiều chia sẻ
của cá nhân tôi với lời phát biểu của Cổ Ngư. Quả thật, khi đã cầm
bút, cái mà mình muốn trước tiên là phải vượt qua được chính mình.
Phải hơn trước, phải hay hơn trước và nhất là khác với cái của chính
mình lúc trước. Thú thực tôi đã xé rất nnhiều bài thơ khi mà âm vận
và chữ nghĩa vẫn mang mang một chút gì giống những bài thơ trước của
mình. Xé vụn những trang thơ ấy quả là một điều không vui nhưng biết
làm sao.
Tôi cũng lại chia sẻ
với Cổ Ngư về cái điều phải học. Có những điều, tự mình khám phá ra
thật khó khăn và tốn thời giờ nhưng khi đã học ở sách vở hoặc trường
lớp thì dễ dàng hơn nhiều. Tôi nghĩ có lẽ suốt đời mình phải học vì
thực ra càng học, càng đọc thấy vỡ ra nhiều diều thú vị. Biển kiến
thức mênh mông biết bao và quả thật tôi rất bất bình khi có một nhà
văn tuyên bố rằng đã thành người cầm bút có ”danh” rồi thì chằng cần
phải học nữa. Nếu có người nói vẫn còn học thì đó chỉ là một lối làm
dáng kiểu cách như lối nói của nhà thơ Bùi Giáng. Có mấy ai, với cái
gọi là “thiên bẩm“ của mình mà không cần học hỏi để thành một nhà
văn đúng nghĩa. ..
Nhà văn Trần Hữu Thục
đã viết về một trường hợp sáng tác với tất cả nhữngtrăn trở :
“.. Ai từng trải qua
kinh nghiệm sáng tác mới thâm cảm hết nỗi đau đáu của những thai
nghén nghệ thuật. Lặn ngụp trong thực tế, tiếp cận với sự vật, nhìn
ngắm, suy ngẫm, tiếp nạp, tích lũy trong tâm, và rất nhiều khi phải
ghi chép lại. Rồi giữa đống hỗn độn những chi tiết sần sùi, thô nhám
mờ mịt đó, anh ngồi một mình (ai cũng sáng tác một mình) anh vận
dụng trí thức, trí tưởng tượng, ký ức để tái hiện hiện thực biến
chúng thành câu, thành chữ. Viết rồi xóa, sắp ngược sắp xuôi, đọc đi
đọc lại. Lắm khi viết bao nhiêu trang, tưởng xong, bất đồ xé bỏ đi
để bắt đầu viết lại. Cũng lắm khi, ngồi hàng giờ, chẳng viết được
chữ nào xuống giấy. Đôi khi cả tháng, hễ ngồi xuống bàn viết là cắn
bút, đầu óc đâu có thiếu chi tiết nào thế mà cứ tưởng như rỗng không
chẳng moi ra được điều gì để ghi lại. Có lẽ đây là cái đáng sợ nhất
của một nhà văn, nhà thơ. Phải chăng đó là nỗi bơ vơ mà Nguyễn Hưng
Quốc muốn nói. Không những bơ vơ mà còn xót xa, bứt rứt, khổ sở…”
Khi viết, có mấy ai còn
thắc mắc. Viết cái gì, viết cho ai, và viết để làm gì? Tôi nghĩ,
chắc đó là nỗi niềm chung của những người cầm bút. Nhưng chắc không
phải là thái độ của một thí sinh đang hết sức mình trước trang giấy
trắng của cuộc khảo thí. Những tác giả ở hải ngoại có nhiều người
coi việc cầm bút là một công việc buông xả để vượt qua được những
gay cấn của cuộc sống. Nghệ thuật vô tình thành một đóa hoa trang
điểm cho những ngày tháng náo động nhưng vô vị của kiếp lưu lạc ở xứ
người. Cũng có người coi công việc sáng tác là một cố gắng tìm lại
chính diện mạo của đời sống mình. Trong tiến trình suy tư, họ hy
vọng kiếm ra được những góc cạnh, những u uẩn của cuộc sống từ thực
tế ngồn ngộn đầy biến cố, đầy phức tạp. Cũng có người, chọn lựa vị
trí của một người tị nạn, mang trường hợp của mình và những người
cùng cảnh ngộ và những nỗi niềm đã có từ khi còn sống ở trong nước,
một cuộc sống mà họ coi là “sống lưu vong trong chính đất nước của
mình:. Họ chọn một thái độ, quyết liệt bầy tỏ một lập trường. Lập
trường của phản kháng đối đầu với chế độ hiện hữu …
Trên thực tế, văn học ở
hải ngoại đã tồn tại như thế nào.? Số lượng sách in và phát hành
cũng ở mức lạc quan. Người viết, cũng có nhiều người đã ra đi rời bỏ
cuộc sống hoặc ngưng cầm bút nhưng cũng có những cuộc khởi hành bắt
đầu của những người viết mới. Nhất là, ở những người trẻ bắt đầu cho
một nền văn học di dân. Họ viết bằng Anh ngữ nhưng vẫn giữ được
những tâm tình của trái tim Việt nam..
Tác giả Nguyễn văn Lục
trong một bài viết nhận định về một số những khuôn mặt tác giả ở hải
ngoại đã viết :
“Điều đó cảnh báo một
tương lai không sáng sủa gì cho văn học di dân. Đã thế sự nghiệp văn
chương thì nhiều người còn mỏng. Và vẫn là một thứ văn chương nghiệp
dư, Cứ nhìn những nhà văn viết bằng tiếng ngoại quốc không khỏi làm
chúng ta suy nghĩ. Những Linda Le, Monique Truong, le thi diem thuy,
Pedro Nguyen, Valerie Tong Cuong,.. phải chăng muốn trở thành chuyên
nghiệp thì chỉ có con đường chọn viết văn bằng ngoại ngữ..”
Thực ra, không phải tất
cả những nhà văn viết bằng tiếng bản xứ đều chuyên nghiệp và không
có tính nghiệp dư. Có nhiều người cầm bút như một công việc tay
trái. Tay phải cho nghề, tay trái cho nghiệp. Mai Elliot làm việc
trong lãnh vực ngân hàng, Lan Cao, Duong như Nguyện là luật sư, Mông
Lan, Barbara Tran, Trinh thi Minh Ha, Hoa Nguyen, Aimee Nguyen dạy
học.. Nhưng nhiều khi họ cũng phải chọn lựa như trường hợp Monique
Truong giữa nghề và nghiệp.
Khác với những nhà văn
viết bằng Việt ngữ, những nhà văn viết bằng tiếng bản xứ đã có những
môi trường sáng tác khác. Người đọc và người viết đã khác tâm tư, đã
lã nếp sống, đã khác biệt văn hóa. Viết không còn là một sự chia sẻ
tâm tư nữa mà là trình bày, tạo dựng một thế giới khác để cho người
lạ bước vào. Thế giới của hội nhập ấy, để người đọc hiểu biết được
dù bàng bạc nếp sống và nếp nghĩ của những người mới đến định cư,
làm lại cuộc đời ở những thời điểm khắc nghiệt đòi hỏi cố gắng vượt
bậc để có thể tồn tại. Thay vào sự chia sẻ, là kích thích hiếu kỳ.
Thế giới ấy còn nhiều khám phá. Con ngườin ấy còn nhiều khó hiểu.
Những biến cố của cà một đời người, từ nét chân thực, có nét phác
thảo của văn hóa Đông Phương, sẽ là đề tài của nhiều trang sách
nhiều hứng thú…
Có sự khó nghĩ trong
việc xác định căn cước của những nhà văn gốc Việt viết bằng ngôn ngữ
bản xứ. Đôi khi, họ ở trong dòng văn chương di dân. Đôi khi họ lại
được kể trong dòng văn học lưu vong. Nhưng dù với loại căn cước nào,
thì cũng là những người cầm bút viết bằng tâm tình và trái tim Việt
Nam.
Còn hiện tương lão hóa,
theo nhiều nhận định cũng là một hiện tượng tốt. Lão hóa, cũng có
khi là trẻ hóa như bài kệ của thiền sư Mãn Giác. Xuân sinh, hạ
trưởng, thu liễm, đông tàng, chu kỳ ấy là tự nhiên của trời đất. Hôm
nay, trong ngày xuân, nghĩ về văn học Việt Nam hải ngoại, tự nhiên
nhớ đến những câu thơ xuân dịch thơ thiền sư Mãn Giác :
Xuân ruổi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai.
Và như thế, có phải là
ý nghĩ lạc quan nhất …
|