Khalil, tên dị giáo (2)
Từ lúc mới bắt đầu cuộc sáng thế cho tới thời buổi hiện nay của
chúng ta, các thị tộc nào đó giàu nhờ kế thừa và trong sự cộng tác
của giới tăng lữ, đã tự chỉ định mình là người cai quản dân chúng.
Ðó là một vết thương hở miệng và lâu đời trong trái tim của xã hội
tới độ chỉ có thể loại bỏ nó bằng cách quyết liệt thủ tiêu sự ngu
dốt, mông muội.
Người cai quản sở đắc tài sản qua kế thừa và với quyền thế, xây lên
cung điện bằng đồng tiền của người nghèo khó yếu ớt. Tăng lữ dựng
lên đền đài trên nấm mồ và xương cốt của tín đồ ngoan đạo. Ông hoàng
túm lấy cánh tay của nông dân trong khi linh mục làm rỗng túi của
họ. Nhà cai trị nhìn những đứa con của đồng ruộng bằng bộ mặt cau
mày và giám mục an ủi họ bằng nụ cười. Giữa cái cau mày của con hổ
và nụ cười của con sói là đàn chiên xơ xác. Nhà cai trị tự tuyên bố
mình là vua của Luật pháp và linh mục xem mình là đại diện của
Thượng đế. Và giữa cả hai là các thể xác bị hủy hoại và các linh hồn
tiêu tan vào hư không.
Tại Li-băng, nơi ngọn núi giàu trong ánh sáng mặt trời và nghèo
trong hiểu biết, giới quí tộc và giới tư tế liên thủ bóc lột nông
dân, kẻ cày bừa và thu hoạch mùa màng nhằm tự vệ trước thanh gươm
của người cai trị và lời nguyền rủa của linh mục.
Người giàu ở Li-băng hãnh diện đứng trong dinh thự của y, lớn tiếng
với đám đông rằng:
“Quốc vương đã chỉ định ta làm Ông chủ của các ngươi!”
Và linh mục đứng trước bàn thờ nói rằng:
“Thiên Chúa đã ủy thác tôi làm người xử lý linh hồn của các người!”
Còn dân chúng Li-băng chỉ còn biết im lặng vì người chết không thể
nói.
Tộc trưởng Abbas có tình bằng hữu tận tâm can với tăng lữ vì họ là
đồng minh chung sức bóp nghẹt sự am hiểu của dân chúng và làm sống
lại tinh thần tuân phục nghiêm khắc và chặt chẽ trong tầng lớp lao
động.
Tối hôm đó, trong khi Khalil cùng Miriam tới gần ngai Tình yêu và
Rachel đang nhìn họ với ánh mắt thương cảm, Cha quản xứ Elias thông
báo với Tộc trưởng Abbas rằng linh mục bề trên đã trục xuất một
thanh niên nổi loạn khỏi tu viện và rằng hắn đang lánh nạn tại nhà
Rachel, góa phụ của Samaan Ramy. Tuy thế, linh mục chưa cảm thấy hài
lòng với tin tức ít ỏi mình vừa cung cấp cho Tộc trưởng nên ông
thêm:
“Con quỉ bị họ trục xuất khỏi tu viện thì không thể trở thành thiên
thần trong làng này; cây vả bị đốn và ném vào lửa thì không thể sinh
quả lúc đang cháy. Nếu muốn thanh tẩy làng này khỏi sự ô uế của con
quái vật đó, chúng ta phải đuổi hắn đi, như các tu sĩ đã làm.”
Tộc trưởng hỏi lại:
“Cha có chắc chắn rằng gã thanh niên đó sẽ gây ảnh hưởng xấu cho dân
làng? Không phải cách tốt là chúng ta giữ hắn lại và biến hắn thành
người làm việc trong các vườn nho của chúng ta sao? Chúng tôi đang
cần đàn ông khỏe mạnh.”
Linh mục tỏ vẻ không đồng ý ra mặt. Ðưa tay lên chải bộ râu, ông nói
khéo léo:
“Nếu gã thanh niên ấy lao động được việc thì hắn đã không bị trục
xuất khỏi tu viện. Ðêm qua, một sinh viên đang giúp việc tại tu
viện, tình cờ ở lại nhà tôi, bảo cho tôi biết rằng hắn vi phạm các
phép tắc của linh mục bề trên bằng cách gieo rắc những ý tưởng xách
động nguy hiểm trong các tu sĩ. Và anh sinh viên ấy trích lời hắn đã
nói, rằng:
“‘Hãy trả lại đồng ruộng, vườn nho và vàng bạc của tu viện cho người
nghèo cùng phân tán tu sĩ ra mọi hướng, và hãy giúp cho người dân
đang cần tới sự am hiểu; bằng cách đó, các người sẽ làm vừa lòng Cha
trên trời của các người.’”
Vừa nghe xong những lời ấy, Tộc trưởng nhảy đựng, giống như con hổ
sẵn sàng vồ mồi. Y soải chân bước tới cửa ra vào, lớn tiếng gọi
người giúp việc, bảo họ phải tới gặp chủ ngay. Ba người phục vụ đi
vào và Tộc trưởng xuống lệnh:
“Trong nhà Rachel, góa phụ của Samaan Ramy, có một gã thanh niên mặc
y phục tu sĩ. Chúng mày tới trói hắn lại, mang về đây. Nếu người đàn
bà đó chống lại việc bắt hắn, chúng mày túm búi tóc nó lôi ra ngoài
tuyết, mang nó về đây chung một lượt với hắn, vì đứa nào giúp cho
quỉ sứ thì cũng là quỉ sứ.”
Cả ba người giúp việc cúi mình tuân lệnh. Họ tất tưởi đi tới nhà
Rachel trong khi cha quản xứ và Tộc trưởng cùng nhau thảo luận loại
hình phạt nào dành sẵn cho Khalil và Rachel.
Ngày vừa hết và đêm đến, đang trải bóng tối lên các túp lều tồi tàn,
tuyết chất chồng nặng trỉu. Cuối cùng, các ngôi sao xuất hiện trên
bầu trời như những niềm hy vọng vào cuộc vĩnh hằng đang tới sau bao
đau đớn thống khổ của cái chết. Cửa lớn cùng cửa sổ khép lại, đèn
được thắp lên và nông dân tới ngồi bên lò sưởi hơ ấm cơ thể.
Trong khi Rachel, Miriam và Khalil đang ở bên chiếc bàn gỗ thô tháp
ăn bữa tối, có tiếng đập cửa thật gấp rồi ba người đàn ông tự động
đẩy cửa, bước vào. Rachel và Miriam run lẩy bẩy còn Khalil vẫn giữ
thái độ điềm tĩnh, như thể hắn đang chờ những kẻ đó. Một trong ba
người giúp việc của Tộc trưởng bước tới phía Khalil, đặt tay lên vai
hắn và hỏi:
“Có phải anh là kẻ bị trục xuất khỏi tu viện?”
Khalil đáp:
“Ðúng, tôi chính là người đó. Anh muốn gì?”
Người ấy trả lời:
“Chúng tôi được lệnh tới đây bắt anh và mang anh đi theo
chúng tôi tới nhà của Tộc trưởng Abbas. Nếu anh chống cự, chúng tôi
sẽ kéo lê anh trên tuyết như lôi một con cừu đem đi làm thịt.”
Nghe vậy, Rachel xanh mặt, kêu lên:
“Hắn phạm tội gì? Tại sao các anh muốn trói hắn và lôi hắn đi?”
Bà vừa nói xong, cả hai mẹ con cùng năn nỉ, giọng vỡ òa nước mắt:
“Hắn chỉ có một mình trong bàn tay của cả ba người; nếu các anh làm
cho hắn đau đớn thì thật là hèn nhát.”
Người tôi tớ lớn tuổi nhất nổi giận, thét lớn:
“Có đàn bà nào trong làng này dám chống lại lệnh của Tộc trưởng
không?”
Quát xong, anh ta rút ra một sợi lòi tói, bắt đầu trói tay người
thanh niên. Khalil ngước mặt lên kiêu hãnh. Và hắn nói với nụ cười
xót xa xuất hiện trên môi:
“Tôi cảm thấy tiếc cho các anh vì các anh là công cụ mạnh mẽ và mù
quáng trong bàn tay của kẻ đàn áp người yếu bằng sức mạnh của chính
cánh tay các anh. Các anh là những người nô lệ cho sự ngu dốt. Hôm
qua, tôi từng là người như các anh, nhưng ngày mai tôi được tự do
trong tâm trí y hệt tôi lúc này. Giữa chúng ta đang đứng một bức
vách kiên cố, nó ngăn trở lời kêu gọi của tôi và che giấu các anh
thực tại của tôi, khiến các anh không thể nghe, không thể thấy. Ðây,
tôi đây, các anh cứ việc trói tôi và cứ việc làm vừa lòng mình.”
Cả ba người giúp việc cảm thấy xúc động khi nghe Khalil nói. Dường
như tiếng nói của hắn đánh thức trong họ một tinh thần mới, nhưng
giọng nói của Tộc trưởng vẫn rền lên trong tâm trí họ, cảnh giác họ
phải hoàn tất nhiệm vụ. Với lương tâm nặng trĩu, họ trói quặt hai
tay Khalil và dẫn hắn ra ngoài. Rachel cùng Miriam đi theo họ tới
dinh cơ của Tộc trưởng, như các nữ tử của Giêrusalem đi theo Ðức
Kitô lên Núi Sọ.
Bất chấp nội dung, tin tức thường lan truyền rất nhanh trong nông
dân sống loanh quanh các thôn làng nhỏ vì càng không được góp phần
vào việc quản lý xã hội, họ càng khắc khoải muốn tỏ ra mình cũng có
một vai trò nào đó bằng cách vùi đầu bàn tán mọi chuyện trong môi
trường hạn hẹp của mình. Cách riêng mùa đông, khi đồng ruộng và vườn
tuợt say ngủ dưới những chăn bông bằng tuyết, cuộc sống của con
người ẩn náu và tự sưởi ấm bên lò sưởi, dân làng lại càng thích nghe
tin tức về bất cứ việc gì xảy ra, như một cách thức làm cho mình bận
rộn.
Khalil chưa bị trói mà câu chuyện đi bắt hắn đã lan khắp làng như
một căn bệnh truyền nhiễm. Dân chúng ra khỏi túp lều của mình, và
như một đạo quân, họ lật đật chạy tới dinh thự của Tộc trưởng Abbas.
Khi bàn chân của Khalil đặt vào nhà Ông chủ, nơi cư trú ấy đã đông
nghẹt đàn ông, đàn bà và trẻ con chen lấn nhau để nhìn cho rõ tên vô
đạo bị trục xuất khỏi tu viện. Họ cũng nôn nóng muốn thấy bộ mặt lúc
này của Rachel và con gái bà, hai kẻ đã giúp cho Khalil gieo rắc căn
bệnh dị giáo gớm ghiếc trong bầu trời thanh khiết của làng họ.
Tộc trưởng Abbas giữ ghế xét xử; Cha Elias ngồi kế bên y trong khi
đám đông nhìn chằm chặp người tuổi trẻ bị trói giật cánh khuỷu đang
thẳng lưng đứng trước mặt họ, ngay giữa sảnh đường của dinh thự.
Ðứng đằng sau Khalil là Rachel và Miriam, mặt vẫn xanh tái vì sợ
hãi. Nhưng sợ hãi làm sao có thể tác động lên trái tim của một phụ
nữ đã tìm thấy Chân lý và đang đi theo nó? Sự khinh miệt của đám
đông làm sao có thể tác động lên linh hồn của một thiếu nữ được Tình
yêu đánh thức? Tộc trưởng nhìn gườm gườm người thanh niên, rồi với
giọng quát tháo y cao giọng tra hỏi:
“Người kia, ngươi tên gì?”
Người tuổi trẻ trả lời:
“Khalil là tên của tôi.”
Tộc trưởng hỏi tiếp:
“Ai là cha của ngươi, ai là mẹ của ngươi và ai là họ hàng của ngươi?
Ngươi sinh ra ở đâu?”
Quay về phía các nông dân đang nhìn mình với ánh mắt căm ghét,
Khalil nói:
“Người nghèo bị áp bức là dòng dõi và thân thích của tôi; xứ sở mênh
mông này là nơi sinh ra tôi.”
Tộc trưởng Abbas nói với vẻ nhạo báng:
“Chính những người dân ngươi tuyên bố là dòng dõi của ngươi đang đòi
hỏi phải trừng trị ngươi, và chính xứ sở ngươi quả quyết là nơi sinh
ra ngươi không chấp nhận ngươi là phần tử của dân tộc nó.”
Khalil đáp lại:
“Các quốc gia ngu dốt thì bắt bớ những người tốt lành
của chúng và tự biến thành chế độ độc tài chuyên chế, và một xứ sở
bị bạo chúa cai trị thì ngược đãi những ai ra sức giải phóng dân
chúng thoát ách nô lệ. Ðứa con hiếu thảo có thể bỏ rơi mẹ của nó
trong bất cứ hoàn cảnh nào không? Kẻ có lòng thương xót có thể chối
bỏ anh chị em của nó khi họ đang bị khốn đốn không? Những người
nghèo đi bắt tôi tới đây hôm nay cũng chính là những người đã nộp
cuộc đời của họ cho ông hôm qua. Và mặt đất bao la mà như ông nói
không chấp thuận sự hiện hữu của tôi, thực tế cũng chính là mặt đất
vô số lần không chịu há miệng ra để nuốt vào thi hài của những tên
bạo chúa tham lam tàn độc.”
Tộc trưởng buông tiếng cười lớn như thể muốn trấn áp tinh thần người
trẻ tuổi và ngăn không cho hắn tác động lên cử tọa. Rồi y quay sang
Khalil, nói oai vệ:
“Ngươi, tên chăn súc vật, ngươi nghĩ rằng chúng ta sẽ tỏ ra thương
xót ngươi hơn các tu sĩ đã làm sao? Ngươi nghĩ rằng chúng ta sẽ cảm
thấy thương hại cho một tên nguy hiểm sách động quần chúng sao?”
Khalil đáp:
“Quả thật tôi từng là người chăn súc vật nhưng tôi vui mừng thấy
mình không là một kẻ đồ tể. Tôi dẫn súc vật tới cánh đồng tươi tốt,
không bao giờ để chúng ăn cỏ trên đất khô cằn. Tôi dẫn súc vật tới
suối nước trong lành, giữ cho chúng tránh các đầm lầy ô nhiễm. Tới
xế chiều, tôi mang chúng an toàn về chuồng, không bao giờ để chúng ở
lại trong thung lũng làm mồi cho chó sói. Tôi đã đối xử với súc vật
như thế. Còn ông, nếu ông làm theo cách của tôi, đối xử với loài
người như tôi đối xử với đàn súc vật của mình, thì những người nghèo
này đã không phải sống trong các túp lều tồi tàn và chịu khổ sở vì
những quặn thắt của nghèo đói trong khi ông sống như vua Nê-rô trong
dinh thự đồ sộ này?
Mồ hôi bỗng toát ra lấp lánh trên trán của Tộc trưởng và đôi môi
đang cười làm dáng của y chợt mím lại giận dữ. Nhưng y cố tỏ mình
điềm đạm, giả vờ không để ý tới lời vừa nói của Khalil. Chỉ thẳng
ngón tay trỏ vào Khalil, y làm như thân ái vạch ra những chỗ sai
trái trong lập luận của hắn:
“Ngươi là một tên dị giáo. Chúng ta sẽ không nghe những lời lẽ lố
bịch của ngươi. Chúng ta triệu ngươi tới nơi này để ngươi được xét
xử minh bạch về những gì ngươi đã sai phạm và để ngươi có cơ hội
đứng trước mặt Ông chủ của làng này, kẻ được Ðức Tiểu vương Amaen
Shebab trao cho quyền đại diện ngài. Ngươi cũng đang đứng trước Cha
Elias, vị đại diện của Hội thánh mà những lời giảng của giáo hội
đang bị ngươi chống đối. Giờ đây, ngươi hãy tự bào chữa cho mình, và
nếu ngươi chịu quì gối trước mặt dân chúng đang đứng chung quanh
đây, lúc đó chúng ta sẽ tha thứ cho ngươi và chấp nhận ngươi làm kẻ
chăn súc vật cho chúng ta như ngươi từng làm trong tu viện.”
Khalil bình tĩnh trả lời:
“Kẻ tội phạm thì không bị xét xử bởi một kẻ tội phạm khác, cũng như
người vô thần sẽ không tự biện hộ cho mình trước người tội lỗi.”
Ðáp xong, Khalil đưa mắt lần lượt nhìn hết thảy dân làng đang đứng
chật sảnh đường; hắn nói với họ rằng:
“Hỡi các anh chị em của tôi, kẻ mà anh chị em gọi là Ông chủ hay
Chúa tể của mình, kẻ mà anh chị em lâu nay vâng phục, đang mang tôi
ra để xét xử trước mặt anh chị em trong dinh thự mà ông ấy đã xây
lên trên những nấm mộ của cha ông anh chị em. Và con người mà qua
đức tin của anh chị em, trở thành linh mục quản xứ nhà thờ của anh
chị em đang sắp sửa phán xét tôi, mở đường cho anh chị em sỉ nhục
tôi và ra sức làm cho tôi chịu đau đớn thêm nữa.
“Từ mọi hướng của làng, anh chị em đã vội vàng đi tới sảnh đường này
để nhìn tôi chịu đau khổ và để nghe tôi cất tiếng nài xin lòng
thương xót. Anh chị em đã rời túp lều của mình và đến đây để chứng
kiến đứa con trai và là kẻ anh em của anh chị em bị trói quặt hai
tay ra đằng sau. Anh chị em đến đây để nhìn một con mồi đang run rẩy
trong móng vuốt của dã thú hung ác. Anh chị em đến đây để nhìn một
tên vô đạo đang đứng trước mặt các người xét xử nó. Tôi là tên tội
phạm ấy và tôi là tên dị giáo ấy, kẻ bị trục xuất khỏi tu viện. Cơn
bão đã mang tôi tới làng của anh chị em. Anh chị em hãy nghe những
lời nói chân thành của tôi. Xin đừng thương hại mà hãy công chính,
vì tình thương hại chỉ tuôn xuống trên kẻ tội phạm thật sự, trong
khi công lý là tất cả những gì một người vô tội đòi hỏi.
“Giờ đây, tôi chọn anh chị em làm bồi thẩm của tôi, và ý muốn của
dân chúng là ý muốn của Thượng đế. Anh chị em hãy đánh thức trái tim
mình và hãy nghe thật kỹ rồi khởi tố tôi theo chỉ dẫn của lương tâm
anh chị em. Người ta bảo với anh chị em rằng tôi là tên vô đạo,
nhưng anh chị em không được nói cho biết tôi đã phạm tội ác hay tội
lỗi nào. Anh chị em nhìn tôi bị trói như một kẻ trộm cắp nhưng anh
chị em chưa nghe nói các tội của tôi vì tại tòa án này, trong khi
những hành vi sai trái chưa được vén lộ thì hình phạt đã được tuyên
bố như sấm sét.
“Hỡi đồng bào thân mến của tôi, tội ác của tôi chính là sự hiểu biết
của tôi về tình cảnh của anh chị em, vì tôi cảm thấy sức nặng của
gông xiềng đã và đang đặt trên cổ của anh chị em. Tội lỗi của tôi
chính là những xót xa chân thành dành cho các phụ nữ trong anh chị
em, chính là những tình cảm của tôi đối với con cái của anh chị em
đang bú sự sống từ những bộ ngực bị lấp ló trong bóng tối của sự
chết.
“Tôi là một người ở giữa anh chị em, chung cảnh ngộ với anh chị em.
Cha ông tôi đã sống trong các thung lũng này và chết dưới chiếc ách
mà lúc này đang làm oằn đầu anh chị em. Tôi tin vào Thượng đế, đấng
nghe lời kêu cầu của linh hồn anh chị em đang đau khổ, và tôi tin
vào Phúc âm, cuốn sách làm cho chúng ta thành anh chị em của nhau
trước mặt của trời cao. Tôi tin vào những lời giảng dạy làm cho
chúng ta đều bình đẳng và làm cho chúng ta không bị trói quặt hai
tay trên trái đất này vì đây là nơi Thượng đế đặt bàn chân chu đáo
của ngài.
“Trong khi nhìn đàn bò của mình tại tu viện, tôi đã suy ngẫm về tình
cảnh đau khổ anh chị em đang chịu đựng. Tôi đã nghe tiếng kêu gào
tuyệt vọng từ những túp lều khốn khổ của anh chị em – tiếng kêu gào
của những linh hồn bị áp bức – tiếng kêu gào của những con tim tan
vỡ, đang bị khóa kín trong thân thể của anh chị em khi bị làm nô lệ
cho chủ nhân các đồng ruộng này. Khi tôi nhìn, tôi nhận ra tôi trong
tu viện và nhận ra anh chị em trên đồng ruộng, và tôi thấy anh chị
em như đàn cừu đi theo lũ sói tới trạm nhốt súc vật trên đường đem
ra chợ. Và khi tôi dừng lại giữa đường để giúp đỡ đàn cừu, tôi la
lên yêu cầu tiếp tay thì bị lũ sói táp tôi bằng những chiếc răng
nhọn hoắt.
“Tôi từng bị giam trong nhà ngục, chịu đói chịu khát, vì Chân lý đã
làm cho thể xác tôi bị thương tổn. Tôi đã trải qua khổ đau quá sức
chịu đựng vì tôi biến tiếng thở dài sầu thảm của anh chị em thành
tiếng thét, vang lên và vọng lại khắp các xó xỉn của tu viện. Tôi
chưa hề cảm thấy sợ hãi và trái tim tôi không bao giờ thấm mệt vì
tiếng kêu gào đau đớn của anh chị em truyền cho tôi sinh lực mới mỗi
ngày và làm cho trái tim tôi hằng ngày mạnh khỏe.
“Tới đây, có lẽ anh chị em đang tự hỏi rằng:
“‘Chúng ta đã kêu gào khi nào, và kẻ mở miệng cầu cứu đó là ai?’
“Trả lời cho thắc mắc đó, tôi nói với anh chị em rằng, linh hồn của
mỗi anh chị em kêu gào hằng ngày và than van la hét cầu cứu hằng
đêm, nhưng anh chị em không nghe nó, vì người đang hấp hối thì không
thể nghe trái tim của y kêu lách cách trong khi chắc chắn kẻ đứng
bên giường có khả năng nghe ra. Con chim bị giết quẩy mạnh, bất chấp
ý muốn của nó, một cách đau đớn và vô ý thức, nhưng những kẻ chứng
kiến cơn vùng vẫy đó biết cái gì đã gây ra?
“Hằng ngày, anh chị em thở dài đau đớn vào giờ nào? Có phải vào buổi
sáng khi tình yêu cuộc sống gọi anh chị em thức dậy, xé tấm mạng say
ngủ khỏi hai con mắt của anh chị em và dẫn anh chị em như những tên
nô lệ ra đồng ruộng? Có phải vào ban trưa khi anh chị em muốn ngồi
dưới tàng cây để núp mình khỏi ánh nắng mặt trời thiêu đốt thịt da?
Hoặc có phải vào xế chiều khi anh chị em về nhà với bụng đói, ao ước
có thức ăn bổ dưỡng thay vì chỉ mấy mẩu bánh sơ sài và nước uống
không tinh sạch? Hoặc có phải vào ban đêm lúc mệt nhọc ném anh chị
em lên mặt giường thô tháp, và cho tới khi giấc ngủ làm hai con mắt
mình ríu lại, anh chị em vẫn ngồi với đôi mắt mở, sợ hãi tiếng nói
của Tộc trưởng đang rền lên trong hai tai mình?
“Có mùa nào trong năm anh chị em không khóc thương cho thân phận
mình? Có phải trong mùa xuân, khi mẹ thiên nhiên khoác chiếc áo tươi
đẹp thì anh chị em đi gặp bà với quần áo bạc màu của mình? Có phải
trong mùa hạ khi anh chị em gặt lúa, thu gom các bó bắp và đổ đầy
kho lẫm của ông chủ với hoa lợi thu hoạch, để tới lúc tính toán công
lao và nợ nần, anh chị em chỉ nhận được cỏ khô và đậu tằm? Có phải
trong mùa thu khi anh chị em hái quả, mang nho tới xưởng ép rượu, và
để trả công cho những cực nhọc của mình, anh chị em nhận được một
bình giấm và một giạ quả đấu? Hoặc có phải trong mùa đông, khi anh
chị em giam mình dưới mái lều phủ đầy tuyết, ngồi bên lò sưởi mà run
rẩy lúc bầu trời nổi cơn thịnh nộ như thúc giục anh chị em hãy vượt
thoát tâm trí bạc nhược của mình?
“Ðó là cuộc sống của người nghèo, và đó là tiếng kêu gào không ngớt
mà tôi đã và đang nghe. Ðó là cái làm tinh thần tôi nổi loạn chống
lại những kẻ áp bức, đồng thời khinh miệt hạnh kiểm của họ. Khi tôi
yêu cầu các tu sĩ hãy thương xót tôi, họ nghĩ rằng tôi là kẻ vô
thần, và lưu đày là phần số của tôi. Hôm nay, tôi tới đây để chia sẻ
cuộc sống khốn khổ với anh chị em và để trộn lẫn nước mắt của mình
với nước mắt của anh chị em.
“Giờ đây, tôi đây, trong bàn tay nắm của kẻ thù tệ hại nhất của anh
chị em. Anh chị em có nhận ra rằng đất đai trên đó anh chị em đang
lao động như những kẻ nô lệ, đã được lấy từ cha ông của anh chị em
khi luật lệ được viết trên lưỡi gươm sắc lẻm? Các tu sĩ đã phỉnh gạt
tổ tiên của anh chị em, lấy đi tất cả ruộng nương và vườn nho của họ
khi các luật lệ tôn giáo được viết trên môi các linh mục. Có đàn ông
nào, đàn bà nào không bị tác động của chủ đất để phải làm theo ý
muốn của các linh mục không?
“Thượng đế nói, ‘Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn’. Thế
nhưng Tộc trưởng Abbas ăn bánh được nướng trong năm tháng cuộc đời
của anh chị em và uống rượu pha với nước mắt của anh chị em. Có phải
Thượng đế đã phân biệt người đàn ông đó với những người còn lại
trong anh chị em từ khi y đang ở trong bụng mẹ? Hay có phải chính
tội lỗi của anh chị em đã biến anh chị em thành tài sản của y? Ðức
Giêsu đã nói, ‘Hãy cho không cái ngươi lấy và cho không cái ngươi
cho... Chớ sở hữu vàng cũng như bạc cũng như đồng. ’Thế thì lời
giảng nào của ngài cho phép các tăng lữ bán lời cầu nguyện của họ
lấy miếng vàng miếng bạc? Trong trời đêm thanh vắng, anh chị em cầu
nguyện rằng, ‘Xin cho chúng tôi hằng ngày dùng đủ.’ Thượng đế đã ban
cho anh chị em đất này để từ đó lấy ra bánh mì hằng ngày, thế thì
ngài đã ban cho các tu sĩ thẩm quyền nào để lấy đất này và lấy bánh
mì ra khỏi bàn tay của anh chị em?
“Anh chị em nguyền rủa Giuđa vì hắn bán Thầy của mình để lấy vài
miếng bạc, nhưng anh chị em lại cầu xin Chúa ra ân huệ và bảo vệ cho
những kẻ bán ngài hằng ngày. Giuđa sám hối rồi tự treo cổ hắn vì
hành động sai trái đó còn các linh mục này bước đi đầy hãnh diện,
mặc áo chùng đẹp đẽ và rực rỡ với thánh giá chói lọi treo trên ngực
áo. Anh chị em dạy con cái hãy yêu thương Ðức Kitô nhưng đồng thời
lại bảo chúng hãy vâng lời những kẻ chống lại lời giảng của ngài và
vi phạm luật lệ của ngài.
“Các tông đồ của Ðức Kitô chịu ném đá tới chết để làm sống lại trong
anh chị em Thánh linh tinh thần, nhưng các tu sĩ này và các linh mục
này đang giết chết tinh thần đó trong anh chị em để họ có thể sống
trong sự hào phóng đáng thương của anh chị em. Cái gì thuyết phục
anh chị em sống cuộc đời như thế trong vũ trụ này, một cuộc đời khốn
khổ và bị áp bức? Cái gì thúc giục anh chị em quì gối trước ngẫu
tượng kinh tởm được dựng lên trên xương cốt của cha ông anh chị em?
Kho tàng nào đang được anh chị em tích trữ cho con cháu của mình?
“Linh hồn anh chị em đang trong bàn tay nắm bắt của các linh mục
này, và thể xác anh chị em đang ở trong quai hàm nghiến lại của các
nhà cầm quyền này. Có cái nào trong cuộc đời mình để anh chị em chỉ
vào đó mà nói, ‘Ðây là cái của tôi!’ Hỡi đồng bào của tôi, anh chị
em có biết kẻ tư tế mà anh chị em đang sợ hãi là ai không? Y là một
tên phản bội, dùng sách Phúc âm làm công cụ hăm dọa để làm tiền anh
chị em... một tên đạo đức giả đeo thánh giá và dùng nó như thanh
gươm để cắt mạch máu của anh chị em... một con sói đội lốt cừu
non... một tên tham ăn tôn trọng bàn ăn hơn bàn thờ... một sinh vật
đói vàng, đi theo đồng Ði-na tới vùng đất xa xôi nhất... một tên lừa
đảo ăn cắp vặt của các góa phụ và trẻ mồ côi.
“Y là một hữu thể đáng ngờ với mỏ chim ưng, vuốt cọp, răng linh cẩu
và trang phục rắn độc. Cứ lấy Sách thánh khỏi bàn tay y, xé y phục
của y, nhổ râu y. Cứ làm cho y bất cứ điều nào anh chị em muốn, rồi
hãy đặt vào tay y một đồng Ði-na, lúc đó y sẽ tươi cười tha thứ cho
anh chị em.
“Cứ vã vào mặt y, nhổ nước bọt lên người y, đạp lên cổ y, rồi hãy
mời y ngồi vào bàn ăn của anh chị em. Lúc đó y lập tức quên hết và
sẽ cởi thắt lưng, vui vẻ nuốt đầy bao tử với thực phẩm của anh chị
em.
“Cứ nguyền rủa y và chế nhạo y, rồi hãy gởi cho y một bình rượu và
một rỗ trái cây. Lúc đó y sẽ tha thứ cho tội lỗi của anh chị em. Khi
thấy một phụ nữ, y quay mặt sang chỗ khác và nói. ‘Hãy đi khuất mặt
ta, ôi con gái
Babylon!’
Rồi y thầm thì với mình rằng, ‘Hôn nhân thì tốt hơn chiếm hữu.’ Y
nhìn thanh niên thiếu nữ đang đi trong đám rước Tình yêu, rồi y
nhướn mắt lên trời và nói, ‘Hư ảo hơn mọi hư ảo, mọi sự đều hư ảo!’
Và trong cô độc, y nói với mình rằng, ‘Cầu cho các luật lệ và các
truyền thống khước từ niềm vui cuộc sống được hủy bỏ.’
“Trước mặt người đời, y rao giảng rằng, ‘Ðừng phán xét kẻo ngươi bị
phán xét.’ Nhưng y phán xét hết thảy những ai ghê tởm hành động của
y và y gởi họ xuống hỏa ngục trước khi Thần chết đến cách ly họ với
cuộc đời này.
“Khi nói y ngước mặt lên trời nhưng đồng thời các ý nghĩ của y như
những con rắn bò qua túi của anh chị em.
“Y xưng hô với anh chị em như con cái yêu dấu nhưng tâm hồn y trống
rỗng tình phụ tử, và môi y không hề mỉm cười với một đứa bé, cũng
chẳng bao giờ ẵm trong cánh tay y một hài nhi.
“Y vừa lắc đầu vừa nói với anh chị em rằng, ‘Chúng ta hãy xa lánh
mọi thứ trần thế vì cuộc đời này chóng qua như áng mây.’ Nhưng nếu
anh chị em nhìn thấu suốt y, sẽ thấy y đang ôm ấp cuộc đời, thương
khóc sự đi qua của hôm qua, kết án sự lẹ làng của hôm nay và sợ hãi
chờ đợi ngày mai.
“Y đòi hỏi anh chị em lòng từ thiện trong khi y có rất nhiều thứ để
cho. Nếu anh chị em chấp nhận yêu cầu của y, y sẽ công khai chúc
lành cho anh chị em. Nhưng nếu anh chị em từ khước, y sẽ kín đáo
nguyền rủa anh chị em.
“Trong đền thờ, y đòi hỏi anh chị em giúp đỡ kẻ có nhu cầu trong khi
quanh nhà y, kẻ có nhu cầu đang ăn mày bánh mì nhưng y không thể
nhìn, không thể nghe.
“Y bán lời cầu nguyện của mình; kẻ nào không chịu mua tức là tên vô
đạo, bị rút phép thông công với Hội thánh, khai trừ khỏi Ðịa đàng.
Ðây, sinh vật này, đang được anh chị em sợ hãi. Ðây là một tu sĩ
uống máu của anh chị em. Ðây là một linh mục làm dấu thánh giá bằng
bàn tay phải và túm cổ anh chị em bằng bàn tay trái.
“Ðây là kẻ chăn chiên, anh chị em chỉ định y để làm người phục vụ
nhưng y tự chỉ định mình là chủ nhân của anh chị em.
“Ðây là chiếc bóng ghì chặt linh hồn của anh chị em từ lúc chào đời
tới lúc lìa đời.
“Và đó cũng là kẻ tới đây tối nay để phán xét tôi vì tinh thần của
tôi nổi loạn chống lại các kẻ thù của Ðức Giêsu Nadarét, Ðấng yêu
thương tất cả, Ðấng gọi chúng ta là anh chị em của ngài và là Ðấng
đã chết trên thánh giá vì chúng ta.”
Khalil cảm thấy đang có sự am hiểu trong tâm hồn của dân làng. Giọng
nói của hắn tươi vui lên và hắn tiếp tục cuộc trần tình của mình.
“Hỡi anh chị em, chúng ta đều biết Tộc trưởng Abbas được chỉ định
làm Ông chủ của làng này bởi Tiểu vương Shehab, đại diện của Ðức vua
và quan Tổng trấn, nhưng tôi hỏi anh em rằng có ai đã thấy Sức mạnh
chỉ định Ðức vua làm ông trời của xứ sở này không? Sức mạnh đó, hỡi
anh chị em, không ai có thể thấy nó, cũng không ai có thể nghe nó,
nhưng anh chị em có thể cảm nhận sự hiện hữu của nó trong những chốn
sâu thẳm của linh hồn mình.
“Ðó chính là Sức mạnh, là Quyền năng mà anh chị em thờ phượng và cầu
nguyện hằng ngày rằng, ‘Lạy Cha chúng tôi ở trên trời.’ Ðúng thế,
Cha của anh chị em, Ðấng ở trên trời, là Ðấng chỉ định các đức vua
và các hoàng thân, vì Ngài có sức mạnh và ở trên mọi sự. Nhưng anh
chị em có tin rằng Cha của anh chị em, Ðấng yêu thương anh chị em,
và qua các ngôn sứ của mình ngài bày tỏ cho anh chị em con đường
chân chính, Ðấng ấy muốn cho anh chị em bị áp bức?
“Anh chị em có tin rằng Thượng đế, Ðấng sinh ra mưa xuống từ trời
cao và lúa mì từ các hạt mầm ẩn giấu trong lòng đất, muốn cho anh
chị em bị đói để cho chỉ một người vui hưởng sự hào phóng của Ngài?
Anh chị em có tin rằng Ðức Thánh linh tinh thần hằng cửu, Ðấng vén
lộ cho anh chị em tình yêu của vợ chồng, tình thương của cha mẹ,
lòng hiếu thảo của con cái và lòng bác ái của người bên cạnh, lại
đặt trên anh chị em một bạo chúa để biến anh chị em thành những
người suốt đời làm nô lệ? Anh chị em có tin rằng Luật Hằng cửu, cái
vốn làm cho cuộc sống tươi đẹp, lại gởi tới cho anh em những kẻ từ
khước hạnh phúc ấy của anh chị em và dẫn anh chị em vào ngục tối của
Sự chết đầy đau đớn? Anh chị em có tin rằng sức mạnh thể xác của anh
chị em do tự nhiên cung cấp cho, lại thuộc về người giàu, kẻ ở bên
ngoài thể xác của anh chị em?
“Anh chị em không thể nào tin mọi điều ấy vì nếu tin, tức là anh chị
em phủ định công lý của Thượng đế, Ðấng tạo ra chúng ta tất cả đều
bình đẳng, và ánh sáng của Chân lý chiếu soi hết thảy các dân tộc
trên địa cầu. Cái gì khiến anh chị em chống lại bản thân, tâm hồn
chống lại thân xác, và tiếp tay cho những kẻ đang biến anh chị em
thành nô lệ trong khi Thượng đế đã tạo ra anh chị em tự do trên trái
đất này?
“Có phải anh chị em đối xử chính đáng với bản thân mình khi anh chị
em ngước mắt lên Thượng đế Toàn năng, gọi Ngài là Cha và rồi xoay
mình, khấu đầu trước một con người và gọi y là Chúa tể hay Ông chủ?
“Có phải anh chị em, những kẻ là con cái của Thượng đế, lại bằng
lòng làm nô lệ cho con người? Ðức Kitô đã chẳng gọi những kẻ con cái
ấy là anh chị em của ngài sao? Ðức Kitô đã không làm cho anh chị em
tự do trong Chân lý và Tinh thần sao? Thế nhưng Tiểu vương lại biến
anh chị em thành những kẻ nô lệ hổ thẹn và băng hoại. Ðức Kitô không
nâng anh chị em lên trời cao sao? Thế thì tại sao anh chị em lại
đang sa xuống địa ngục? Ðức Kitô không giác ngộ tâm hồn của anh chị
em sao? Thế thì tại sao anh chị em lại đang giấu linh hồn mình trong
bóng tối?
“Thượng đế đặt ngọn đuốc bừng cháy trong tâm hồn anh chị em để nó
rực sáng trong Am hiểu và Cái đẹp, cùng tìm kiếm những bí mật của
ngày ngày đêm đêm; thế nên thật tội lỗi khi làm tắt ngọn đuốc ấy và
vùi nó dưới tro. Thượng đế tạo ra tinh thần của anh chị em với những
chiếc cánh để bay lượn trong bầu trời bao la của Tình yêu và Tự do;
thật đáng thương cho anh chị em đã cắt cụt cánh mình bằng chính bàn
tay mình và làm khổ tinh thần mình, để rồi bò sát giống như loài côn
trùng dưới đất.”
Thấy dân chúng càng lúc càng bị cuốn hút vào lời phát biểu của
Khalil, Tộc trưởng Abbas mất tinh thần. Ông tìm cách chen vào nhưng
Khalil đang cơn hứng khởi, hắn nói liền một mạch:
“Thượng đế gieo trong lòng anh chị em hạt giống Hạnh phúc. Nếu anh
chị em đào hạt giống đó lên rồi cố ý ném chúng lên các tảng đá để
gió thổi tan tác và chim trời nhặt lấy, tức là anh chị em đã phạm
tội ác. Thượng đế ban cho anh chị em con cái để nuôi nấng, để dạy
bảo chúng chân lý, và để làm tâm hồn chúng tràn đầy những kỳ diệu
của cuộc sống. Ngài muốn anh chị em truyền lại cho chúng niềm vui
Cuộc sống và sự hào phóng của Cuộc đời; tại sao lúc này chúng là
người xa lạ trên nơi sinh ra chúng và là những sinh vật chịu lạnh
lẽo trước vầng mặt trời? Bậc cha mẹ nào làm cho con cái mình thành
người nô lệ tức là đã cho chúng cục đá khi chúng ngửa tay xin bánh
mì. Anh chị em không thấy chim trời tập cho con cái chúng bay sao?
Thế thì tại sao anh chị em lại dạy cho con cái mình kéo lê xiềng
xích nô lệ? Anh chị em không thấy các đóa hoa trong thung lũng buông
hạt mầm của chúng vào lòng đất ấm nắng sao? Thế thì tại sao anh chị
em phó thác con cái mình cho bóng tối lạnh lẽo?”
Suốt những khoảnh khắc ấy, im lặng tràn ngập sảnh đường, dường như
tâm trí của Khalil chất ngất đau đớn. Nhưng lúc này, hắn nói tiếp
với giọng trầm lắng và tự chế:
“Những lời tôi vừa nói ra tối nay cũng là những phát biểu đã khiến
cho tôi bị trục xuất khỏi tu viện. Nếu ông chủ các đồng ruộng của
anh chị em và linh mục quản xứ giày xéo tôi cùng giết chết tôi đêm
nay, tôi sẽ chết trong hạnh phúc và bình an vì tôi đã hoàn thành sứ
mệnh của mình và đã vén lộ cho anh chị em thấy Chân lý mà quỉ sứ xem
là tội ác. Giờ đây, tôi đã làm xong ý muốn của Ðấng Toàn năng.”
Trong giọng nói của Khalil có một thông điệp bí nhiệm buộc dân làng
phải quan tâm. Phụ nữ xúc động bởi những ngọt ngào trong lời hắn
nói. Họ nhìn hắn như nhìn một sứ giả và mắt họ đầy ứ lệ.
Tộc trưởng Abbas và Cha Elias giận rung người. Khalil nói xong liền
lùi vài bước, tới đứng giữa Rachel và Miriam. Không khí im lặng bao
trùm phòng xử, có vẻ như thể tinh thần của Khalil đang bay lơ lửng
trong sảnh đường cao rộng và dẫn đưa linh hồn của đám đông đang sợ
hãi sang một hướng khác. Trong khi đó, Tộc trưởng Abbas và Cha Elias
ngồi run lẩy bẩy với cảm giác phiền muộn, bực tức và tội lỗi trộn
lẫn nhau.
Thình lình Tộc trưởng đứng bật dậy, mặt tái xanh. Y trợn mắt nhìn
khắp mọi người đang đứng chung quanh và quát lớn:
“Này lũ chó, chúng mày đang biến thành cái thứ gì thế? Có phải trái
tim của chúng mày đã bị đánh bả? Có phải máu của chúng mày đã ngừng
chảy, làm chúng mày yếu ớt tới nổi không đủ sức chồm lên người thằng
tội phạm này, xé xác nó ra từng mảnh? Nó đã làm cho chúng mày một
việc rất kinh khủng, biết không?”
Quở trách dân làng xong, y đưa cao thanh gươm vẫy về phía người tuổi
trẻ đang bị trói. Lập tức một dân làng cường tráng vọt tới chỗ Tộc
trưởng đứng, túm lấy cườm tay y và nghiêm giọng nói:
“Bỏ vũ khí xuống, Ông chủ, vì kẻ nào tuốt gươm ra giết, sẽ bị giết
bằng gươm!”
Tộc trưởng run bần bật. Thanh gươm tuột khỏi tay y rơi xuống đất. Y
nói với người đó rằng:
“Chẳng lẽ tôi tớ hèn mọn dám chống lại Ông chủ và cũng là người ra
ơn của mình sao?”
Nông dân ấy trả lời:
“Kẻ tôi tớ trung thành không dự phần với Ông chủ của y trong việc
phạm tội ác; người thanh niên này chỉ nói lên sự thật.”
Một người khác bước ra cam đoan:
“Người này vô tội, đáng được vinh danh và kính trọng.”
Và một phụ nữ cất cao giọng:
“Hắn không báng bổ Thiên Chúa, cũng không nguyền rủa vị thánh nào;
tại sao ông gọi hắn là tên dị giáo?”
Và Rachel hỏi:
“Hắn phạm tội gì?”
Tộc trưởng bất giác la lớn:
“Ngươi, con đàn bà phiến loạn. Ngươi, quả phụ khốn khổ. Chẳng lẽ
ngươi đã quên số phận của chồng ngươi, kẻ biến thành một tên nổi
loạn sáu năm trước đây sao?”
Nghe những lời buột miệng ấy, Rachel rùng mình giận dữ và đau đớn vì
bà vừa tìm ra kẻ sát nhân đã giết chết chồng mình. Bà nuốt nước mắt,
nhìn đám đông và thét lên:
“Ðây là tên tội phạm mà bà con đã cố sức tìm cho ra suốt sáu năm
nay. Bà con có nghe lúc này y thú tội của y không. Y là tên sát nhân
đang che giấu tội ác của mình. Bà con hãy nhìn y và hãy đọc trên vẻ
mặt của y. Y đang run lẩy bẩy như chiếc lá cuối cùng trên cây mùa
đông. Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy rõ Ông chủ mà chúng ta luôn
luôn sợ hãi là kẻ giết người. Y đã làm cho tôi thành người góa bụa
giữa các đàn bà này, và con gái tôi thành đứa mồ côi giữa các trẻ em
này.”
Cáo giác của Rachel giáng xuống như sấm nổ trên đầu Tộc trưởng, đồng
thời sự náo động của đàn ông và cơn hớn hở của đàn bà như những khúc
củi đang cháy rớt xuống đầu y.
Linh mục quản xứ giúp Tộc trưởng về lại ghế ngồi của y. Rồi ông gọi
những người giúp việc tới và ra lệnh cho họ rằng:
“Các ngươi hãy bắt con đàn bà kia; nó cáo gian rằng Ông chủ của các
ngươi giết chồng của nó. Hãy kéo con đàn bà và thằng thanh niên vô
nhà ngục tối tăm. Bất cứ ai chống lại các ngươi đều là tội phạm, đều
như thằng đó, bị dứt phép thông công với Hội Thánh.”
Các người giúp việc không để ý tới lệnh của Cha Elias nhưng họ tiếp
tục đứng yên, đăm đăm nhìn Khalil lúc này hai tay vẫn bị trói ngược
bằng lòi tói. Rachel đứng bên phải hắn và Miriam đứng bên trái, như
đôi cánh sẵn sàng bay vút lên bầu trời Tự do bao la.
Bộ râu lắc lư vì quá giận, cha quản xứ nói:
“Có phải các ngươi chối bỏ Ông chủ của mình vì tên tội phạm vô đạo
và con đàn bà ngoại tình không biết hổ thẹn kia?”
Người giúp việc lớn tuổi nhất nói:
“Chúng tôi đã phục vụ Tộc trưởng lâu năm để có bánh ăn và chỗ ở,
nhưng chúng tôi không bao giờ là nô lệ của ông ấy.”
Sau khi nói như vậy, người giúp việc đó cởi áo dài và khăn xếp ra,
quẳng xuống trước mặt Tộc trưởng và nói thêm:
“Tôi sẽ không còn cần tới đồng phục này nữa, tôi cũng không muốn
mình chịu đau khổ trong ngôi nhà bẩn chật của một tên tội phạm.”
Và tất cả người giúp việc đều làm theo. Họ tham gia đám đông đang
ngời sáng với vẻ mặt đầy hân hoan, biểu tượng của Tự do và Chân lý.
Cha Elias sau cùng nhận ra rằng thẩm quyền của mình đã bị từ khước.
Ông vừa rời làng vừa lầm bầm nguyền rủa cái giờ đã đưa đẩy Khalil
tới nơi này. Một người đàn ông khoẻ mạnh, bước tới chỗ Khakil, cởi
trói cho hắn. Người ấy nhìn Tộc trưởng đang ngồi lịm trong lòng ghế
như một xác chết, và dõng dạc nói với y rằng:
“Người thanh niên bị trói này, kẻ ông mang tới đây tối nay để xét xử
như một tội đồ, đã nâng cao tinh thần bạc nhược của chúng tôi và
giác ngộ tâm hồn chúng tôi bằng Chân lý và Am hiểu. Và người góa phụ
nghèo khó này, kẻ bị Cha Elias nói tới như một người cáo gian Tộc
trưởng, đã vén lộ cho chúng tôi thấy tội ác ông đã phạm sáu năm
trước. Chúng tôi tới đây đêm nay để chứng kiến cuộc xét xử một thanh
niên vô tội và một linh hồn cao thượng. Lúc này, trời đã mở mắt
chúng tôi ra và tỏ cho chúng tôi thấy sự hiểm ác của ông. Chúng tôi
để yên ông, bỏ mặc ông và để trời thực hiện thiên ý.”
Khắp sảnh đường vang lên nhiều tiếng nói. Người ta có thể nghe giọng
một người đàn bà nói rằng:
“Chúng ta hãy rời nơi cư trú nặng mùi kinh tởm này mà về nhà mình.”
Một giọng đàn ông góp ý:
“Chúng ta hãy theo người thanh niên này tới nhà của Rachel và lắng
nghe những lời phát biểu thông thái, khôn ngoan và đầy an ủi của
hắn.”
Và một giọng thứ ba nói rằng:
“Chúng ta hãy tìm kiếm lời khuyên bảo của anh ấy, vì anh ấy biết rõ
nhu cầu của chúng ta.”
Và giọng thứ tư thét lớn:
“Nếu muốn tìm kiếm Công lý, chúng ta hãy khiếu nại lên Tiểu vương và
kể cho ông ấy nghe tội ác của Abbas.”
Và nhiều người khác la lên:
“Chúng ta hãy thỉnh cầu Tiểu vương chỉ định Khalil làm Ông chủ và là
người cai trị chúng ta. Và hãy trình lên Giám mục rằng Cha Elias là
người tham gia tội ác này.”
Trong khi các giọng nói ấy vang lên lao nhao, xuyên vô hai tai của
Tộc trưởng như những mũi tên nhọn hoắt, Khalil đưa tay lên trấn tĩnh
dân làng. Hắn nói:
“Hỡi các anh chị em, chớ có gấp gáp. Thay vào đó, xin hãy lắng nghe
và suy nghĩ cho kỹ. Nhân danh lòng yêu thương và tình thân hữu, tôi
yêu cầu anh chị em đừng tới gặp Tiểu vương vì sẽ không tìm thấy Công
lý ở nơi đó. Hãy nhớ rằng con dã thú hung hãn này sẽ không ngoạm con
kia giống y như nó. Anh chị em cũng không nên đi tới Giám mục vì ông
ấy biết rất rõ ngôi nhà đã bị nứt ngay chính giữa thì tất có ngày sẽ
sụp đổ. Ðừng yêu cầu Tiểu vương chỉ định tôi làm Tộc trưởng làng này
vì người tôi tớ trung thành không thích là trợ thủ cho Ông chủ độc
dữ.
“Nếu thấy tôi xứng đáng với lòng tử tế và tình yêu thương của anh
chị em, xin hãy để tôi sống giữa anh chị em, chung chia với anh chị
em hạnh phúc và khổ đau trong Cuộc sống. Hãy để tôi chung tay lao
động với anh chị em trong nhà và ngoài đồng ruộng. Vì nếu tôi không
thể làm cho mình thành một người hòa mình với anh chị em, tôi sẽ là
một tên đạo đức giả, không sống theo lời giảng của mình. Và lúc này,
khi chiếc rìu đã đặt dưới gốc cây, chúng ta hãy để Tộc trưởng một
mình trong phòng xử án của lương tâm y và trước Pháp đình Tối cao
của Thượng đế, Ðấng mà mặt trời của ngài tỏa ánh nắng lên người vô
tội lẫn kẻ tội phạm, người lành lẫn kẻ dữ.”
Nói xong những lời ấy, Khalil rời hiện trường. Ðám đông đi theo hắn
như thể trong hắn có sức mạnh thiêng liêng cuốn hút trái tim họ. Tộc
trưởng ở lại trơ trọi trong bầu không khí vắng lặng khủng khiếp,
giống như cái tháp bị triệt ha đang đau khổ với thất bại câm nín và
chẳng khác một chỉ huy trưởng đầu hàng quân địch.
Khi đám đông tới sân nhà thờ và mặt trăng vừa ló ra đằng sau đám
mây, Khalil nhìn họ với ánh mắt yêu thương như một mục tử tốt lành
đang chăm lo đàn súc vật của mình. Hắn xúc động với mối thương cảm
dân làng, những kẻ tiêu biểu cho một dân tộc bị áp bức. Và hắn đứng
như một ngôn sứ, kẻ thấy mọi quốc gia phương Ðông đang đi trong các
thung lũng trước mặt mình, lê theo những linh hồn trống rỗng và
những tâm hồn nặng trĩu.
Ðưa cả hai tay lên trời, hắn nói:
“Từ những đáy các vực sâu này, chúng tôi kêu lên ngươi, xin hãy đoái
nhìn chúng tôi, hỡi Tự do!
“Từ đằng sau bóng tối này, chúng tôi vươn hai tay về phía ngươi, xin
hãy để mắt tới chúng tôi, hỡi Tự do!
“Trên mặt tuyết này, chúng tôi tôn thờ ngươi, xin hãy xót thương
chúng tôi, hỡi Tự do!
“Trước ngai cao cả của ngươi, chúng tôi đứng, máng trên hình hài
mình quần áo nhuốm máu cha ông chúng tôi, phủ lên đầu mình bằng bụi
của các nấm mồ trộn lẫn hài cốt của họ, mang thanh gươm đã đâm lút
trái tim của họ, nâng ngọn giáo đã xuyên suốt thân thể của họ, lê
theo xiềng xích đã làm trì trệ bước chân của họ, la lên tiếng thét
đã làm khô rát cổ họng của họ, khóc than cùng lặp lại bài ca thất
bại của chúng tôi đang rền vang khắp chốn ngục tù, và lặp lại những
lời cầu nguyện xuất phát từ những chốn sâu thẳm trong tâm hồn của
cha ông chúng tôi. Xin hãy nghiêng tai lắng nghe chúng tôi, hỡi Tự
do!
“Từ sông Nile tới sông Euphrates đưa tới tiếng than van của các linh
hồn đang đau khổ, hiệp làm một với tiếng kêu gào của vực sâu. Từ
cuối phương Ðông tới núi non Li-băng, những bàn tay run rẩy với sự
có mặt của Thần chết đang chìa ra cho ngươi. Từ đầu bờ biển này tới
cuối sa mạc kia, những con mắt đẫm lệ đang nhìn tới ngươi với ánh
mắt khẩn nài. Hãy đến và hãy cứu chúng tôi, hỡi Tự do!
“Dưới những mái lều rách nát được dựng lên trong bóng tối của nghèo
khổ và áp bức, người dân đấm ngực, cầu xin lòng thương xót của
ngươi. Hãy nhìn đến chúng tôi và hãy thương xót chúng tôi, hỡi Tự
do!
“Trên những lối đi và trong những ngôi nhà, tuổi trẻ khốn khổ đang
gọi ngươi. Trong các nhà thờ Kitô giáo và thánh đường Hồi giáo,
những cuốn Sách thánh bị quên lãng đang hướng về ngươi. Trong các
pháp đình nơi cung điện, Luật lệ bị lơ là đang khiếu nại ngươi. Hãy
thương xót chúng tôi và hãy cứu chúng tôi, hỡi Tự do!
“Trên các đường phố chật hẹp của chúng tôi, người thương buôn đang
bán ngày ngày của y nhằm cống nộp cho những tên trộm cắp bóc lột ở
phương Tây, mà không ai đưa ra cho y lời hướng dẫn. Trong những cánh
đồng hạn hán, nông dân vỡ đất gieo hạt với con tim mình, chăm bón
bằng nước mắt nhưng họ chỉ gặt toàn gai góc, mà không ai dạy họ con
đường chân chính. Trong những thảo nguyên khô cằn của chúng tôi,
người Bedouin lang thang chân trần bụng đói nhưng không ai xót
thương họ. Hãy đến và hãy dạy bảo chúng tôi, hỡi Tự do!
“Những con cừu xơ xác của chúng tôi đang gặm rễ cây và những con
ngựa còm cỏi của chúng tôi đang nhai cành khô. Hãy đến và hãy giúp
đỡ chúng tôi, hỡi Tự do!
“Chúng tôi đang sống trong bóng tối kể từ lúc khởi đầu. Và giống như
tù nhân, chúng tôi bị người ta đem từ nhà giam này sang nhà giam
khác trong khi đó, thời gian nhạo báng tình cảnh của chúng tôi. Khi
nào bình minh sẽ tới? Chúng tôi còn mang sự khinh miệt của các thời
đại cho tới bao giờ? Dưới chân chúng tôi đã kéo lê nhiều tảng đá,
trên cổ chúng tôi đã đặt nhiều gông ách. Chúng tôi còn mang sự lăng
nhục con người này cho tới bao giờ?
“Nô lệ tại Ai cập, lưu đày tại Babylon, chuyên chế ở Ba Tư, bạo
quyền ở La Mã và tham lam ở châu Âu... chúng tôi đã chịu đau khổ tất
cả những thứ đó. Lúc này chúng tôi đang đi đâu và khi nào chúng tôi
tới tột điểm kết thúc của con đường gập ghềnh đó?
“Từ những nanh vuốt của Pharaoh tới những móng vuốt của
Nebuchadnezzar, tới bàn tay sắt của Alexander, tới thanh gươm của
Herod, tới những móng vuốt của Nêrô và những chiếc răng nhọn hoắt
của Demon... tới bàn tay của những kẻ cai trị mà lúc này chúng tôi
đang bị rơi vào, và khi nào Thần chết sẽ tới mang chúng tôi đi để
cuối cùng được an nghỉ đời đời?
“Bằng sức mạnh đôi tay, chúng tôi đã nâng lên các cây cột đền thờ,
trên lưng mình chúng tôi đã khuân vác hồ vữa để xây lên các tường
thành to lớn và các kim tự tháp chọc trời chỉ để hùng vĩ. Chúng tôi
còn tiếp tục xây cất những lâu đài tráng lệ và sống trong những túp
lều tồi tàn của mình cho tới bao giờ? Chúng tôi còn tiếp tục làm đầy
kho lẫm của người giàu với đủ thứ lương thực dự phòng trong khi mình
chịu đựng cuộc sống cơ cực bằng mấy mẩu bánh khô cho tới bao giờ?
Chúng tôi còn tiếp tục dệt lụa kéo len cho các chúa tể và các ông
chủ trong khi mình chỉ mặc những manh vải thô sơ bạc màu cho tới bao
giờ?
“Qua sự quỉ quyệt của họ, chúng tôi chia rẽ mình ra. Và cách tốt để
họ giữ mãi ngai vàng cùng cuộc sống nhàn hạ là vũ trang người Druze
đánh người A-rập, kích động người Shiite tấn công người Sunnite,
khích lệ người Kurd đâm chém người Bedouin, cổ vũ người Hồi giáo bất
hòa với người Kitô giáo. Người anh em còn tiếp tục giết người anh em
của mình trên lồng ngực mẹ cho tới bao giờ? Cây Thánh giá còn tiếp
tục bị giữ cho tách biệt với Lưỡi liềm trước con mắt của Thượng đế
cho tới bao giờ?
“Hỡi Tự do, hãy lắng nghe chúng tôi và hãy nói dù chỉ bởi lợi ích
của một người vì ngọn lửa vĩ đại được bắt đầu với một tia mồi nhỏ.
“Hỡi Tự do, hãy đánh thức dù chỉ một trái tim bằng tiếng xào xạc của
đôi cánh ngươi, vì từ một đám mây lẻ loi sẽ xuất hiện lằn chớp soi
sáng hang các thung lũng và đỉnh các ngọn núi.
“Hỡi Tự do, với sức mạnh của ngươi, hãy xua tan các đám mây đen này,
hãy giáng xuống sấm sét và hãy hủy diệt những chiếc ngai được lập
lên trên xương và sọ của tổ tiên chúng tôi.
“Hãy lắng nghe chúng tôi, hỡi Tự do;
Hãy mang ân huệ tới, hỡi Con gái của Athens;
Hãy giải cứu chúng tôi, hỡi Chị em của La Mã;
Hãy khuyến cáo chúng tôi, hỡi Người bạn đời của Môsê;
Hãy giúp đỡ chúng tôi, hỡi Người yêu dấu của Mohammed;
Hãy dạy dỗ chúng tôi, hỡi Cô đâu của Giêsu;
Hãy làm khang kiện con tim của chúng tôi
để chúng tôi có thể sống
hoặc hãy làm kiên cố kẻ thù của chúng tôi
để chúng tôi có thể tàn lụi
và sống an nghỉ đời đời.”
Trong khi Khalil tuôn trào cảm xúc của hắn trước trời và đất, dân
làng nhìn hắn đầy tôn kính. Tình yêu của họ cũng tuôn trào trong
hiệp nhất với bài ca và giọng hát của hắn cho tới khi họ cảm thấy
hắn trở nên một thành phần của tâm hồn họ. Sau khoảnh khắc im lặng
ngắn ngủi, Khalil đưa mắt nhìn đám đông và trầm lặng nói:
“Bóng tối ban đêm đã mang chúng ta tới ngôi nhà của Tộc trưởng Abbas
để nhận ra ánh sáng ban ngày. Áp bức đã bắt bớ chúng ta trước Không
gian lạnh lẽo để chúng ta có thể am hiểu nhau và tụ tập giống như gà
con dưới đôi cánh của Thánh linh tinh thần Hằng cửu. Giờ đây, chúng
ta hãy về nhà mình và ngủ cho tới khi lại gặp nhau vào ngày mai.”
Vừa dứt lời Khalil liền cất chân bước đi theo Rachel và Miriam tới
nơi ở của họ. Ðám đông giải tán và mỗi người về nhà của mình, ngẫm
nghĩ những gì mình đã thấy đã nghe trong đêm đáng ghi nhớ này. Họ
cảm thấy cây đuốc tinh thần mới mẻ bừng cháy đã làm sôi sục cái tôi
bên trong họ và dẫn họ vào con đường chân chính.
Một giờ sau, mọi ngọn đèn đều tắt. Tịch lặng bao phủ khắp làng trong
khi Giấc ngủ mang linh hồn các nông dân vào thế giới của những giấc
mơ mạnh mẽ. Nhưng suốt đêm đó, Tộc trưởng Abbas không ngủ nổi; y
chong mắt trông theo một đám rước gồm toàn những hình bóng của đêm
và những bóng ma các tội ác y đã phạm.
Hai tháng trôi qua. Khalil vẫn rao giảng và tuôn trào tình cảm của
hắn vào tâm hồn dân làng, nhắc nhở họ những quyền của họ từng bị
chiếm đoạt và trình bày với họ những tham lam áp bức của nhà cầm
quyền cùng các tu sĩ. Họ quan tâm lắng nghe hắn vì hắn là nguồn sảng
khoái và tiếng nói của hắn gieo vào con tim họ như mưa rơi trên đất
đang khát. Khi ở một mình, họ lặp lại những lời của Khalil như thể
đọc kinh hằng ngày. Cha Elias bắt đầu xun xoe bợ đỡ dân làng nhằm
lấy lại tình thân hữu. Ông càng ngày càng dễ bảo kể từ lúc dân làng
khám phá ra ông là một đồng lõa trong tội ác của Tộc trưởng và họ tỏ
ra lơ là ông.
Tộc trưởng Abbas khổ đau căng thẳng, suốt ngày đi loanh quanh trong
dinh thự của mình như cọp trong chuồng. Y ra lệnh cho người giúp
việc nhưng không ai trả lời ngoài tiếng của y vọng lại bên trong các
bức vách cẩm thạch. Y thét bảo người làm của mình nhưng không ai tới
phụ giúp y ngoài bà vợ khốn khổ đang chịu đựng, chẳng kém dân làng
trước đây, các cơn dằn vặt hung bạo của y.
Khi mùa Chay đến, Trời tuyên bố mùa xuân đang tới, ngày đời của Tộc
trưởng cũng đã hết hạn kỳ theo với mùa đông đi qua. Y rời cuộc sống
sau cơn thống khổ rất dài và linh hồn y được mang đi trên tấm thảm
dệt bằng hành vi cử chỉ của y, tới đứng trần truồng và run rẩy trước
Ngai cao mà con người chỉ cảm nhận sự hiện hữu của nó nhưng không
thể thấy.
Nông dân nghe kể những câu chuyện khác nhau về cung cách từ trần của
Tộc trưởng Abbas. Một số chuyện tường thuật rằng thất vọng và tuyệt
vọng khiến y tự tìm cái chết bằng chính bàn tay mình. Các phụ nữ tới
chia buồn với vợ y thì kể lại rằng Tộc trưởng chết trong sợ hãi vì
bóng ma của Samaan Ramy săn đuổi y hằng đêm, mang y ra khỏi nhà đi
tới chỗ người chồng của Rachel tìm thấy bị giết sáu năm trước.
Tới tháng Sáu, dân làng được loan báo những bí mật tình yêu của
Khalil và Miriam. Họ vui mừng với tin tốt lành ấy vì qua đó, họ được
bảo đảm rằng Khalil tiếp tục ở lại trong làng. Khi tin ấy tới với cư
dân của các túp lều, mọi người chúc mừng nhau về việc Khalil trở
thành người láng giềng thương mến của mình.
Mùa gặt đến, nông dân ra đồng, thu gom các bó bắp và mang các bó lúa
mì tới sân đập lúa. Tộc trưởng Abbas không còn ở đó để thu hoa lợi
và bắt mang về kho lẫm của y. Nông dân thu hoạch mùa màng của chính
mình. Căn lều của họ tràn ngập lúa mì và bắp. Bình của họ lại được
đổ đầy rượu nho ngon và dầu. Khalil chia sẻ với dân làng lao động
nặng nhọc và hạnh phúc. Hắn giúp họ thu hoạch mùa màng, ép nho và
hái trái cây. Hắn không bao giờ phân biệt mình với bất cứ ai trong
làng ngoài sự vượt trội về lòng yêu thương và hoài bảo.
Kể từ năm đó cho tới thời hiện tại của chúng ta, nông dân nào trong
làng cũng bắt đầu mùa gặt với niềm hân hoan mà y đã gieo cấy bằng
công sức cực nhọc. Ðất các nông dân canh tác và vườn nho họ trồng
trọt đều trở thành tài sản của chính họ.
Ðến nay, nửa thế kỷ trôi qua, kể từ biến cố đó, người Li-băng đã
thức tỉnh.
Trên đường tới các cây Tuyết tùng Thiêng liêng của Li-băng, vẻ đẹp
của ngôi làng hẻo lánh ấy thu hút đôi mắt chú ý của lữ khách vì nó
đứng như cô dâu bên bờ thung lũng. Các túp lều tồi tàn giờ đây trở
thành những ngôi nhà khang trang và hạnh phúc, bao quanh chúng là
đồng ruộng phì nhiêu và những cây hoa lan đang nảy lộc. Nếu bạn hỏi
bất cứ cư dân nào về câu chuyện Tộc trưởng Abbas, người ấy sẽ trả
lời bạn bằng cách đưa tay chỉ tới những tảng đá nằm ngổn ngang cùng
các bức tường bị triệt hạ, và nói rằng:
“Ðó là dinh thự của Tộc trưởng, và đó là câu chuyện cuộc đời của y.”
Còn nếu bạn thắc mắc về Khalil, người ấy sẽ đưa tay chỉ lên trời và
nói rằng:
“Chỗ đó cư ngụ Khalil yêu quí của chúng tôi, người mà câu chuyện
cuộc đời mình được viết bởi Thượng đế với những chữ lấp lánh trên
các trang của tâm hồn chúng tôi, và chúng không thể bị xóa bỏ theo
với các thời đại.”
Nguồn: Nguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của
Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin
L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
- Bài Khalil, The Heretic, tt. 209-256. |