Người đưa thư
Cách đây đã mười mấy năm, khi mới từ Việt Nam sang đến cư ngụ
trong khu chung cư có nhiều người Việt tôi đã thấy ông ta. Đó là
người đưa thư, có bộ râu hung hung xồm xoàm viền quanh miệng,
khiến thoạt nhìn người ta thấy ông có nét một ông già Santa
Claus mỗi mùa Giáng sinh. Nụ cười hiền, đôi mắt xanh mông mênh
màu biển, ông là người đều đặn mang niềm vui cho đám cư dân sống
ở chung cư, đa số mới từ Việt Nam sang, thường ngóng những cánh
thư ở quê nhà.
Ông ta trạc độ ngoài năm mươi, dáng dấp khỏe mạnh, khó đoán tuổi
cho chính xác vì bộ râu xồm xoàm đó. Mỗi buổi chiều, khi chiếc
xe của Bưu Điện chạy vào con dốc đầy ổ gà, nơi mấy thùng thư đã
thấy có người đứng đợi. Đa số là người già, không biết làm gì
cho hết ngày, đi lấy thư cũng là một cái thú. Ông ta bỏ thư vào
từng hộp thư của mỗi nhà trong xóm, xong lái xe đi, không quên
giơ tay vẫy mấy đứa trẻ đang chơi đùa trên khoảng sân trống.
Mãi cho đến một hôm, trời mùa đông lại mưa tầm tã, tôi thấy
người đưa thư ngừng xe trước cửa, rồi chạy ào vào hiên gõ cửa,
đưa cho tôi một lá thư. Lá thư của người bạn gái từ Việt Nam gửi
sang, đề trúng tên người gửi và địa chỉ "zip code", nhưng viết
thiếu số nhà của căn chung cư, không hiểu sao ông ta lại biết là
của tôi. Chính vì thế mà tôi biết ông đọc được tiếng Việt, lại
còn quen cả tên của người nhận thư, rồi vì sợ thư không đến tay
người nhận, thay vì trả lại cho Bưu Điện, ông mang thư đến thẳng
nhà tôi.
Hôm ấy trời bão rớt, mưa suốt từ sáng đến chiều chưa ngớt, bầu
trời xám xịt khiến mùa Đông càng có vẻ rét mướt. Tôi cảm động
nhận lá thư từ tay ông, nhìn ông ướt át trong chiếc áo mưa màu
vàng, những bụi mưa còn đọng trên mái tóc đã ngả bạc và bộ râu
hung hung viền quanh miệng. Ông hỏi, bằng tiếng Việt:
"Xin lỗi, có phải tên cô không?"
Tôi ngạc nhiên, vì lần đầu nghe ông ta nói tiếng Việt, chực nhớ
lại bà con trong khu chung cư, gặp nhau ngoài thùng thư vẫn hay
nói chuyện này nọ về xứ Mỹ và người Mỹ, có lẽ ông đã nghe được
cả. Tôi nhận đúng là tên mình, nhận thư, rất cảm kích vì tấm
lòng của người đưa thư. Ái ngại khi thấy mưa vẫn như trút nước,
rặng cây ven đường như mờ mịt dưới màn mưa trắng xóa. Tôi hỏi
ông, bằng tiếng Anh:
"Ông có vội lắm không? Mời ông vào nhà chơi, mưa lớn quá."
Ông nheo đôi mắt xanh nhìn trời, cười hiền hậu, nói một câu
thành ngữ tiếng Anh:
"It's raining... cats and dogs..."
Đoạn ông ta nói bằng tiếng Việt:
"Mưa lớn quá, giống như mưa ở Việt Nam."
Tôi mở to mắt nhìn ông thán phục:
"Ông nói tiếng Việt giỏi quá, ông học ở đâu vậy?"
Người đưa thư giơ tay vuốt những giọt mưa trên tóc, trên mặt,
giọng thoáng một niềm vui, thật xa vời:
"Từ Việt Nam. Tôi đã từng ở Việt Nam, cách đây hơn hai mươi năm.
Việt Nam luôn ở trong trái tim tôi."
Tôi mỉm cười, một câu xã giao mà người Mỹ nào cũng học qua,
nhưng sao ở người đàn ông này, tôi không thấy sự giả dối. Một
lần nữa, tôi mời ông vào nhà, không khách sáo, trước khi bước
vào căn phòng ấm cúng, ông tháo đôi giày để ngoài cửa, giọng dí
dỏm:
"Người Việt Nam thường cởi giày trước khi vào nhà, có phải vậy
không?"
Tự nhiên tôi xúc động. Một người Mỹ hiểu cả thói quen của người
Việt, thật là hiếm, như vậy ông ta chắc phải tha thiết với xứ sở
của tôi nhiều lắm, tự nhiên tôi thấy có cảm tình với ông. Như
hai người đồng hương đã lâu không gặp nhau, ông thổ lộ:
"Tôi nhớ Việt Nam nhiều lắm, nhớ "người" Việt Nam lắm..."
Rồi đưa mắt nhìn khắp căn phòng được bài trí theo kiểu Á Đông,
ông dừng lại một bức tranh trên tường vào mùa Xuân, chụp con ngõ
nhỏ với hai hàng mai nở vàng thật đẹp. Ông thảng thốt reo lên,
giọng lơ lớ:
"Đấy có phải là hoa mai?"
Tôi gật đầu, cảm phục một người Mỹ biết nhiều về xứ người:
"Ồ! Ông cũng biết hoa mai? Nó là loại hoa biểu tượng cho mùa
Xuân, chỉ nở vào mùa Xuân."
Ông gật đầu, đôi mắt xanh thoáng một nét bâng khuâng, nhìn theo
những sợi mưa nghiêng nghiêng đan nhau trong khung trời mờ tối:
"Tôi biết, vì cô ấy tên Mai, Mai là tên người yêu của tôi, cô
học trò bé nhỏ người Cần Thơ thuở ấy."
Hình như ông xúc động, yên lặng để dấu đi nỗi buồn. Tôi cũng
ngạc nhiên không ít, khi khám phá ra mối tình của người đưa thư,
một mối tình có lẽ rất đẹp từ mấy chục năm trước vẫn ấp ủ trong
trái tim ông, từ những ngày trẻ tuổi.
Buổi chiều mưa hôm đó, một chiều mưa trên xứ người, nghe câu
chuyện tình của người đưa thư, tự nhiên tôi nghe trong lòng một
nỗi buồn rất Việt Nam, cả cái không khí lãng đãng một chút ngậm
ngùi như theo từng giọt mưa rớt xuống hàng hiên ẩm ướt. Người
đưa thư bồi hồi kể tôi nghe chuyện tình của ông ta ba mươi năm
trước....
* * *
David sinh trưởng ở Sacramento, thủ phủ của tiểu bang
California. Vùng đất phì nhiêu màu mỡ có rất nhiều cánh đồng
trồng rau và trái cây, đủ cung cấp cho hầu hết các tiểu bang của
Hoa Kỳ. Sinh ra trong một gia đình đông anh em, cả nhà sống
trong một trang trại trồng hoa quả vùng ngoại ô, David có bản
chất một người đồng quê rất hiền lành và thật thà, yêu thiên
nhiên.
Học hết Trung Học, David rời gia đình đến Nam Cali để tiếp tục
việc học. Sau bốn năm Đại Học với ngành khoa học tự nhiên, vốn
bản tính hiền lành, thích làm việc thiện, David tình nguyện sang
Việt Nam làm công tác giáo dục và thiện nguyện. Do đấy, chàng có
một thời gian dài đến gần bốn năm phục vụ trong các trung tâm
Việt Mỹ, dạy tiếng Anh cho những người Việt trẻ tuổi.
Lúc ấy David còn trẻ lắm, mới hai mươi hai tuổi. Trước khi sang
Việt Nam, chàng được theo học tiếng Việt sáu tháng, cho nên lúc
đến Việt Nam, chàng đã bập bẹ nói được những câu xã giao thông
thường với người bản xứ. Năm chàng tới Việt Nam, chiến tranh
đang thời kỳ leo thang dữ dội, nhưng ở thành phố tương đối người
dân vẫn sống trong yên bình, chưa nhìn thấy bao nhiêu sự đe dọa
của chiến tranh. David chỉ ở Sài Gòn một thời gian ngắn, sau đó
được đưa về Cần Thơ. Chính nơi này, thành phố thơ mộng ven bờ
sông Hậu, đã khiến David lúc quay về Mỹ, mang theo một vết
thương lòng.
David đã có dịp đi lại nhiều lần trên nẻo đường mang nhiều sắc
thái miền Tây Nam Phần, đó là con đường quốc lộ 4. Những cánh
đồng lúa bát ngát, những vườn cây xanh, những mái tranh nghèo
khuất sau hàng dừa rủ bóng trên giòng sông đục ngầu phù sa, lắc
lẻo nhịp cầu tre bắc ngang sông rạch. Chàng thích nhất những
chuyến phà qua sông Hậu Giang, nhất là khi chiều về, vài cọng
hoa màu tím lênh đênh trên sóng nước. Phong cảnh Việt Nam thật
lạ lẫm và mới mẻ, nhưng gần gụi biết bao, không hiểu sao khi
nhìn thấy miền đồng bằng sông Cửu Long lần đầu tiên, David đã
cảm thấy yêu mến vùng đồng bằng, êm ả như vùng quê nơi chàng
sinh trưởng, dù mỗi nơi đều có nét khác biệt nhau.
Vì là nhân viên dân sự, David may mắn chỉ ở thành phố, không đối
diện với chiến tranh như những người lính Hoa Kỳ tham chiến ở
Việt Nam, và cũng không hề giao tiếp với giai cấp phụ nữ bám
theo đoàn quân viễn chinh. Cho nên, những ngày dạy học tại Trung
Tâm Việt Mỹ, David thật là thơ ngây khi lần đầu tiên trong đời,
chàng đã trao trái tim mình cho Mai, cô bé Việt Nam rất chăm
chỉ, ngoan hiền trong lớp học căn bản của Trung Tâm này.
Mai đẹp lắm, ít là dưới mắt của David, một vẻ đẹp Á Đông rất ưa
nhìn. Mái tóc đen mượt, đôi mắt đen láy như hai hạt nhãn, nét
ngây thơ dịu dàng của cô con gái Á Đông khiến con tim chàng trai
Mỹ mới biết yêu lần đầu, đã thổn thức vì nhớ thương. Như câu ca
dao Việt Nam," Yêu ai yêu cả đường đi lối về", David cũng yêu
cái mênh mông của dòng sông Cửu Long, yêu hàng dừa lơi lả nơi
bến sông, nhìn những đợt sóng nhấp nhô trong những buổi hoàng
hôn, David tưởng như nó chuyên chở bao nhiêu tình tự dân tộc,
hiền hòa, vui tươi và đầy thiện cảm. Mỗi buổi sáng, David say
sưa ngắm nhìn những tà áo trắng bay bay như những cánh bướm,
trên chiếc xe đạp thong thả của đám nữ sinh mỗi buổi đến trường.
Cả thành phố dậy lên sức sống, người ta đi lại đông đảo, đàn bà
xách giỏ đi chợ, vài chiếc xe chất đầy rau quả, những đứa trẻ
con ngoan ngoãn đi học với nhau, chiến tranh hình như chưa hiện
diện nơi đây. David có được những tháng ngày thật tuyệt vời với
công việc của mình, một biệt thự xinh đẹp tọa lạc trên con đường
trung tâm thành phố.
Năm ấy Mai độ mười bảy tuổi, tư chất thông minh cộng thêm nét
ngây thơ của cô bé mới lớn, đã chinh phục trái tim ông thầy trẻ
tuổi. Cách biểu lộ tình cảm của mỗi dân tộc có khác nhau, David
không hề dấu diếm tình yêu của mình với cô gái trẻ, trong khi
Mai cố tình né tránh, dù nàng rất có cảm tình với ông thầy vừa
đẹp trai, lại rất hiền hậu nữa. Sau nhiều lớp học ở Trung tâm
Việt Mỹ, Mai là một học sinh xuất sắc được chọn là người phụ
giáo cho những lớp học vỡ lòng, trong thời gian này hai người
cùng làm việc chung, có thêm điều kiện vừa làm vừa học,David
càng thấy gần gũi nàng hơn.
Với bản tính thẳng thắn của người Mỹ, David tỏ tình và đề cập
với Mai về chuyện hôn nhân, chàng nghĩ nó rất đơn giản như bao
cuộc hôn nhân trên xứ sở chàng. Nhưng điều làm cho David đớn đau
hơn cả, không ngờ Mai đã từ chối kết hôn với chàng, nguyên nhân
chỉ giản dị là không cùng chủng tộc, cha mẹ nàng coi đấy là điều
không thể chấp nhận, dù David là một chàng trai học thức. David
không hiểu tại sao Mai không quyết định được chuyện hôn nhân của
mình, dù rằng Mai cũng cảm thấy mình yêu thương chàng trai Mỹ
tóc vàng, mắt xanh hiền lành ấy. David thắc mắc thì Mai chỉ im
lặng thở dài, rồi cho chàng biết những gia đình Việt Nam bảo thủ
nề nếp, không bao giờ chấp nhận chuyện con cái kết hôn với người
ngoại quốc.
Sống ở Việt Nam khá lâu, ăn những món ăn Việt Nam, học được cách
cư xử của người Việt, David hoàn toàn chấp nhận tất cả những đòi
hỏi theo phong tục, tập quán người Việt nhưng vẫn bị từ chối.
Thật sự chàng không thể nào hiểu nổi dân tộc này, trong cái thân
thiện bên ngoài hình như họ vẫn dấu kín những thành kiến bí ẩn,
có lẽ đã ăn sâu vào gốc rễ trong tâm hồn họ. Không lấy được Mai,
nhiều khi thất vọng đến chán chường, David còn muốn tìm cái chết
để quên đi hình bóng diễm kiều của cô gái Việt. Cuối cùng, bị
khủng hoảng tinh thần, David không thể tiếp tục làm việc, với ý
nghĩ một ngày nào đó Mai thuộc về người khác. David được hồi
hương trước thời gian ấn định, lúc chia tay, lần cuối cùng gặp
nhau, Mai đã khóc và nói với chàng :
"Nếu không được kết hôn với anh, em sẽ không bao giờ lấy ai
nữa."
* * *
Câu chuyện tình của người đưa thư tưởng đến đấy là hết, bất ngờ
David hỏi tôi:
"Tại sao dân tộc cô lại có cái nhìn khe khắt như thế? Một tình
yêu khác chủng tộc có phải là điều tội lỗi?"
Tôi bối rối nhìn ông, không làm sao cắt nghĩa cho ông hiểu.
Đúng, tình yêu tự nó đâu có gì tội lỗi, nhưng dưới con mắt lệch
lạc của những người có nhiều thành kiến, thì họ vẫn không chấp
nhận. David lại nói tiếp:
"Hơn hai mươi năm tôi vẫn không quên điều đó, vẫn tìm tòi văn
hóa Việt, và tôi hiểu tại sao họ không tiến hơn được, khi nhất
định ôm khư khư cái cũ mà không chấp nhận cái mới, dù rằng cái
mới sẽ đem đến cho họ nhiều cơ hội tốt đẹp hơn.”
Tôi thở dài nói với David:
"Tôi nghĩ không chỉ người Việt Nam chúng tôi mới có quan niệm
thiển cận như thế, mà cả ngay những người Mỹ, cũng đâu có thích
con cái họ lấy một người không cùng sắc tộc với mình. Chẳng qua,
dân tộc Việt Nam lấy chữ hiếu làm đầu, cho nên ít khi con cái
dám chống đối lại cha mẹ, và họ chấp nhận điều ấy như là một thứ
định mệnh đã đặt để, ông thông cảm cho. Nhưng thưa ông, đấy chỉ
là những suy nghĩ của thời gian đó, bây giờ mọi điều đã thay
đổi..."
Giọng David đều đều như tiếng mưa rơi ngoài hiên, ông nhìn những
giọt mưa rớt ngoài hiên, như nhìn về quá khứ của mình năm xưa.
Ông nói:
"Cô có biết tôi đã đau khổ biết bao nhiêu khi không lấy được
Mai, tôi đâm ác cảm với tất cả người Việt vì lối suy nghĩ của
họ. Khi về nước, lâu lắm tôi vẫn không quên được người con gái
ấy, rồi lại nhớ đến câu nói cuối cùng của Mai nói với tôi, tôi
không nghĩ rằng Mai đã thực hiện được. Khi đất nước cô bị rơi
vào tay Cộng Sản, tôi vẫn hy vọng là sẽ gặp Mai trong đám người
Việt di tản sang Hoa Kỳ, nếu cô ấy chưa lấy ai, thì trên xứ sở
này không ai cấm cản Mai kết hôn với tôi cả".
Tôi ngắt lời David:
"Ông có gặp lại cô ta không?"
David gật đầu, đôi mắt xanh chợt buồn, để rồi lại toát ra một
tia nhìn ấm áp:
"Có, tôi đã gặp lại Mai, nhưng bấy giờ tôi là người dừng lại, vì
Mai đã là một nữ tu đang săn sóc cho đám trẻ mồ côi đem từ Việt
Nam sang. Lần này tôi thực sự cảm thấy mình không có quyền theo
đuổi con người cao quý đó. Mai đã hy sinh tình yêu, tuổi xuân để
phục vụ cho một nghĩa vụ cao cả hơn, đấy là tình nhân loại. Tôi
vẫn yêu Mai, nhưng không có quyền giữ lấy nàng làm của riêng,
khi nhìn thấy bản chất cao đẹp trong tâm hồn nàng."
Giọng ông ta chợt bùi ngùi:
"Đồng thời tôi cũng hiểu được ý nghĩa lời nói của Mai, khi đã
khóc và nói với tôi câu nói cuối cùng trước khi chia tay nhau.
Nàng là người con gái Việt Nam thuần túy có những suy nghĩ theo
tính cách của dân tộc nàng, nhưng trong tình yêu, tôi hiểu nàng
cũng yêu tôi, thích hợp với đời sống và việc làm của tôi, nhưng
vẫn không dám chống đối lại cha mẹ. Để rồi cuối cùng cô đã chọn
con đường ấy, con đường phục vụ cho tha nhân."
Đôi mắt xanh buồn buồn của người đưa thư lại hướng về bức tranh
có những cây mai vàng óng ả treo trên tường, thật dịu dàng ông
nói tiếp:
"Từ đấy, tôi muốn mình cũng như Mai, làm một điều gì đem lại
niềm vui cho mọi người, dù rất nhỏ nhoi. Nếu không hỏi cô, có lẽ
lá thư này sẽ bị trả lại cho người gửi, bạn cô mất đi một niềm
hy vọng, và ngay cả cô cũng mất niềm vui được đọc một lá thư.
Bao nhiêu năm rồi tôi có nhiều cơ hội để tìm một việc làm tốt
hơn, nhưng tôi vẫn vui thích với nghề nghiệp hiện tại, khi nghĩ
mình đã đem đến cho mọi người những gì họ chờ đợi, nhất là những
lá thư Việt Nam. Vì tôi hiểu rằng từ miền đất xa xăm nghèo khổ
kia, họ đã phải tiết kiệm như thế nào mới có đủ tiền để gửi một
lá thư cho người phương xa."
Tôi cảm động nghe ông ta nói, tự thấy xấu hổ với mình khi chính
tôi có lúc đã rất hững hờ với những lá thư từ bên nhà gửi sang,
cũng chỉ vì sợ phải giúp đỡ. Ngược giòng thời gian, tôi như nhìn
thấy mình trong quá khứ, trong lúc cùng cực vẫn trông chờ một
niềm hy vọng, vậy tại sao tôi lại không có được tấm lòng như
người đưa thư này. Lúc ấy, nhìn đôi mắt xanh của ông ta, chòm
râu hung hung viền quanh mặt, trông ông hiền hậu và dễ thương
như ông già Noel đem niềm vui cho trẻ con mỗi mùa Giáng Sinh.
Tôi nói với ông rất thành thật:
"Tôi cám ơn ông, một người Mỹ có một tấm lòng với quê hương tôi,
dân tộc tôi, dù trước kia ông đã bị đau khổ vì sự suy nghĩ của
họ."
Mưa đã ngớt, chưa tới sáu giờ mà trời mùa Đông đã tối xầm lại.
David đứng dậy, ông còn phải trở về Bưu điện, đem theo những lá
thư người trong chung cư nhờ ông gửi giùm. Ông chào tôi rồi mang
đôi giày vào chân, mỉm cười nhìn những bóng đèn màu chớp tắt
trên cây Giáng Sinh ở góc phòng. Tôi nhìn theo người đưa thư
bước ra đường, lòng dâng lên một niềm ấm áp cho dù đang là mùa
Đông ở xứ người. Câu chuyện của David đã làm tôi suy nghĩ. Tình
yêu muôn thuở vẫn chỉ là Tình yêu, nhưng vượt lên trên đó, nó có
một sứ mệnh thật cao cả khi người ta nhìn ra cái đẹp của nó, và
sống với cái đẹp của tình yêu.
Giờ này, ở một nơi nào đó trên đất Mỹ, Mai, cô gái Việt Nam năm
xưa, có lẽ nay đã đứng tuổi, vẫn hăng say phục vụ tha nhân trong
lãnh vực của cô. Không biết cô có hiểu rằng, chính tình yêu của
cô đã làm cho David, người đưa thư quen thuộc của khu chung cư
này, cũng đang đi con đường của người ông yêu tha thiết năm xưa,
cũng với mục đích đem niềm vui đến cho mọi người. Giá tất cả thế
nhân đều nghĩ đến nhau với một tấm lòng như thế, thì có lẽ chiến
tranh đã chấm dứt từ lâu trên trái đất.
Nguyên Nhung |

Thơ Văn chỉ là những gì
trong tâm tư của người viết, gửi vào cuộc đời chút chia xẻ
đã trải qua, cảm nhận được. Dòng đời giống như một dòng
sông, có khi êm đềm, có khi dậy sóng, nơi ấy bao nhiêu con
thuyền đã có duyên để gặp gỡ nhau, tìm được nhau qua những
buồn vui của thân phận người.
Nguyên Nhung.
|