Một người tội nghiệp
Tôi
không định viết về ông ta, một người đàn ông bất hạnh, thật tội
nghiệp có cái tên là Xẹt, nếu không có hiện tượng những vì sao
băng, sao xẹt trong một đêm trời mùa Đông như năm nay. Tôi bỗng
dưng nhớ tới người đàn ông mang tên Xẹt, qua hình ảnh những vì
sao nằm rải rác trên giải ngân hà, mà mỗi vị sao hình như đã gắn
bó với số phận của mỗi con người nơi trần thế.
Hồi còn nhỏ, tôi vẫn thường nghe kể câu chuyện về các vì sao,
theo tính cách truyện dân gian. Mỗi một vì sao khi băng trên nền
trời, rồi tắt lịm đi, đấy là dấu hiệu vừa có một người vĩnh biệt
cõi đời. Nhưng mỗi lúc ấy, nếu ai ao ước điều gì, mà lại ước kịp
với khoảng thời gian ngắn ngủi của một vì sao xẹt thì sẽ được
toại nguyện. Điều thú vị ấy đã ám ảnh bọn trẻ con, ngồi dưới đất
mà mơ tưởng chuyện trên trời, bởi vậy tôi đã nhiều lần ngồi nhìn
sao băng mà ao ước những chuyện không bao giờ xảy tới. Nó ám ảnh
đến độ khi lớn khôn, hiểu rằng điều ấy chỉ là chuyện hoang tưởng
của những mơ ước, thế mà mỗi khi thấy một vì sao rơi, hay băng
ngang trên nền trời khuya, tôi vẫn cứ thầm thì nói nhanh những
mơ ước của mình.
Đấy chỉ là chuyện những vì sao, những kỳ bí của trời đất, cho
thế giới thần tiên của trẻ con. Còn chuyện người đàn ông mang
tên Xẹt, tôi sẽ lần lượt kể về cuộc đời của ông ta, thì thôi, cứ
xem như số phận ông ta đã gắn bó với một vì sao xấu.
* * *
Không biết tên thật của ông là gì, nhưng vì ông có một cái chân
không cất bước được bình thường như những cái chân khác, nó cứ
lẹt xẹt trên mặt đường, nên lũ trẻ con đều gọi ông là ông Xẹt.
Một tay chống gậy, một chân lết trên mặt đường, cái thân hình ấy
lắc lư đi trong con ngõ nhỏ, là nỗi kinh hoàng của lũ trẻ con độ
tuổi mẫu giáo hồi ấy. Đúng ra thì ông ta không dữ như "Ba Bị
chín quai, mười hai con mắt, hay bắt trẻ con", nhưng cũng vì lời
hù dọa của người lớn, khiến lũ trẻ con nhìn ông Xẹt qua hình ảnh
một người quái đản, chỉ thích ăn thịt con nít. Vì được đem ra
làm trò hề để hù dọa lũ trẻ yếu bóng vía, ông Xẹt bỗng dưng quen
thuộc với vai trò này, và vì thế bất cứ một đứa trẻ nào được ông
nhìn tới, cũng đều nem nép ngồi yên trong lòng mẹ.
Chả hiểu ông bị tật bẩm sinh từ hồi cha sinh mẹ đẻ, hay là qua
một cơn bịnh bại liệt, khiến một cái chân bị teo dần đi, thêm
một chiếc gậy trong tay, chân này dựa vào chân kia mà bước.
Tiếng gậy gõ lộp cộp trên con đường tráng xi măng trong ngõ,
dáng xiêu vẹo như một chiếc cột đổ nghiêng, người đàn ông quần
áo bẩn thỉu đi đến từng nhà trong xóm, để ăn xin một chút tình
thương của đồng loại, những con người có lòng may mắn hơn ông vì
còn hai chân đứng ngay ngắn trong cuộc đời.
Ông ta có cái mặt hơi dị hợm, đôi mắt to, hơi lồi ra trên khuôn
mặt đen đủi xấu xí, mỗi khi nói lại cà lăm cho nên tất cả những
cái xấu dường như đã được ông Trời tô điểm thêm một cách không
bình thường. Nghe người ta kể, ngày xưa gia đình ông rất khá
giả, nhưng ông bố vì ăn chơi trác táng mà của cải cứ thế lần
lượt đội nón ra đi. Đến lúc ông ta sinh ra thì lại ốm đau tật
nguyền, mẹ chết sớm, bởi thế khu vườn rộng và căn nhà lợp ngói
âm dương đã lọt vào tay người khác. Chỉ còn lại một cái chái nhỏ
ở góc vườn, hồi xưa là chuồng heo, đó là nơi trú ngụ của ông Xẹt
để lê lết nốt cuộc đời khốn nạn, trả cho xong cái nghiệp làm
người.
Khi nghe tiếng gậy gỗ lộc cộc đi vào ngõ, bà nội trợ vội vét nốt
chút thức ăn thừa vào một chiếc chén đá, với một muỗng to cơm
nguội, ông Xẹt đã có một bữa đỡ lòng với những của bố thí ấy. Có
nhà rộng rãi và khá giả hơn, cho ông ta đồng bạc, rồi xua ngay
đi như xua một con chó ốm bẩn thỉu. May ra ông Xẹt chỉ có chút
uy dũng đối với lũ trẻ con ba bốn tuổi, đang khóc nhè để ăn vạ,
bỗng nín thinh ngay khi thấy bóng dáng xiêu vẹo với chiếc gậy gỗ
của ông gõ vào cánh cổng.
* * *
Không biết ông Xẹt bao nhiêu tuổi, và không biết tại sao người
ta cứ gọi ông là "chú Xẹt", nhưng dẫu là tuổi gì thì ông Xẹt vẫn
có số cầm tinh “bị, gậy", con cháu nhà cái bang. Thời kỳ đó
tương đối người ta còn kiếm được nồi cơm, con cá dễ dàng, chú
Xẹt nhờ thế cũng nhận được lòng từ tâm của con người rộng rãi.
Bước qua thời kỳ đói kém hơn, người ta không có cơm nguội để ăn
thì lấy gì cho chú Xẹt no bụng. Thành thử chú cũng đói, chiếc
gậy gỗ vẫn kêu to trong con ngõ đã vắng vẻ hơn trước kia, nhưng
ít khi nào người ta mở cổng vẫy chú ta vào cho một bát cơm. Chú
Xẹt cố gắng tìm những nhà có trẻ con còn bé hay vòi vĩnh, rồi ra
oai cho đứa bé nín khóc, may ra thì được củ khoai. Có khi cũng
chẳng được gì, chú lại lê chiếc gậy sang nhà khác, với một dáng
điệu tần ngần mà không dám mở lời xin xỏ như dạo trước, vì giữa
cảnh đói khổ chung, chú hiểu người ta cũng cực nhọc lắm mới lo
nổi ngày hai bữa cơm thường.
Giữa khi ấy, tự nhiên lại nổi lên chiến dịch giúp đỡ và chăm sóc
những người nghèo khổ, giai cấp được coi như bị áp bức trong xã
hội, người ta không còn dám coi thường chú Xẹt nữa. Chẳng biết
chú được mời tới đâu, tham dự những buổi họp quan trọng nào,
nhưng người ta thấy chú ăn nói đã thay đổi, có lập trường hẳn
hoi. Mỗi tháng, chú được cấp phát một số gạo đủ ăn, thêm một vài
thứ lặt vặt như ký đường, túi xà bông giặt, cục xà bông cô Ba
thơm phức, còn thì thức ăn và củi lửa mắm muối phải tự túc. Chú
Xẹt vẫn phải đi ăn xin, nhưng bỗng dưng thay đổi hẳn tính nết
cũng như cách nói năng cho hợp với chỗ đứng của mình trong xã
hội, làm như ai cũng phải có bổn phận giúp đỡ chú. Đó là ảo
tưởng sai lầm của một người cùng đinh, bỗng dưng thấy một ngày
được đưa vào giai cấp có quyền đòi hỏi sự đối đãi bình đẳng
trong xã hội. Nào ai dám làm gì chú, chỉ sự nghèo khổ đã là một
bức tường thành bảo vệ "bất khả xâm phạm"
Trong những buổi lễ nho nhỏ tại địa phương, người ta thấy chú
ngồi ngất nghểu ở hàng ghế trên, ăn mặc khá tươm tất, chiếc gậy
vẫn gác bên thành ghế, và người ta đã nói năng lễ phép hơn để
chú khỏi mếch lòng. Ngay cả những buổi lễ Tôn giáo, khi chú Xẹt
tới, người ta vẫn dành cho chú một chỗ ngồi đàng hoàng lắm. Chỗ
ấy ngày xưa dành cho những vị chức sắc, những người có của. Nay
thời buổi thay đổi, chú Xẹt cũng được tôn trọng và ngồi ngang
vai vế với những người khác cho có vẻ bình đẳng.
Họ đóng kịch cả thôi, làm gì có chuyện đó, chỉ có chú Xẹt là
ngây thơ tưởng mình một bước lên tới Giời. Chú sung sướng ngồi
ngó quanh ngó quẩn. Kìa bà Bảy chủ đất, cô Tám sạp vải, ông giáo
dạy trường cấp Ba, tất cả đều ngồi ở hàng ghế sau, vì những
người không có một mảnh đất cắm dùi như chú, bỗng nhiên hôm ấy
leo lên cả hàng ghế trên, những cô những bà những ông đi ngang
ai cũng nhoẻn miệng cười thân thiện.
Chỉ được mỗi hôm đó, hay là mỗi khi cần diễn một vở kịch “bất
phân giai cấp” thì người ta ngại ngần gì mà không đưa chú Xẹt
lên chín tầng trời, như một ngôi sao sáng. Chú Xẹt chưa bao giờ
cảm nhận được sự hãnh diện được làm một người nghèo khổ xứng
đáng như lúc này. Có món gì ngon hôm ấy, người ta cũng dành cho
chú, sự dịu dàng ấm áp của những tấm lòng sao nó nhiều thế,
khiến chú vừa sung sướng vừa cảm động.
Nhưng cũng chỉ thế thôi. Sau buổi lễ, khi ra về người ta đi
ngang chỗ chú ngồi, có mỉm cười nhưng chỉ là nụ cười giễu cợt sự
ngây thơ của chú. Rồi khi tất cả đã ra về, chú Xẹt lại một mình
lê cái chân què, lần theo chiếc gậy để trở về cái ổ heo của
mình. Nói thế cũng không ngoa, chỗ ở của chú chính là cái chuồng
heo ngày xưa, và nó cũng hôi hám, bẩn thỉu như một cái chuồng
heo vì chú đâu có bao giờ giặt giũ những màn mùng chăn chiếu ấy.
* * *
Đúng ra nếu cuộc đời có được những phút giây le lói như một vì
sao, kể cũng hạnh phúc vậy. Những phút giây ngắn ngủi ấy thường
in sâu vào tiềm thức, và nó làm cho lắm kẻ bồi hồi mãi khi nhớ
lại, chứ chắc gì đã chịu nhìn ra đấy chỉ là một sự bịp bợm.
Đối với công việc của nhà nước thì việc giúp cho chú hơn chục ký
gạo hẩm đã là chu toàn nhiệm vụ nhân đạo đối với nhân dân, nhưng
quần chúng thì không còn nhìn chú với cái nhìn yêu mến như
trước. Cái dại lớn nhất của chú Xẹt là chú lại biết yêu, yêu một
"con mẹ" vừa ngớ ngẩn, vừa nghèo khổ như chú nên nó là nguyên
nhân dẫn tới sự chú bị mọi người hắt hủi, và không còn rộng tay
bố thí như trước. Làm như một người đói khổ, nghèo hèn như chú
không có quyền yêu, khi tình yêu là sản phẩm độc quyền dành cho
những người "no cơm rửng mỡ”, vì càng lắm chức lắm quyền, càng
lắm tiền chừng nào thì mới có cơ hội để yêu và được yêu. Xã hội
vốn vẫn bất công như vậy, huống gì chú Xẹt giờ này tự nhiên đang
từ ánh đèn leo lét trong đêm tối, nay được biến thành vì sao thì
sự dám biết yêu của chú quả là một điều không thể chấp nhận.
Có khổ có nghèo thì chú Xẹt cũng là một con người, cũng có trái
tim bằng thịt, cũng thèm thuồng được ôm ấp một cái gì biết động
đậy để sưởi ấm nỗi cô đơn của con người vậy. Nhưng với tính ích
kỷ cuả loài người, người ta không chấp nhận cho chú có quyền
yêu. Chú biết lắm chứ, người ta xì xào bàn tán vì thấy chú hay
đi ngang nhà con mẹ dở hơi, mắt mũi kèm nhèm, chuyên môn đi làm
việc vặt để kiếm cơm như chú. Cứ trông thoang thoáng đằng sau
lưng thì chị ta cũng dễ coi, nhưng phải nhìn tận mặt thì mới
thấy đó là một người ngớ ngẩn, rất tội nghiệp. Chị ta ở với một
người bà con xa từ hồi nhỏ, ngày hai bữa cơm và năm được hai bộ
quần áo. Hai người khốn khổ ấy gặp nhau, một anh què quặt, một
chị ngớ ngẩn cũng xứng đôi vừa lứa lắm đấy, thế nhưng họ vẫn trở
thành trò cười cho lũ người vô tâm kia, và cả hai kẻ cô đơn yếu
thế ấy đã bị lên án rằng "cơm không có ăn, áo không có mặc" mà
còn động cỡn.
Chú Xẹt đâu có định sinh ra đời để làm Thánh. Bởi vậy một hôm,
có tý tiền lẻ trong túi, chú bèn nghĩ đến chuyện rủ người đàn bà
kia đi uống cà phê, với cái giọng cà lăm đặc biệt của chú:
"Đi, đi . . . uống . . . cà phê hông?"
Không biết sao cái con mẹ dở hơi kia nó lại bằng lòng đi uống cà
phê với chú Xẹt, và vì thế mà câu chuyện nổ tung ra như quả tạc
đạn. Cả xóm xì xào chuyện chú Xẹt và chị ngớ ngẩn kia đi uống cà
phê với nhau, thế là tất cả những người hay bố thí cho chú chút
cơm thừa, tý tiền lẻ đều dần dần xa lánh chú, xem chú như kẻ
đang phạm tội gì ghê gớm lắm. Người ta hà khắc với một kẻ bần
cùng thèm khát chút tình yêu ấy làm gì không biết, chỉ thấy rằng
từ ngày ấy chú Xẹt cứ gầy rộc đi, chú lê chiếc gậy gỗ đi ngang
nhà người đàn bà ngớ ngẩn kia, ngơ ngẩn như một kẻ mất hồn, hay
như một thi sĩ thất tình đang đi tìm người trong mộng. Có người
nhiều chữ nghĩa biết đọc sách thì lý luận rằng, ngày xưa Chí
Phèo tuy xấu xí, thô lỗ là vậy mà vẫn dám yêu Thị Nở, thì hà cớ
gì lại hẹp lòng không chấp nhận tình yêu của chú Xẹt với mụ dở
người kia? Chuyện ấy là chuyện cũ, còn thời buổi "gạo châu củi
quế" này, chỉ mỗi việc quản thúc cái bao tử cũng đủ làm đương sự
hết vía, không dám tơ tưởng chuyện yêu đương nhăng nhít.
* * *
Khi gió mùa thổi tới, trời hơi lành lạnh, gió đã thổi hiu hắt
qua rặng dừa nước nơi mé sông, tôi gặp chú Xẹt lê tấm thân gầy
gò với chiếc gậy gỗ vào xóm nhỏ. Đầu rối bù, đôi chân đất cáu
bẩn, người chú hình như muốn rũ xuống như một tàu lá chuối héo.
Bây giờ chú cũng không còn hứng thú để đóng vai một con cọp dữ
gầm gừ với lũ con nít hay khóc nhè nữa. Con người ấy như muốn
gập xuống vì khổ, chữ tình là cái chi chi mà nó hành hạ con
người quá sức như vậy, chưa kể không mấy người muốn bố thí bát
cơm cho con người tội nghiệp đó.
Chú ngồi xổm bên cạnh chiếc cổng gổ nhà tôi, chỉ nhìn chứ không
thốt lên lời xin xỏ nào. Đầu tiên thì tôi cũng giống như mọi
người, cũng cho chú cái nhìn ác cảm "cơm không có ăn, áo không
có mặc" mà lại dám yêu. Nhưng nhìn vẻ thiểu não cuả con người
cùng khổ này, cầm lòng không đậu, tôi cho chú một chiếc chăn cũ.
Rồi lục trạn cũng không còn gì, tôi lấy cho chú một đĩa cơm
nguội với chút cá kho, chú cũng chỉ hờ hững cầm đĩa cơm, ngồi
bệt xuống đất rồi xúc từng muỗng vào mồm với vẻ uể oải của một
người ốm. Tôi vừa nhìn chú ăn, vừa tò mò muốn biết con người
nghèo khổ đến tận cùng bằng số khi yêu như thế nào:
"Sao chú dại thế, rủ bà kia đi uống cà phê làm gì cho khổ thân
ra."
Chú Xẹt đưa cặp mắt lờ đờ nhìn tôi:
"Tội nghiệp tui mà . . . cô hai. Hai đứa chỉ, chỉ . . . uống
chung có một ly "xây chừng", chứ đâu có tiền mà, mà . . . mỗi
đứa một ly. Cả đời tui đâu, đâu có. . . có bao giờ dám mời, mời
ai một ly cà phê."
Tôi làm bộ dọ dẫm:
"Người ta nói chú muốn lấy chị kia làm vợ, có phải không?"
Chú gật đầu:
"Con chó cũng có. . . bạn, con chim cũng . . . cũng có đôi, vậy
tui là con người, sao không cho . . . tui một người đàn bà để,
để. . . làm bạn..."
Tôi hiểu được nỗi cô đơn và sự thèm thuồng ở con người tội
nghiệp này, dù sống trong tình trạng tồi tệ của con người không
ra con người, con vật không ra con vật, chú Xẹt vẫn cần một bếp
lửa hồng trong những chiều gió mưa, vẫn cần có người hỏi han khi
ốm đau, bệnh tật. Chuyện chia xẻ miếng cơm manh áo cho người
nghèo khổ là điều cần thiết, nhưng không vì thế mà hẹp hòi với
những nhu cầu cần phải có của tâm hồn, để không khoan dung với
một người nghèo khổ, bất hạnh như chú Xẹt. Tôi chưa kịp nói gì
thêm thì chú Xẹt đã nói, như một người biết hối hận vì sự dại
dột của mình, mà cũng như một lời trần tình của một tâm hồn yếu
đuối nhất vì yêu:
"Tui . . . buồn lắm cô hai, nhưng tui hứa . . . tui hổng dám
thương ai nữa. Bữa hổm, tui bịnh, "con mẻ" lén qua cạo gió cho
tui, hông là tui. . . tui chết “gồi” . . . "
Chú Xẹt nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm trong miệng. Tự
nhiên, tôi cũng mủi lòng muốn khóc.
* * *
Những vì sao xẹt trên bầu trời đêm qua, khiến tôi nghĩ tới người
đàn ông tội nghiệp mang tên Xẹt. Hơn ba mươi năm rồi, bây giờ
chắc gì chú còn sống. Nếu như tin rằng những vì sao băng trên
vòm trời kia, là những linh hồn vừa từ giã cõi đời, thì thôi,
cũng ước cho chú là vì sao ấy để giải thoát khỏi kiếp người tội
nghiệp. Tôi mong rằng ở một kiếp lai sinh, chú Xẹt có được làm
người, xin hãy cho chú một cuộc sống no đủ, và một trái tim được
tự do yêu thương, vì con người vốn vẫn là một sinh vật yếu
đuối...
Nguyên Nhung |

Thơ Văn chỉ là những gì
trong tâm tư của người viết, gửi vào cuộc đời chút chia xẻ
đã trải qua, cảm nhận được. Dòng đời giống như một dòng
sông, có khi êm đềm, có khi dậy sóng, nơi ấy bao nhiêu con
thuyền đã có duyên để gặp gỡ nhau, tìm được nhau qua những
buồn vui của thân phận người.
Nguyên Nhung.
|