tình tang ... tính tình
Thế
là ông ấy về, con bạn đến báo tin để chúng tôi cùng ra phi
trường đón ông chú nó từ Mỹ về thăm nhà. Tôi cũng không ngạc
nhiên lắm trước tin này, vì trong lá thư viết cho tôi ông có nói
cho biết như thế. Qua sự giới thiệu cuả Mai, bạn cuả tôi và cũng
là cháu cuả ông, ông về Việt Nam kỳ này là để tìm ý trung nhân.
Trong hình, ông có vẻ tráng kiện và chưa già lắm so với tuổi,
đàn ông ngoài sáu mươi đâu đã gọi là già, bây giờ người ta còn
bảo tuổi bảy mươi mới là bắt đầu tuổi xuân cho những người sống
lâu trăm tuổi. Ý ẹ, chẳng biết người giàu sống lâu ra sao, riêng
người nghèo lỡ như trời cho sống dai, con cháu khổ quá lấy ai
nâng giấc lúc tuổi già mà ham sống. Ông sống ở nước ngoài, được
ở điều kiện tốt, nom còn phong độ lắm. Ðúng là "người tốt vì
lụa, luá tốt vì phân", ba tôi cũng chỉ mới sáu mươi mà mắt mũi
nom đã hom hem lắm rồi.
Cả nhà bạn tôi nôn nao chờ, ai cũng ăn mặc như ngày hội. Tôi đơn
giản trong chiếc áo lụa màu hoàng yến, mớ tóc mây đen nhánh thả
xuống bờ vai thon, một chút son phấn cũng làm tôi rực rỡ hẳn
lên. Tôi biết ông thích như thế, khi muốn tìm một người con gái
Việt Nam thuần tuý Á Ðông.
Khi chuyến bay cuả ông sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, tự
nhiên tôi hồi hộp quá. Nào có gì đâu mà sợ, nhưng tôi ngại mình
sẽ có những cử chỉ quê muà, luộm thuộm trước mắt ông, một người
Việt sống ở Mỹ đã lâu, chắc hẳn phong cách khác xa với kẻ ở quê
nhà. Cả nhà Mai uà tới đón ông, ai cũng ríu rít, tôi khép nép
đứng đằng sau chờ đợi. Sau cái ôm hôn và xiết tay từng người
trong gia đình, Mai đẩy ông tới trước mặt tôi. Thật lịch sự, ông
nghiêng đầu chào, nụ cười tươi, đôi mắt kính gọng vàng lấp lánh,
ông ôm vai tôi, vỗ nhẹ, không có vẻ xuồng xã mà rất thân tình,
như đã quen nhau từ kiếp trước.
Cả nhà tíu tít đẩy những chiếc va ly nặng trĩu, những thùng giấy
đầy quà ông mua về làm quà cho thân nhân, trong ấy là những
chiếc quần "bò" chính gốc dân chăn bò miền Texas, áo sơ-mi, váy
dài váy ngắn đủ kiểu, (sau này tôi mới biết toàn những quần áo
cũ ông thu lượm được của các con), tất cả đều toát ra một mùi
thơm dễ chịu, cả người ông cũng thế. Những ngày sau đó là ngày
vui của gia đình Mai, tôi là người ngoài độc nhất tham dự. Những
bữa ăn linh đình trong các nhà hàng lớn ở Sài Gòn, những chuyến
du ngoạn Ðà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang, lần đầu tiên trong đời,
tôi được đi xa thoải mái với những tiện nghi chỉ dành cho thành
phần giàu có. Mọi người tranh nhau vây lấy ông, bao nhiêu câu
hỏi tíu tít về cuộc sống ở nước ngoài, những con mắt thèm thuồng
nhìn sự no đủ cuả ông toát ra từ nước da hồng hào, bộ quần áo
mặc trên người cho đến đôi giày đi dưới chân, cái gì cũng lịch
sự, thơm tho, sạch sẽ.
Sau những lúc bận rộn với gia đình, ông dành thì giờ để gặp tôi,
khi thì có Mai, lúc không, ai cũng phải ngầm hiểu lý do ông về
thăm quê nhà lần này là để tìm người "nâng khăn sửa ví". Trong
đám người nhà của Mai, gần như ai cũng xem tôi là một thành viên
trong gia đình, tuy vẫn ngấm ngầm đâu đó sự ganh tỵ khi thấy ông
đặc biệt chú ý đến tôi. Tôi vẫn xưng hô chú cháu, cho đến khi
ông đề cập thẳng đến mục đích cuả chuyến về, rồi xưng anh với
tôi thì vấn đề đã thực sự có vẻ nghiêm trọng.
Hai mươi hai tuổi, đã đôi lần hẹn hò với bạn trai đồng trang
lứa, tôi có xôn xao suy nghĩ đến hình ảnh người đàn ông cuả đời
mình, nhưng chưa hề nghĩ đến chuyện lấy chồng, vì đám trẻ chúng
tôi bây giờ, sau bao khó khăn cuả cuộc sống, chúng tôi không quá
ngây thơ để hấp tấp về làm vợ một anh chàng với viễn ảnh hai quả
tim vàng, một lu nước lạnh. Ðột ngột quá, dù tôi biết thế nào
cũng có chuyện đó, nhưng ông và tôi gặp nhau vỏn vẹn chỉ mới hai
tuần, thư từ được dăm lá, ông nói bên kia khá bận cho những
chương trình lớn, bởi vậy không có thời gian để tìm hiểu lâu
hơn. Ông kể chuyện nước Mỹ, một thế giới văn minh, con người
được thừa hưởng tất cả những ưu đãi cuả vật chất, điều ấy thì
tôi thực sự mơ ước. Ông có ba người con, hai trai một gái nhưng
đã tự lập, lũ nhỏ ảnh hưởng nền giáo dục cuả Mỹ không thích làm
phiền cha mẹ, mà cha mẹ cũng không có quyền làm phiền con cái.
Nay vợ ông đã ra người thiên cổ, ông hoàn toàn độc lập, nếu lấy
ông tôi sẽ không bị ai quấy rầy cả.
Hồi hộp nhất là hôm ông ngỏ ý đến chơi nhà cho biết, và để gặp
bố mẹ tôi về việc muốn cưới tôi làm vợ. Ông đã đánh tan mặc cảm
con gái nhà nghèo trong một ngõ hẻm đa số là dân lao động, thôi
thì vải vóc, nước hoa, phấn sáp cho mẹ tôi và mấy chị em gái,
quần áo đắt tiền, kẹo chocolate cho thằng em trai, rồi thuốc
thơm, rượu "xịn" cho ba tôi. Mỗi lần đến lại một lần quà nhìn cứ
ngộp con mắt, cả nhà không ai dám dùng, chỉ để dành ngắm cho
sướng mắt.
Khó nhất là vấn đề xưng hô, ông sêm sêm tuổi mẹ, gần bằng tuổi
ba, gọi bằng gì cho phải. Cuối cùng thì ba mẹ tôi gọi ông bằng
"anh", còn ông cung kính dùng hai chữ "ông bà". Thế là ổn nhất,
ai muốn hiểu sao cũng được, "anh" cũng có nghiã là bạn đồng
trang lứa, mà cũng có nghiã thân mật hơn là con cháu trong nhà.
Mọi người đều hoan hỉ như trúng số, riêng tôi vẫn ngại ngần chưa
dám gọi ông bằng anh, chỉ nói trống không.
Ba tôi ngỏ ý băn khoăn cho sự chênh lệch tuổi tác, nhưng vốn từ
xưa đến nay, ông là người "ba phải" ai nói sao cũng ừ, ai bảo
sao cũng gật, vợ con là trên hết. Mẹ con cũng dẫn nhau đi coi
tuổi, nhưng thời buổi này có tuổi nào ngon lành bằng viễn ảnh
được lấy chồng xa, Ðài Loan, Ðại Hàn, Nhật Bổn, Hồng Kông què
chân cụt tay vẫn còn có giá, huống gì một Việt Kiều từ Mỹ về
thơm như nước hoa thì trách nào con gái không bổ nhào vào lấy
chồng xa. Cái câu ca dao:
"Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng đem cho..."
Câu ca dao ấy xưa rồi, bây giờ người ta đổi lại cho hợp thời:
"Có con mà gả chồng xa
Lâu lâu lại có đô la gửi về."
Mẹ con bàn bạc mất mấy ngày, khoản tuổi tác được thông qua khi
quan niệm tình yêu làm gì có biên giới, đám trẻ bây giờ văn minh
tiến bộ có quan niệm cởi mở hơn, "thứ nhất muối tiêu, thứ nhì
Việt Kiều...", người lớn thì tính toán, "nhất vàng, nhì đô, thứ
ba là nhà cửa". Tính chán thì cả nhà đi đến quyết định như là
tôi có dịp đi hợp tác nước ngoài, vừa có tiền giúp đỡ gia đình,
lại được làm vợ một người giàu có. Cứ cho là tôi hy sinh cho cha
mẹ được nhờ, huống gì ông cũng rất có "mẽ" một người ăn học, ví
như nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, đấy chỉ là một cách nói,
chứ tôi thấy cũng ham lắm, hy sinh vì tiền có vinh dự gì mà
khoe.
Ðám cưới được tổ chức gấp rút vào tuần lễ thứ ba ông ở Việt Nam,
như một đám cưới chạy tang. Ba mẹ tôi không mời bao nhiêu người,
dù ông bảo không đáng gì cái khoản ăn uống đó. Còn lạ gì đám họ
hàng nhà tôi, thấy có tiền thì họ bò đến ngay, nhưng cứ vừa ăn
vừa móc méo, mai miả cái cọc cạch tuổi tác cuả đôi trẻ. Mẹ tôi
thì cho rằng con ưng đâu thời gả đó, quý hồ chàng rể biết lo,
tôi có phận nhờ. Tôi cười thầm trong bụng mà không nói ra, sáu
mươi chứ còn bé bỏng gì lại không biết lo, có cuả ăn cuả để như
thế đâu phải người khờ khạo.
Tôi trở thành đàn bà sau những ngày trăng mật ngắn ngủi trong
một khách sạn hạng trung ở Vũng Tàu, ông nói cần phải tiết kiệm
để lo cho tương lai. Ông đúng là người đàn ông biết lo xa, lấy
ông rồi tôi mới biết ông tiêu pha khá thận trọng, nếu không vì
một mục đích nào đó phải tiêu. Chuyện ái ân quá mới mẻ, chưa đằm
thắm để tôi có được cái ngây ngất trong những ngày trăng mật,
như những cảnh thơ mộng vẫn được tả trong tiểu thuyết. Cảnh vợ
chồng cọc cạch như đôi đũa lệch khiến đôi khi tôi nhìn ông như
bậc cha chú, tuy vậy lúc ngồi trong xe du lịch đời mới, trong
những cửa hàng sang trọng có người hầu hạ, tôi cũng thấy đời lên
hương, tự mãn trong lòng, chỉ đôi khi dạo trên đường phố, nhìn
bọn "trai thanh gái lịch" dung dăng dung dẻ với nhau, tôi lại
thấy tiêng tiếc cái tuổi thanh xuân của mình. Phần ông lại hay
cho tôi nhiều lời khuyên, đôi khi tôi có cảm tưởng mình "vớ"
phải một ông cố vấn...
Giấy tờ đã làm xong, trước khi về nước ông đã nhờ luật sư chuẩn
bị mọi thứ đầy đủ, có lẽ nếu không lấy tôi ông cũng lấy một
người nào đó, ông chu đáo thật, nhưng tính toán cũng kỹ ghê. Ðứa
con gái vừa ra đời như tôi nhìn ông bằng đôi mắt kính nể, tất
cả ở ông là sự trang trọng và sạch sẽ, tôi chưa bao giờ thấy có
một thứ tình yêu sạch sẽ, tươm tất đến thế.
Trước khi ông ra đi, buổi tối ngồi gần bên ông, tôi chưa thấy
mình có đủ cái buồn cho sự chia ly cuả tình nghĩa vợ chồng, bên
tai đầy ắp những lời ông dặn dò dành cho người ở lại. Ông mua
cho tôi một chiếc xe "hơi bị cũ" để đi học Anh văn, ông bảo đi
xe mới không tốt vì dễ bị bọn bất lương dòm ngó. Cũng đúng thôi,
Sài Gòn thời buổi nhiễu nhương, đa số không công ăn việc làm,
người lương thiện cũng dễ sinh đạo tặc vì đói, chỉ có cán bộ nhà
nước là no, hoặc những nhà có nguồn viện trợ đô la tận nước
ngoài là ấm.
Nhà tôi nghèo, ba tôi là một nhân viên tuỳ phái trong một trường
Tiểu Học, lương không đủ một bữa ăn chơi của Việt kiều. Mẹ tôi
may hàng gia công kiếm từng đồng, chị em tôi đưá nào cũng ngược
xuôi vất vả mà vẫn chưa đủ ăn. Ông cho tôi tháng hai trăm, vừa
đóng tiền học vưà giúp đỡ gia đình, tôi có muốn đua đòi cũng
chẳng được. Gia đình Mai có nhiệm vụ theo dõi tôi, ba mẹ tôi
cũng biết con gái "ván đã đóng thuyền" nên cũng hết mực gìn giữ,
thằng em trai có bổn phận đưa đón chị đi học, chẳng biết ông anh
rể dặn dò ra sao mà nó cũng nhiều lần "lên lớp" với tôi khi thấy
tôi vui với bạn bè trang lứa. Tuổi còn trẻ, tôi cố ru ngủ mình
với cái viễn ảnh huy hoàng một ngày theo chồng sang bên kia,
nhưng vẫn không thể quên được đám bạn trẻ vui nhộn đồng trang
lứa. Tôi như con chim sơn ca bị giam hãm trong cái lồng vàng son
vật chất, không còn niềm vui cất tiếng hót líu lo để làm đẹp
cuộc đời.
* * *
Lụi hụi rồi cũng đến ngày đi, bạn bè ai cũng bảo tôi trúng số
độc đắc. Bơ vơ một mình với mớ Anh văn ít ỏi, tôi xách va ly
sang Mỹ, không ai quen biết để hỏi han, lúc gặp ông nơi phi
trường, tôi khóc như mưa, khóc như Chiêu Quân cống Hồ. Chắc ông
ngạc nhiên đến mừng rỡ khi tưởng tôi tủi thân vì nhớ ông, nhìn
cảnh đưa đón chỉ trơ trụi có hai người, thêm bầu trời xám xịt
cuả muà Ðông xứ lạ, tôi lại nhớ cái đông đảo cuả gia đình, bạn
bè ở quê hương, vì thế mà không làm sao cầm được nước mắt.
Ông xin nghỉ hai tuần "vacation" để ở nhà vui vầy với cô vợ mới.
Thôi thì ngày quấn quýt, đêm nâng niu, hai người nhốt kín nhau
trong căn nhà đóng kín cửa, xung quanh toàn hàng xóm Mỹ. Mệt bã
người vì chuyến bay xuyên lục địa, tôi ngủ li bì, mặc ông muốn
vầy vò sao cũng được. Chừng mở mắt ra thấy cái gì cũng mới, cũng
lạ, cũng văn minh, cái xe hơi nào đối với tôi cũng êm ái hết,
mắt cứ hoa lên vì ánh đèn toả sáng trong những nhà chọc trời,
ánh đèn xe cộ chấp chới nối dài như nẻo về thiên thai.
Khi ông phải đi làm tôi mới biết buồn. Cứ tưởng ông làm gì lớn
lắm trong xã hội, hoá ra ông chỉ là nhân viên cho một hãng Bảo
Hiểm, hèn gì ai ông cũng quen. Còn lại một mình trong căn nhà
vắng lặng, tôi rụt rè không dám đụng đến một thứ gì, chỉ sợ hư
hỏng đổ vỡ.
Trước hôm lễ Giáng Sinh, lũ con ông về thăm bố, nhân tiện ngó
mặt tôi một phát. Ðứa lớn còn hơn cả tuổi tôi, giống hệt bố ngày
trẻ tuổi trong những tấm hình, nghe nói đang là kỹ sư cho một
công ty dầu hỏa, hai đứa nhỏ đang học đại học. Tôi là cái đích
cho sáu con mắt ấy dán vào, chúng thấy tôi ngồ ngộ ở cái vẻ khép
nép, rụt rè, tại chân ướt chân ráo chứ có ngày tôi sẽ cho chúng
biết tay. Tưởng vậy thôi, nghe chúng nói chuyện với nhau bằng
tiếng Anh, tôi ngồi như "vịt nghe sấm", chẳng hiểu gì, thằng con
lớn còn nói được tiếng Việt, thấy tôi buồn hỏi tôi có muốn đi
"shopping", tôi thấy ông cau mày khó chịu. Khi biết tôi suốt
ngày đóng cửa ở trong nhà, sợ cả "ma sống lẫn ma chết", chúng nó
cùng rú lên "Oh, my God!", như phát hiện tôi mắc bệnh tâm thần,
lại nhìn "Daddy" với một vẻ trách móc.
Buồn cười nhất là lúc còn ở Việt Nam, ông viết thư về bắt tôi
phải chăm lo việc học, nhắc nhở thằng em chở chị đến trường. Từ
lúc sang đây, tôi không nghe ông đả động gì đến sự học, chuyện
tập lái xe ông cũng lờ đi, chợ buá, sắm sửa, tiệc tùng đã có ông
kè kè bên cạnh. Ông nói nước Mỹ không được giữ tiền mặt trong
túi, cho nên tôi chỉ có vài chục để dành từ lúc rời Việt Nam
sang đây, đi chợ hay đi "mall", ông dùng "credit card" để trả,
muốn cắt xén chút đỉnh tiền chợ gửi về nhà cũng khó, mà mở miệng
hỏi ông chuyện gửi tiền về gia đình tôi cũng ngại, còn ông thì
không nghe nhắc nhở gì đến ba mẹ tôi bên ấy nữa.
Có một chuyện tôi khó quên được, vừa buồn cười mà cũng tủi thân,
đấy là cái hôm ông dẫn tôi đi "shopping" mua mấy món cần dùng,
tình cờ gặp gia đình một người quen. Bà kia thấy ông đi với tôi
chưa gì đã khen ầm lên là con gái xinh quá, học hành tới đâu,
cậu con trai đi theo mẹ cứ mắt la mày lét liếc tôi hoài. Xứ này
các cậu tìm vợ hơi khó, cho nên cha mẹ cứ thấy đám nào hay hay
lại dòm ngó cho lũ con trai ế vợ. Hôm ấy ông ngượng quá, đến độ
quên không giới thiệu tôi là gì của ông, vội vàng dắt tôi về, từ
đấy không còn hứng dẫn cô vợ trẻ đi đâu nữa. Biết tôi buồn chắc
ông cũng hiểu, nhưng bản tính ích kỷ cuả đàn ông vẫn thắng, tôi
chỉ là con búp bê, để mình ông ngắm vuốt, nâng niu, rồi lại đem
cất vào tủ kính.
Cái lần ông thật sự nổi giận là lần thằng con lớn ông gạ gẫm dạy
tôi lái xe. Tôi thích mê lên ấy chứ, nhưng chưa gì ông đã quát
ầm lên, thằng con mở banh mắt nhìn cha như con quái vật, rồi
nhún vai bỏ đi. Từ đấy nó không đến nữa, nhưng những lúc ông
vắng nhà, nó vẫn gọi phôn thăm tôi, nói đủ thứ chuyện đời, cả
hai đứa cười rúc rích. Có lúc tôi đã từng ao ước, giá ông đem
tiền mà đổi được cái thân xác trẻ trung, căng đầy nhựa sống ấy
có phải tôi hạnh phúc biết bao nhiêu.
Càng giận dữ, càng ghen tuông, càng mệt mỏi ông lại càng mau già
đi một cách thảm hại, không chống đỡ được. Ông đã dùng đồng tiền
để lột trần thân thể tôi, thì tôi cũng nhờ thời gian làm tách
bạch cái già nua, lão hoá trên từng phân vuông da thịt ông.
Những món tôi thích ăn và ăn một cách ngon lành thì ông không
"xực" được, phần ông sợ trăm thứ "bà dằn" có trong thực phẩm,
muối, mỡ, đường cái nào ông cũng kiêng, ăn uống khủng khỉnh như
một nhà quý phái. Bộ máy đã đến lúc rệu rã, có tu bổ thì cũng ì
ạch chạy, chứ sao bằng cái bắp thịt cuồn cuộn, cái dáng đi vững
chãi cuả thằng con trời đánh kia.
Ðêm nào ông cũng trằn trọc khó ngủ, mà hễ ngủ lại ngáy o o như
lò rèn kéo bễ, bộ phận hô hấp cũng lủng củng mất rồi. Lắm lúc
bất chợt thức giấc, ngắm nghiá khuôn mặt ông nhăn nhó những nét
buồn phiền, lòng tôi não nề đến phát khóc. Chưa kể những lúc ông
cố gắng đi đứng hùng dũng như một thanh niên ba mươi tuổi, một
người già cố làm cho mình trẻ, trông vừa buồn cười lại vừa lố
bịch. Thỉnh thoảng vào muà hè, ông cũng dẫn tôi đi tắm biển, đỏm
dáng với chiếc áo sơ mi chim cò. Vùng này bãi biển chỉ toàn Mễ,
Mỹ trắng và Mỹ đen, có thấy thì họ cũng cho là bố con dẫn nhau
đi nghỉ mát, bao nhiêu con mắt cứ dán chặt vào thân hình mảnh
mai, hấp dẫn của tôi mà chiêm ngưỡng ...
Ngày dài rồi lại đêm thâu, tôi sống quạnh quẽ trong căn nhà vắng
lặng, các thứ cây lá rậm rạp quanh nhà càng làm tôi sợ nổi da
gà, một nước Mỹ trên phim ảnh đẹp như tranh vẽ, bây giờ buồn
chán đến tê tái cả lòng. Những lúc ông đi làm, tôi thờ thẫn ra
sân chăm sóc mấy chậu kiểng, trồng mấy liếp rau cho qua đi thời
gian trống trải. Nhà bên cạnh có hai ông bà Mỹ già hay ra sân
ngồi sưởi nắng, khi thấy tôi họ thường "Hello" cười thân thiện
nhưng chẳng nói năng gì, chắc họ lạ lùng khi thấy tôi còn trẻ mà
cứ quanh quẩn vào ra trên khoảng sân ấy.
Mãi một hôm, tôi đánh bạo đứng ven bờ rào nhìn ông bà hàng xóm,
bà già nhìn tôi cười móm mém, cặp mắt xanh biếc hiền hậu. Bà hỏi
tôi có phải nhà chỉ có hai bố con. Trời ơi là trời, trời đang
nắng chan hoà mà bỗng tối xầm lại, tôi đứng ngây người mặc cho
hai dòng nước mắt tuôn như mưa, bà hàng xóm "sorry" rối rít,
chắc bà tưởng mẹ tôi đã chết, nhà chỉ còn mỗi hai bố con.
Thế này thì làm sao tôi chịu nổi, có lẽ tôi phải nhờ thằng con
ông ấy giúp tôi ra khỏi căn nhà này càng sớm càng tốt. Chưa bao
giờ tôi căm giận ông đến thế, ông có quyền gì mà cầm giữ, huỷ
hoại tuổi trẻ cuả tôi theo cái già cỗi cuả con người ông. Nếu cứ
cho rằng ông có một vẻ đẹp tâm hồn, thì ông hẳn nhiên không có.
Ông đã mua tuổi trẻ tôi bằng tiền, mà tôi đã dại khờ tưởng rằng
tiền sẽ mang lại hạnh phúc, huống gì đồng tiền ông bỏ ra đâu có
xứng đáng với những gì tôi phải trả: tuổi trẻ, trinh tiết và
hạnh phúc cuả tuổi xuân.
Nguyên Nhung |

Thơ Văn chỉ là những gì
trong tâm tư của người viết, gửi vào cuộc đời chút chia xẻ
đã trải qua, cảm nhận được. Dòng đời giống như một dòng
sông, có khi êm đềm, có khi dậy sóng, nơi ấy bao nhiêu con
thuyền đã có duyên để gặp gỡ nhau, tìm được nhau qua những
buồn vui của thân phận người.
Nguyên Nhung.
|