Đường xưa mây trắng
(Theo gót chân Bụt)
Quyển I
Phần
2
C6.
Bóng mát cây hồng táo.
C7.
Giải thưởng voi trắng
C8.
Chuỗi ngọc
C9. Con đường tâm linh và Con đường xã hội
C10.
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
C6.
Bóng mát cây hồng táo
Hồi còn chín tuổi, Siddhatta đã nghe kể lại rằng ngày có mang
Siddhatta, mẹ của Siddhatta đã nằm mộng thấy một con voi trắng sáu
ngà từ trên trời đi xuống. Trên không nhã nhạc vang lừng và tiếng ca
hát chúc tụng của chư thiên vọng lên không ngớt. Con voi trắng đi
xuống càng lúc càng gần, da của nó trắng như tuyết trên đỉnh núi và
vòi của nó quấn một đóa sen hồng. Con voi tới gần bà, đưa đóa hoa
chạm vào người bà. Rồi con voi ấy đi vào trong bà. Tự nhiên bà thấy
trong người sảng khoái lạ thường. Bà có cảm tưởng rằng từ nay bà sẽ
không bao giờ còn khổ đau, lo lắng, giận dữ và phiền muộn nữa.Bà
thức giấc. Chưa bao giờ bà cảm thấy hạnh phúc như thế. Bà chỗi dậy.
Những tiếng hát ca của chư thiên và nhạc trời êm ái còn như văng
vẳng bên tai bà. Bà đi tìm vua Suddhodana và kể cho vua nghe về giấc
mộng. Vua chia xẻ niềm vui với bà. Sáng hôm ấy, vua vời những đạo sĩ
và những thầy bà la môn nổi tiếng ở kinh đô vào cung để nhờ đoán
mộng. Sau khi đã nghe kể về giấc mộng của hoàng hậu, các vị đều nói:
- Tâu bệ hạ, hoàng hậu sẽ hạ sinh hoàng nam. Thái tử sau này sẽ là
một người xuất chúng. Thái tử có thể sẽ là một vị chuyển luân thánh
vương trị vì cả bốn cõi; thái tử cũng có thể sẽ đi tu và trở thành
vị lãnh đạo tinh thần cho cả cõi người và cõi trời. Cõi đất của
chúng ta, tâu bệ hạ, đã chờ đợi từ lâu rồi một người như thái tử.
Vua Suddhodana rất vui mừng. Sau khi hội ý với hoàng hậu, vua cho
lệnh lấy bớt tài vật trong kho ban phát cho những người ốm đau và
bệnh tật trong xứ. Thần dân ở vương quốc Sakya đều được thấm nhuần
ơn đức của vua và hoàng hậu.
Mẹ của Siddhatta tên là Maha Maya, người nước Koliya. Hoàng hậu Maya
là một người đức hạnh. Bà thương yêu con người, nhưng bà cũng biết
thương yêu các loài cầm thú và cỏ cây. Mùa xuân năm sau, đúng vào
ngày trăng tròn tháng tư, hoàng hậu hạ sinh thái tử trên đường từ
Kapilavatthu về thủ đô Ramagama của vương quốc Koliya, quê hương của
bà. Tục lệ của nước bà là người con gái có chồng phải về sinh con
tại nhà cha mẹ. Trên đường đi, bà đã ghé vào nghỉ tại vườn Lumbini.
Trong vườn muôn hoa đang nở rộ, chim chóc đang ca hát vang lừng.
Những con công xòe đuôi rực rỡ trong nắng mai. Thấy một cây Vô ưu
hoa nở rực rỡ đầy cành, bà bước tới. Khi tới gần cây này, bà thấy
hơi lảo đảo. Bà vội đưa tay nắm chặt một cành cây vô ưu. Một giây
sau đó, bà sinh em bé. Thái tử Siddhatta được các thị nữ nâng lên và
bọc lại trong một tấm khăn choàng bằng lụa màu vàng. Các thị nữ biết
rằng chuyến đi Ramagama không cần thiết nữa cho nên dìu hoàng hậu ra
xe bốn ngựa đi trở về Kapilavatthu. Thái tử được đem tắm bằng nước
ấm rồi được đặt lên giường bên cạnh hoàng hậu.
Được tin, vua Suddhodana lập tức vào thăm hai mẹ con. Vua vui mừng
khôn xiết. Mặt vua sáng rỡ. Vua đặt tên cho thái tử là Siddhatta.
Hôm đó tất cả quần thần đều được nghe tin. Mọi người đều đến chúc
mừng vua và hoàng hậu. Vua Suddhodana truyền mời các ông thầy tướng
giỏi đến coi tướng cho Siddhatta. Ông thầy nào cũng nói rằng
Siddhatta có tướng của một vị chuyển luân thánh vương, và cũng đều
tiên đoán rằng thái tử sẽ là một vị vua trị vì không phải một phương
mà cả bốn biển.
Một tuần lễ sau đó, có một vị đạo sĩ bà la môn tên là Asita
Kaladevala đến thăm. Đạo sĩ Asita là một ẩn sĩ trên núi. Vị đạo sĩ
này đã già lắm. Lưng ông đã còng. Ông đã phải chống gậy đi từ trên
núi xuống.
Khi được quân hầu báo tin, vua Suddhodana đích thân ra khách
đường chào ông và đưa ông vào cung thăm thái tử. Ông nhìn thái tử
một hồi mà không nói năng gì. Bỗng nhiên ông nấc lên khóc. Thân hình
ông rung rung trên chiếc gậy. Vua hoảng kinh, hỏi:
- Tại sao, tại sao thầy khóc như thế? Có điềm gì không hay sẽ xảy ra
cho trẫm hoặc cho thái tử đây không?
Đạo sĩ Asita lấy tay quệt nước mắt. Ông lắc đầu:
- Tâu bệ hạ, không có điềm gì xấu cả. Tôi khóc là tôi khóc cho số
phận tôi. Tôi biết thái tử sau này sẽ thành một bậc vĩ nhân, thấu
suốt được mọi lẽ huyền vi của vũ trụ. Thái tử sẽ không làm vua đâu:
thái tử sẽ làm một vị đạo sĩ lấy trời đất làm quê hương, lấy muôn
loài làm thân tộc. Tôi khóc là vì tôi sẽ chết trong nay mai, và
chẳng có diễm phúc được nghe tiếng nói của chân lý thốt ra từ miệng
người. Bệ hạ có phúc lớn lắm, nước nhà có phúc lớn lắm mới có được
thái tử.
Tâu xong, đạo sĩ Asita lập tức rời bỏ hoàng cung để về núi; vua
Suddhodana tìm đủ mọi cách để lưu ông lại, nhưng vua không thành
công.
Cuộc viếng thăm của đạo sĩ Asita làm vua buâng khuâng. Vua không
muốn rằng sau này Siddhatta đi tu. Vua chỉ muốn sau này Siddhatta
nối nghiệp vua để làm vua, và mở rộng bờ cõi. Vua nghĩ rằng đạo sĩ
Asita chỉ là một đạo sĩ trong hàng trăm hàng ngàn vị đạo sĩ khác. Có
thể là ông nói sai. Và có thể là những vị đạo sĩ khác đã nói đúng.
Nghĩ như thế, vua thấy yên dạ.
Hoàng hậu Maya sinh thái tử được tám ngày thì mất. Cả nước thương
tiếc bà. Vua Suddhodana tuyển ngay em ruột của bà là bà Mahapajapati
vào cung và đưa lên ngôi hoàng hậu. Phu nhân Pajapati cũng còn được
gọi là Gotami. Bà thay thế chị để chăm sóc Siddhatta. Siddhatta là
cháu gọi bà bằng dì, nhưng bà thật sự xem Siddhatta như con ruột của
chính bà. Lớn lên, Siddhatta đã nhiều lần hỏi bà về mẹ. Siddhatta
biết rằng dì Gotami thương mẹ lắm và cũng biết rằng trong trời đất
có lẽ ngoài dì Gotami không ai có thể thương mình bằng mẹ của mình.
Được săn sóc và thương yêu, Siddhatta lớn lên rất mau.
Một hôm đang ngắm Siddhatta chơi ngoài vườn ngự, bà Mahapajapati
nghĩ:
- Đã đến lúc mình có thể dạy cho con trai đeo vòng và đeo ngọc.
Bà truyền thị nữ đem đủ các thứ vòng và chuỗi đến để bà đeo thử cho
Siddhatta. Bà thử hết mọi loại vòng vàng và mọi loại chuỗi ngọc,
nhưng không thứ nào đeo vào mà có thể làm cho Siddhatta đẹp hơn và
dễ thương hơn. Siddhatta cũng tỏ ý không thích các loại trang sức
này. Cuối cùng Gotami nhận thấy rằng cứ để cho Siddhatta tự nhiên
thì Siddhatta lại đẹp hơn và dễ thương hơn. Và bà truyền lệnh đem
cất hết các thứ vòng vàng và chuỗi ngọc.
Đến tuổi đi học, Siddhatta được học đọc, học viết, học vẽ, học âm
nhạc và học thể thao. Siddhatta được học chung với các vương tử khác
trong dòng họ Sakya. Tất cả đều là con trai. Trong số các bạn học
của Siddhatta, có Devadatta, Kaludayi và Kimbila. Devadatta là em
chú bác của Siddhatta. Kaludayi là con của một vị đại thần trong
triều, Kimbila là một người em cô cậu của Siddhatta. Vì tư chất
thông minh, Siddhatta học rất mau chóng. Thầy dạy chữ của Siddhatta
là giáo sư Visvamitra. Devadatta đã là một đứa trẻ thông minh đối
với ông, nhưng Siddhatta mới là đứa trẻ làm cho ông kinh ngạc. Ông
chưa bao giờ dạy một đứa trẻ thông minh đến như thế.
Năm lên chín, Siddhatta được cùng các bạn đi dự lễ cày ruộng đầu
năm. Bà Gotami đã tự tay mặc áo và mang giày cho Siddhatta. Các bạn
cùng lớp học đều được đi theo Siddhatta. Chính vua Suddhodana sẽ
đứng ra chủ tọa buổi lễ này. Các vị đạo sĩ và tu sĩ Bà la môn ở
những cấp cao đều được mời tới dự. Các thầy mặc áo và đội mũ rất sặc
sỡ. Buổi lễ được cử hành ở những thửa ruộng tốt nhất của vương quốc
không xa vòng ngoài hoàng thành là mấy. Đây là mùa xuân. Cờ xí treo
đầy đường đầy ngõ. Thức ăn thức uống và rượu được bày biện la liệt
trên các đài cúng thần. Các đội âm nhạc và ca vũ chia nhau đi các
ngả đường để giúp vui cho ngày hội. Không khí tưng bừng náo nức. Các
thầy Bà la môn xướng tụng rất uy nghiêm. Phụ vương của Siddhatta mặc
hoàng bào và các vị đại thần trong triều phục lớn đều đang đứng xoay
mặt về phía lễ đài. Siddhatta đứng với các bạn phía sau, một bên là
Devadatta, một bên là Kaludayi. Các thị nữ nói rằng sau buổi lễ thì
sẽ có ăn cỗ, và cỗ sẽ được bày ngay trên các bãi cỏ. Siddhatta thích
lắm, vì ít khi Siddhatta có dịp được ngồi trên bãi cỏ mà ăn cơm.
Nhưng các thầy tụng kinh lâu quá, bọn trẻ con nóng ruột chờ không
nổi. Chúng rủ nhau đi chơi. Kaludayi kéo tay Siddhatta. Bọn trẻ kéo
nhau về phía có ca vũ và âm nhạc. Trời đã bắt đầu nắng gắt. Áo quần
các nhạc công đều đã ướt đẫm mồ hôi. Trán các nàng vũ nữ cũng lấm
tấm mồ hôi. Chạy chơi một hồi lâu, Siddhatta cũng thấy nóng bức.
Siddhatta bỏ các bạn đến núp nắng dưới một cây táo đỏ bên đường.
Dưới bóng cây im mát, Siddhatta cảm thấy dễ chịu. Vừa lúc ấy bà
Gotami đi đến. Bà nhìn Siddhatta:
- Mẹ đi tìm con từ hồi nãy. Con đi đâu lâu thế? Có lẽ con nên trở về
dự cho xong buổi lễ để cho phụ vương vui lòng.
- Thưa mẹ, buổi lễ kéo dài quá. Các thầy đọc kinh gì mà lâu vậy hả
mẹ?
- Họ đọc kinh Vệ Đà đó con. Kinh đó nghĩa lý huyền diệu lắm. Mai này
con sẽ được học. Kinh này do chính thiên chúa Brahma mặc khải cho
các thầy Bà la môn tự không biết bao nhiêu đời rồi.
- Thế sao phụ vương không đọc kinh mà lại phải mời các thầy ấy đọc
thưa mẹ?
- Chỉ những người sinh ra trong dòng họ Bà la môn mới có quyền xướng
tán và đọc tụng kinh này thôi con ạ. Họ thuộc giai cấp tăng lữ. Vì
vậy các nhà chính trị như phụ vương con uy quyền nhiều như thế mà
cũng phải cần tới họ.
Siddhatta suy nghĩ về những điều mà bà Gotami vừa nói. Cậu lặng yên
hồi lâu rồi chắp hai tay lại:
- Xin mẹ trở lại với phụ vương con đi. Mẹ xin phép cho con được ở
lại đây chơi. Ngồi dưới cây hồng táo này con thấy vui và khỏe quá
thưa mẹ.
Chiều con, bà Gotami gật đầu. Bà lấy bàn tay vuốt lại tóc trên đầu
Siddhatta, mỉm cười rồi trở lại lối cũ.
Các thầy Bà la môn đã kết thúc việc đọc kinh. Vua Suddhodana đã bước
xuống ruộng, nắm lấy cán cày, và với sự phụ tá của hai vị võ quan,
đi luống cày đầu tiên của mùa làm ruộng mới. Quần chúng hoan hô vang
dội. Các nông dân trong vùng bắt đầu xuống ruộng làm theo vua, cày
những luống đầu tiên trên ruộng họ. Nghe tiếng hò reo, Siddhatta
cũng chạy ra đứng ở bờ ruộng. Cậu thấy một con trâu đang nặng nhọc
kéo cày, theo sau là một bác nông dân thân hình lực lưỡng, nước da
như đồng đen. Tay trái bác cầm cày, tay phải bác cầm roi quất vào
lưng trâu. Trời nắng gắt và mồ hôi ông ta chảy ra nhễ nhại. Đất lật
ngửa rẽ ra thành luống hai bên lưỡi cày, thật đẹp. Có những con giun
bị lưỡi cày xắn làm hai khúc, quằn quại trên luống đất mới cày. Có
những con chim bay sà xuống thấp, mổ những con giun và đứng ăn giun
trên luống đất mới. Rồi cậu thấy một con chim lớn sà xuống, cắp một
con chim nhỏ bay lên.
Siddhatta đứng xem mải mê một hồi ngoài nắng, và đến lượt cậu, cậu
cũng thấy mồ hôi chảy ướt trong người. Trời nóng quá. Siddhatta chạy
về núp ở dưới cây hồng táo. Những hình ảnh mà cậu vừa chứng kiến đối
với cậu thật là mới lạ. Những hình ảnh ấy kích thích cậu. Siddhatta
tới dưới gốc cây hồng táo, ngồi xếp bằng và nhắm mắt lại để chiêm
nghiệm về những gì đã thấy. Cậu ngồi rất thẳng, rất đẹp và khá lâu.
Khắp nơi quần chúng đã tập họp ca hát, đàn địch, nhảy múa. Có những
người đã bắt đầu dọn cỗ bàn trên những bờ ruộng hay dưới những bóng
cây. Nhưng Siddhatta vẫn ngồi yên chăm chú vào những hình ảnh trong
nội tâm, không nghe thấy gì. Một lát sau, khi vua và hoàng hậu tới
cây hồng táo để tìm con thì Siddhatta vẫn còn ngồi đó. Hoàng hậu
Gotami cảm động đến muốn khóc khi thấy Siddhatta ngồi đẹp như bức
tượng nhỏ dưới gốc cây. Nhưng vua Suddhodana thì khác. Vua cảm thấy
lo ngại. Chín tuổi mà con mình đã biết ngồi trầm tư như thế thì lời
ông đạo sĩ Asita có thể thành sự thực. Phiền muộn, vua truyền lấy xa
giá về cung trước, không ở lại dự tiệc trên bãi cỏ với quần thần.
Một đám trẻ con dân dã đi ngang qua đùa giỡn lớn tiếng. Bà Gotami
đưa tay ra hiệu cho bọn trẻ im lặng. Bà chỉ cho bọn trẻ thấy
Siddhatta đang ngồi dưới gốc hồng táo. Bọn trẻ đứng lại im lặng
nhìn. Bỗng nhiên Siddhatta mở mắt. Thấy hoàng hậu, thái tử mỉm cười:
- Mẹ ơi, đọc kinh cũng không giúp được những con chim và những con
giun, mẹ ạ.
Siddhatta đứng dậy chạy đến cầm tay bà Gotami. Cậu nhìn bọn trẻ con
nhà dân dã đang đứng yên nhìn cậu. Các em bé này cùng trạc tuổi với
Siddhatta nhưng ăn mặc rách rưới, mặt mày lấm láp và tay chân gầy
ốm. Nhìn lại sắc phục của mình, Siddhatta thấy ngượng. Tuy nhiên cậu
rất ưa chơi với bọn này. Siddhatta cười và đưa tay vẫy bọn trẻ. May
cho Siddhatta là có một đứa con trai cười đáp lại. Được khuyến khích
bằng nụ cười đó, Siddhatta quay lại xin phép mẹ cho bọn trẻ con được
tới tham dự cuộc vui trên bãi cỏ với mình. Bà Gotami lưỡng lự một
chút rồi gật đầu chiều ý thái tử.
C7.
Giải thưởng voi trắng
Năm Siddhatta lên mười bốn thì hoàng hậu Gotami sinh em Nanda. Cả
hoàng cung mở hội để ăn mừng. Siddhatta rất hãnh diện khi có một đứa
em. Mỗi ngày sau buổi học, Siddhatta thường chạy về thăm em.
Siddhatta đã lớn rồi nên được phép thỉnh thoảng ẵm em đi chơi.
Devadatta cũng hay đến chơi. Siddhatta cũng có những người em họ
khác: Mahanama, Baddhiya và Kimbila. Mỗi khi các em tới, Siddhatta
thường rủ họ ra chơi ở vườn hoa phía sau cung điện. Bà Gotami cũng
hay theo bọn trẻ ra vườn hoa. Bà ưa ngồi may áo cho Nanda trên một
chiếc ghế gỗ đặt bên cạnh hồ sen và nhìn bọn trẻ nô đùa. Bên bà luôn
luôn có một người thị nữ túc trực. Bà chỉ hay sai phái người thị nữ
này khi cần đi lấy nước nôi và bánh trái cho bọn trẻ.
Càng lớn lên, Siddhatta càng học giỏi. Devadatta đã nhiều lần tỏ vẻ
ganh tỵ với Siddhatta. Môn học nào Siddhatta cũng xuất sắc, kể cả võ
nghệ. Devadatta khỏe hơn Siddhatta, nhưng về phương diện lanh lẹ thì
lại không bằng Siddhatta. Về toán học, cả lớp đều nhường Siddhatta.
Giáo sư dạy toán là Arjuna có khi phải mất thật nhiều thì giờ với
những câu hỏi của Siddhatta. Về âm nhạc, Siddhatta rất ưa thổi sáo.
Siddhatta có một ống sáo thật quý do chính giáo sư âm nhạc của mình
tặng cho. Có những buổi chiều hè, Siddhatta ra ngoài công viên một
mình để thổi sáo. Tiếng sáo của Siddhatta có khi dìu dặt, có khi cao
vút khiến người nghe có cảm tưởng như đã thoát lên được trên mấy
từng mây. Nhiều hôm trong bóng đêm đang xuống, bà Gotami cũng ra
ngoài vườn ngự ngồi nghe tiếng sáo của con. Bà cảm thấy khỏe khoắn
khi ngồi thả lòng bay theo tiếng sáo của Siddhatta.
Cùng với tuổi, Siddhatta càng ngày càng lưu tâm đến đạo học và triết
học. Siddhatta được học các kinh Vệ Đà và được nghiền ngẫm về những
đạo lý hàm chứa nơi các bài tụng trong các kinh ấy. Hai kinh Rigveda
và Atharvaveda là hai kinh được học hỏi nhiều nhất. Từ thuở ấu thơ,
Siddhatta đã được thấy các thầy Bà la môn hành lễ và đọc kinh. Bây
giờ đây Siddhatta đích thực đi vào trong nội dung của các kinh. Địa
vị của Lời Nói trong đạo Bà la môn rất quan trọng. Lời kinh đi theo
với nghi lễ là một sức mạnh lớn có thể ảnh hưởng tới và làm thay đổi
được tình trạng của thế giới và của con người. Vị trí của tinh tượng
và sự vận chuyển của bốn mùa có liên hệ mật thiết tới sự cúng tế và
tới lời kinh cầu đảo. Các thầy Bà la môn là những người duy nhất có
thể hiểu thấu được những lẽ huyền bí trong Phạm Thư và trong trời
đất, và có thể dùng lời kinh và nghi lễ để chỉnh lý lại được trật tự
trong tự nhiên giới và nhân sự giới.
Siddhatta được học rằng vũ trụ là một cái Ta lớn gọi là
Purusa, có khi gọi là Phạm Thiên, và các giai cấp của con người
trong xã hội đều được phát xuất từ những phần khác nhau của thân thể
vũ trụ ấy. Mỗi con người đều mang theo một cái ta cũng phát xuất từ
cái Ta siêu việt ấy và cùng một tính chất với cái Ta siêu việt ấy.
Cái ta này là bản chất thường tại trong mỗi con người.
Siddhatta lại còn được học thật kỹ về các Phạm Thư Brahmana và các
Áo Nghĩa Thư. Các giáo sư bao giờ cũng muốn giảng giải các thánh thư
theo truyền thống, nhưng Siddhatta và các bạn luôn luôn muốn đặt
những câu hỏi buộc họ phải nhắc tới những tư tưởng đương thời được
xem như không trung thành mấy với truyền thống.
Trong những ngày nghỉ học, Siddhatta thường rủ các bạn đi thăm các
vị sa môn và các vị Bà la môn nổi danh ở kinh đô để học hỏi. Nhờ xúc
tiếp nhiều như thế nên Siddhatta sớm tìm ra rằng hiện đang có những
cuộc vận động tư tưởng chống lại uy quyền thống trị của truyền thống
Bà la môn. Cuộc vận động này không những có mặt trong giai cấp Sát
đế lợi đang muốn vươn lên để nắm được cả quyền uy tinh thần lâu nay
đang nằm trong tay của giai cấp Bà la môn, mà cũng có mặt ngay trong
giới những người Bà la môn nữa.
Ngày xưa, từ khi được ăn cơm trên cỏ lần đầu với bọn trẻ dân dã,
Siddhatta thường xin phép được đi chơi, và nhân dịp đi thăm các thôn
xóm ngoài thành. Trong những chuyến đi như thế, Siddhatta thường cố
ý ăn mặc thật giản dị. Tiếp xúc với dân dã, Siddhatta học được rất
nhiều cái mà trong trường không bao giờ Siddhatta được học. Đã đành
dân chúng thờ phụng ba vị Thần của đạo Bà la môn là Brahma, Visnu,
và Siva, nhưng dân chúng cũng bị các thầy Bà la môn lợi dụng và bóc
lột quá mức. Trong tất cả các dịp quan, hôn, tang, tế, người dân đều
phải chu cấp thực phẩm tiền bạc và sức lao động của mình cho ông
thầy cúng, dù nghèo khó đến mấy cũng thế.
Một hôm, đi ngang qua một túp lều, Siddhatta nghe tiếng khóc kể thảm
thiết. Chàng rủ Devadatta ghé vào thăm, và được biết rằng người chủ
gia đình vừa mới qua đời. Đây là một gia đình nghèo khó. Mấy mẹ con
trông thật lam lũ, áo quần tả tơi. Nhà cửa xiêu vẹo, đổ nát. Hỏi ra
thì người chủ gia đình chỉ vì muốn mời ông thầy Bà la môn trong làng
tới cúng đất đai để có thể xây lại nhà bếp mà đã phải ở lại mấy ngày
làm lao động tại nhà cho ông thầy. Ông bị bắt làm việc rất nặng
nhọc, nào khuân đá, nào bửa củi, trong khi cơ thể ông đã suy nhược
vì một trận cúm. Sau mấy ngày lao động, ông thầy Bà la môn bảo ông
đi về trước và hẹn vài hôm sau sẽ đến cúng. Về tới nửa đường, người
chủ gia đình nghèo khó đã bị trúng gió và chết bên lề đường. Người
trong xóm phát giác ra và về báo cho mấy mẹ con hay.
Từ khi biết suy đoán, Siddhatta đã có khuynh hướng âm thầm không
chấp nhận ba giáo điều căn bản của đạo Bà la môn: Kinh Vệ Đà là
thiên khải cho riêng người Bà la môn, Phạm Thiên là đấng tối cao ngự
trị, và tế lễ có công hiệu vạn năng. Siddhatta thấy có cảm tình với
những vị sa môn và Bà la môn nào có tư tưởng cấp tiến dám thẳng thắn
phủ nhận giá trị của ba thứ quyền uy ấy.
Tuy vậy, Siddhatta không bao giờ bỏ một buổi học hỏi và thảo luận
nào về kinh Vệ Đà. Các môn học khác mà Siddhatta vẫn theo học là tự
vựng học (Nighandu), ngữ nguyên học (Sokkharappabhedana), sử truyện
(Itihasa) và văn pháp học (Veyyakarana).
Siddhatta rất ưa tiếp xúc với các vị đạo sư và sa môn. Biết rằng phụ
vương không ưa việc này, Siddhatta phải kiếm cớ đi du ngoạn để có
dịp tìm gặp các nhà tu ấy. Họ là những người không thiết tha đến
quyền lợi vật chất và địa vị trong xã hội như các ông thầy Bà la môn
chuyên lo tế tự và gần gũi giới có quyền thế. Trái lại, họ muốn từ
bỏ tất cả để đi tìm cầu sự giải thoát, cắt đứt những sợi dây ràng
buộc họ vào nếp sống đầy não phiền của cuộc đời. Họ là những người
đã từng học hỏi và thông hiểu qua Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư. Siddhatta
biết rằng tại nước láng giềng Kosala về phía Tây và nước láng
giềng Maghada về phía Nam có rất nhiều những vị sa môn như
thế. Và Siddhatta ao ước một ngày kia có thể đi đến những miền ấy để
tìm thầy học đạo.
Vua Suddhodana không phải là hoàn toàn không hay biết gì về tâm tư
của Siddhatta. Vua rất lo lắng về việc Siddhatta có thể đi tu theo
kiểu các vị sa môn. Có lần nói chuyện riêng với người em ruột là
Dronodanaraja, cha của Devadatta và Ananda, vua than thở:
- Vương quốc Kosala hay dòm ngó lãnh thổ nước ta. Nếu sau này chúng
ta không có người trẻ tài giỏi như Siddhatta và Devadatta thì lấy ai
mà nắm lấy vận mệnh của nước? Ta rất sợ Siddhatta sau này sẽ đi tu,
theo như lời tiên đoán của sa môn Asita Kaladevala. Devadatta lại
hay đi theo với Siddhatta. Chú có biết là hai anh em chúng nó ưa đi
gặp các thầy sa môn khổ hạnh hay không ?
Hoàng thúc Dronodanaraja rất lấy làm ngạc nhiên khi nghe vua nói.
Ngẫm nghĩ một hồi, ông ta thầm thì bên tai vua:
- Theo tôi, huynh vương nên lo cưới vợ cho Siddhatta. Có vợ con rồi
thì tư tưởng đi tu sẽ không còn.
Vua Suddhodana im lặng gật đầu. Tối hôm ấy vua tâm sự với bà
Gotami. Hoàng hậu hiểu ý vua, hứa sẽ lưu tâm tìm cách sắp đặt để
Siddhatta chóng lập gia đình.
Những buổi hòa nhạc, những hội thể thao và những cuộc du ngoạn từ đó
được tổ chức thường xuyên cho các giới trẻ được gặp nhau. Siddhatta
tham dự hết lòng vào những cuộc vui này, trong đó chàng gặp gỡ được
nhiều bạn mới, nam cũng như nữ.
Năm sau, hoàng hậu Gotami sinh cho Siddhatta một cô em gái. Công
chúa được đặt tên là Sundari Nanda.
Vua Suddhodana có một người em gái tên là Pamita. Chồng của bà là
Thiện giác vương Dandapani, thuộc bộ tộc Koliya. Họ có nhà cửa bên
thủ phủ Ramagama của vương quốc Koliya nhưng họ cũng có trú sở ở
Kapilavatthu. Sakya và Koliya là hai vương quốc nhỏ nằm sát bên
nhau, ngăn cách bởi con sông Rohini. Hai bên bộ tộc Sakya và Koliya
đã nhiều đời giao hảo với nhau rất thân mật. Kapilavatthu chỉ cách
Ramagama có một ngày đường. Hai vợ chồng được bà Gotami ủy thác tổ
chức một đại hội thể thao trên một bãi cỏ rộng mênh mông cạnh bờ hồ
Kunau. Vua Suddhodana đích thân chủ tọa đại hội này, bởi vì vua rất
muốn khuyến khích những người trai trẻ ở vương quốc Sakya bồi đắp
sức khỏe và trau dồi võ nghệ. Tất cả những người trẻ trong kinh đô
đều được mời tham dự, nam cũng như nữ. Các thiếu nữ tuy không tham
dự vào các cuộc tỷ thí nhưng được khuyến khích có mặt để tán thưởng
và cổ võ các chàng trai. Yasodhara, con gái của Dandapani và của
vương phi Pamita, đứng ra điều khiển việc tiếp tân. Yasodhara là một
cô gái nhan sắc diễm lệ. Nàng tự nhiên và tươi mát như một đóa sen
mùa hạ.
Siddhatta được làm quen với Yasodhara trong đại hội thể thao này.
Chàng đã chiếm giải nhất trong các môn thi bắn cung, đánh kiếm, cỡi
ngựa và cử tạ. Yasodhara được cử đem giải thưởng đến cho Siddhatta.
Giải thưởng là một voi trắng. Người giật giải quán quân cuộc thi sẽ
cỡi voi đi một vòng trong thành Kapilavatthu trước sự hoan hô của
mọi người. Yasodhara đem voi tới cho Siddhatta. Nàng đi chầm chậm
bên voi. Voi đi từng bước có lễ nghi dưới sự điều khiển của một quản
tượng.Tới trước Siddhatta, Yasodhara chắp tay cúi đầu chào thái tử
và nói những lời khen ngợi:
- Xin điện hạ nhận thớt voi này, phần thưởng dành cho người chiếm
giải quán quân của đại hội thể thao. Em xin thành tâm khen ngợi và
chúc mừng điện hạ.
Giọng nàng thanh tao, dáng điệu nàng thật tự nhiên. Cách phục sức
của nàng thật trang nhã. Nụ cười của nàng chúm chím tươi như một
bông sen hàm tiếu. Siddhatta nghiêng mình đáp lễ. Chàng nhìn
Yasodhara, đáp:
- Xin cám ơn công nương.
Lúc ấy Devadatta đang đứng ngay sau lưng Siddhatta. Devadatta không
được vui, vì chàng chỉ được đứng hàng nhì trong cuộc thi tài. Thấy
Yasodhara không nhìn tới mình, Devadatta bực tức. Chàng bước tới mấy
bước nắm lấy vòi con bạch tượng. Dùng tất cả sức mình, chàng đấm con
bạch tượng một đấm như trời giáng vào chỗ yếu. Con bạch tượng đau
quá, ngã qụy xuống.
Siddhatta quay lại nhìn Devadatta:
- Em làm như thế không tốt.
Nói xong, chàng đưa tay sờ voi xoa bóp chỗ đau và an ủi nó. Con voi
từ từ đứng dậy được và nghiêng đầu tôn kính chàng. Quần chúng vỗ tay
và hoan hô vang dậy. Siddhatta leo lên mình voi và đám rước bắt đầu
diễn hành.
C8. Chuỗi ngọc
Cuộc sống trong cung điện hơi ngột ngạt đối với chàng, nên Siddhatta
ưa đi ra ngoài thành. Chàng đã trưởng thành lâu rồi - năm nay chàng
hăm bốn - nên đi đâu trong vòng một vài hôm chàng không phải xin
phép vua và hoàng hậu nữa. Siddhatta có một người hầu cận trung
thành là Channa. Channa thường đánh xe song mã đưa Siddhatta đi. Có
khi chàng rủ bạn hoặc đem em đi theo, có khi chàng đi một mình với
Channa. Và rất nhiều khi chàng tự tay cầm cương ngựa, để cho Channa
ngồi chơi bên cạnh chàng. Siddhatta không bao giờ dùng roi ngựa.
Biết vậy nên Channa cũng không sờ tới cây roi.
Vương quốc Sakya, chàng đã đi thăm gần như khắp nơi. Phía Bắc của
vương quốc là miền cao nguyên gồm những dãy đồi nối tiếp nhau chạy
về phía chân dãy Himalaya. Một nửa vương quốc là đồng bằng ở vào
phía Nam. Kinh đô Kapilavatthu ở vào khoảng đất trù phú nhất của
miền đồng bằng này. So với các nước láng giềng Kosala và Magadha,
vương quốc Sakya thật bé nhỏ. Đất đai cũng không phì nhiêu, nhưng vị
thế của vương quốc thật là đặc biệt. Các con sông Rohini và Banganga
bắt nguồn từ miền cao nguyên chảy về tưới đồng bằng rồi tiếp tục đi
về miền Nam để chảy về sông Hiranyavati trước khi rót vào sông Hằng.
Siddhatta thường ưa ngồi bên bờ sông Banganga ngắm dòng nước chảy.
Dân quê vẫn tin rằng nước sông này có thể tẩy trừ tội lỗi và nghiệp
chướng kiếp trước và kiếp này cho nên thường hay kính cẩn xuống ngâm
mình dưới dòng nước, cả những khi nước rất lạnh. Có một hôm ngồi với
Channa bên bờ sông, Siddhatta chỉ những người đang tắm ở bên kia bờ
sông và hỏi người hầu cận:
- Này Channa, anh có tin là tắm như thế rất thường thì có thể rửa
sạch được nghiệp chướng không?
- Thưa điện hạ, có chứ. Nếu không thì người ta tắm làm gì?
Siddhatta cười:
- Nếu thế thì đứng về phương diện nghiệp chướng có phải các loài
tôm, cá, rùa và sò ốc là những loài thanh tịnh nhất không ? Chúng ở
suốt đời dưới sông thì chúng phải sạch nghiệp hơn chúng ta chứ ?
Channa trả lời:
- Nhưng ít nhất tắm dưới sông cũng rửa sạch được những cáu bẩn trên
da thịt.
Siddhatta vỗ vai Channa:
- Cái đó thì anh nói đúng.
Một hôm trên đường về thành nội, Siddhatta ghé lại thăm một xóm
nghèo ở ngoại thành. Chàng ngạc nhiên thấy Yasodhara đang ở trong
xóm. Cùng một đứa ở, nàng đang săn sóc cho các trẻ em ở đó. Các em
đang được săn sóc đều là những đứa trẻ có bệnh: đứa thì đau mắt, đứa
thì cảm cúm, đứa thì ghẻ chốc. Yasodhra ăn vận rất đơn giản, nhưng
nàng tươi mát như một bà tiên vừa hiện đến giữa bầy trẻ nghèo.
Siddhatta thất cảnh tượng rất đẹp. Chàng sửng sốt khi thấy một người
con gái nhà quyền quý lại chịu thương chịu khó đi làm những công
việc như rửa ghẻ, rửa mắt, xức thuốc, giặt áo cho bọn trẻ nghèo đói.
- Công nương đã bắt đầu làm các việc này từ bao giờ thế ?, chàng
hỏi. Thật là quý hóa quá.
Đang rửa tay cho một em bé gái chừng ba tuổi, Yasodhara ngửng lên
nhìn Siddhatta:
- Chúng em bắt đầu làm công việc này cũng đã gần hai năm rồi, thưa
điện hạ. Tuy nhiên đây chỉ là lần thứ hai em đến xóm này.
- Tôi đến xóm này thường lắm. Bọn trẻ con trong xóm đều biết tôi.
Tôi nghĩ được làm những công việc này chắc công nương thấy vui trong
lòng lắm.
Yasodhara mỉm cười, không đáp. Nàng cúi xuống tiếp tục rửa mụt ghẻ
trên đầu gối của em bé.
Hôm ấy, Siddhatta được nói chuyện nhiều với Yasodhara. Chàng ngạc
nhiên khám phá ra rằng Yasodhara có nhiều nhận thức giống chàng.
Yasodhara không phải là một cô gái khuê các chỉ biết vâng theo
truyền thống. Nàng cũng biết về tư tưởng Vệ Đà, cũng ngấm ngầm phản
đối tình trạng bất công của xã hội. Cũng như Siddhatta, nàng không
cảm thấy có hạnh phúc trong địa vị giàu sang và nhiều quyền thế của
hoàng tộc. Trái lại nàng ghê tởm những cuộc tranh chấp quyền lợi và
địa vị của những thành phần quý tộc trong triều đình, và ngay ở giới
tăng lữ bà la môn. Biết mình là gái không thể nào làm được những
cuộc thay đổi lớn trong xã hội, nàng chỉ tìm cách biểu lộ cái thấy
của mình và thiết lập sự bình an trong tâm mình bằng các công việc
từ ái. Nàng hy vọng sẽ có những bạn hữu trong giới trẻ tuổi thấy
được ý nghĩa của công việc nàng làm.
Đã có cảm tình tự nhiên sẵn với Yasodhara từ trước, Siddhatta càng
nghe nàng nói càng tỏ vẻ mến phục nàng. Phụ vương đã ngỏ ý muốn
chàng lập gia đình. Yasodhara có thể là người mà chàng chọn lựa.
Trong các cuộc gặp gỡ khác như những nhạc hội, vũ hội, Siddhatta đã
gặp nhiều thiếu nữ diễm lệ. Ở Kapilavatthu cũng như ở Ramayana không
thiếu những cô gái mặn mà. Yasodhara tuy không phải là cô gái đẹp
nhất mà chàng gặp nhưng đó là cô gái mà mỗi khi gặp là chàng cảm
thấy trong tâm hồn một sự an bình và thoải mái.
Một hôm, hoàng hậu Gotami muốn chính tự mình tổ chức một cuộc trình
diễn quốc phục phụ nữ. Bà nhờ vương phi Pamita, mẹ của Yasodhara tới
giúp mình về việc tổ chức. Tất cả các thiếu nữ trong thành
Kapilavatthu đều được mời tới dự thi.
Người nào cũng sẽ có giải thưởng nữ trang. Vương phi Pamita đề nghị
Siddhatta phát giải thưởng cho các cô, cũng như tháng trước
Yasodhara đã làm công việc tiếp tân trong đại hội thể thao do chồng
bà tổ chức vậy. Vua Suddhodana, triều đình và tất cả các vị vương
tôn công tử công nương đều được mời tới tham dự. Đêm đầu hạ thật
mát. Thức giải khát đặt khắp nơi. Âm nhạc dân tộc làm nền cho buổi
dạ hội. Dưới ánh hoa đăng rạng rỡ, các thiếu nữ tha thướt trong
những chiếc sari đủ màu và lóng lánh kim tuyến, từng người một đi
ngang tuyển đài trước hàng ghế danh dự trong đó có vua và hoàng hậu.
Siddhatta mặc quốc phục đứng về phía bên trái, trước mặt chàng là
những xâu chuỗi, vàng ngọc đủ để phân phát cho cả ngàn người.
Siddhatta đã từng từ chối việc phát thưởng, nhưng bà Gotami và vương
phi Cam Lộ đã nài ép chàng. “Được thái tử Siddhatta tự tay phát
thưởng, đó là một niềm vui lớn cho bất cứ ai. Con phải biết điều
đó”, vương phi Pamita nhìn chàng nói một cách tươi cười. Đem niềm
vui cho kẻ khác, đó là việc chàng không muốn từ chối, nên Siddhatta
đã hoan hỷ vâng lời. Giờ đây đứng trước hàng ngàn quan khách chàng
thật không biết làm sao cho thỏa đáng. Mỗi thiếu nữ khi bước lên
đài, phải đi qua một hàng ghế danh dự để mọi người được trông thấy.
Đi qua hàng ghế ấy mới tới chỗ Siddhatta. Thiếu nữ đi đầu là Soma,
con của một vị vương tử. Theo sự chỉ dẫn của vương phi Pamita, nàng
tiến tới, bước mấy nấc thang để lên bục và đi ngang qua đài. Tới
trước mặt vua và hoàng hậu, nàng quay lại chắp tay cúi đầu chào, rồi
từ từ tiến về bên trái, đi về phía Siddhatta. Đến trước Siddhatta,
Soma cúi đầu chào chàng. Siddhatta đáp lễ, rồi cúi xuống cầm lên một
xâu chuỗi ngọc. Chàng trao cho Soma. Có tiếng cử tọa hoan hô. Soma
nghiêng mình cảm tạ. Nàng lí nhí mấy câu cám ơn, nhưng Siddhatta
không nghe rõ nàng nói gì. Thiếu nữ thứ hai là Rohini, tên của dòng
sông. Siddhatta có vẻ như không lựa chọn các phần thưởng cho xứng
đáng với vẻ đẹp và sắc phục các thiếu nữ. Vớ được món nữ trang nào
trên bàn, chàng tặng ngay món nữ trang đó. Vì vậy cuộc trình diễn đi
qua khá mau, dù số thiếu nữ tham dự rất đông. Vào khoảng mười giờ
đêm, các món nữ trang đặt trên dãy bàn dài đã vơi gần hết. Mọi người
tưởng Sela là thiếu nữ sau chót, và chính Siddhatta cũng thế. Bỗng
dưng, một thiếu nữ từ trên hàng khán đài bước xuống. Đó là
Yasodhara. Nàng bước ra trước khán đài, và quay trở vào vái chào vua
và hoàng hậu. Yasodhara vận một chiếc sari màu trắng ngà, đơn sơ và
nhẹ nhàng như một cơn gió sớm. Duyên dáng, tự nhiên, nàng bước tới
trước Siddhatta. Rồi mỉm cười tươi như hoa, nàng hỏi:
- Điện hạ, còn món nữ trang nào để cho em không?
Siddhatta nhìn Yasodhara. Chàng nghiêng mình đáp lễ rồi nhìn xuống
mấy món nữ trang còn lại. Chàng tỏ vẻ bối rối: trong những món còn
lại đó chẳng có món nào xứng đáng với con người đẹp đẽ đang đứng
trước mặt chàng. Đột nhiên Siddhatta mỉm cười. Chàng đưa tay tháo
xâu chuỗi ngọc chàng đang đeo ở cổ. Cầm chuỗi ngọc lóng lánh trên
tray chàng mỉm cười nhìn Yasodhara:
- Đây là món quà tặng cho công nương.
Yasodhara lắc đầu :
- Em làm đẹp cho điện hạ còn chưa hết, lòng nào mà lại lấy mất món
trang sức của điện hạ.
Siddhatta nói:
- Mẹ ta hoàng hậu Gotami thường nói là ta chẳng cần đeo đồ trang
sức. Càng đeo vào càng xấu thêm ra. Vậy xin công nương vui lòng nhận
món quà này.
Nói xong chàng ra hiệu cho Yasodhara lại gần và cúi đầu xuống . Và
chàng mang chuỗi ngọc lóng lánh vào cho nàng.
Tiếng hoan hô vang dậy cả trên và dưới khán đài. Tiếng hoan hô kéo
dài như không bao giờ dứt. Mọi người đều đứng dậy và bày tỏ nỗi vui
mừng của mình.
C9. Con đường tâm linh và Con đường xã hội
Đám cưới của thái tử Siddhatta và công nương Yasodhara được tổ chức
vào mùa Thu năm ấy. Đây là một cuộc vui mừng lớn cho cả vương quốc
Sakya, nhất là cho dân chúng kinh kỳ. Khắp nơi thiên hạ treo cờ,
treo đèn, kết hoa và tổ chức vũ nhạc. Song mã của Siddhatta và
Yasodhara đi tới đâu quần chúng reo hò tới đó. Siddhatta và
Yasodhara cho xe chạy ra cả ngoại thành. Hai người đi tới những xóm
làng quen biết và đem tặng đủ các thứ quà bánh và vải bô cho những
gia đình túng thiếu nhất.
Vua Suddhodana truyền dựng cho thái tử ba nơi trú cung, một cung cho
mùa Đông, một cung cho mùa Hạ và một cung cho mùa Mưa. Cung mùa Hạ
được xây dựng trên một cánh đồi ngoạn mục miền cao nguyên, cung mùa
Mưa và cung mùa Đông ở ngay trong thành nội. Cung nào cũng có hồ
sen, hồ toàn sen xanh, hồ toàn sen đỏ, hồ toàn sen trắng. Áo mũ khăn
giày của hai người đều được đặt làm từ thành Baranasi, tận vương
quốc Kasi miền Tây Nam. Trầm hương đốt hàng ngày cũng được nhập cảng
từ vương quốc ấy.
Vua Suddhodana rất yên tâm. Vua nghĩ rằng Siddhatta đã đi đúng con
đường vua mong ước. Và vua truyền tuyển lựa các nhạc công và vũ công
tài ba trong nước để thường trực giúp vui cho cặp vợ chồng mới cưới
của hoàng gia.
Nhưng hạnh phúc của Siddhatta cũng như của Yasodhara không phải là
được sống bưng bít trong quyền quý và giàu sang. Hạnh phúc của hai
người là sự chia xẻ những nỗi niềm và những ước vọng của tâm linh
với người mà mình có thể cởi mở tấm lòng.
Họ không thực sự để tâm đến các cao lương mỹ vị hoặc các thứ xiêm y
lụa là. Họ thấy cái đẹp của vũ của nhạc nhưng họ không say mê trong
việc vui chơi. Họ có những khao khát riêng của họ: khao khát tìm
được những câu trả lời thỏa đáng cho tâm hồn và cho xã hội.
Mùa nóng năm sau nhân được cư trú tới bốn tháng ở cung Hè trên miền
cao nguyên. Siddhatta rủ Yasodhara đi khám phá thêm về vương quốc
Sakya. Người hầu cận Channa vẫn luôn luôn là người đánh xe cho
Siddhatta. Họ tìm ra được nhiều phong cảnh sơn thủy rất tú lệ. Họ
chuẩn bị để có thể đến cư trú năm bảy ngày ở những nơi ấy. Có khi họ
xin ở lại ngủ nhà của thường dân và tìm dịp giúp đỡ cho các gia đình
nghèo. Họ đã thử ăn những món ăn dân dã, ngủ trên những chiếc giường
tre sọc sạch của người dân. Và họ tìm hiểu được rất nhiều về nếp
sống và phong tục tập quán từng vùng.
Có khi họ gặp những cảnh nghèo khổ cùng cực. Họ gặp những cặp vợ
chồng có tới chín hoặc mười đứa con, đứa nào cũng ốm tong teo, đứa
nào cũng bệnh tật, trong khi đó cả vợ lẫn chồng dù có làm việc quần
quật suốt ngày đêm cũng chỉ đủ sức nuôi nổi hai đứa là cùng. Nghèo
khổ và bệnh tật là hai cái gánh nặng đè lên kiếp sống của người dân.
Ngoài hai cái gánh nặng ấy, còn có những cái gánh nặng khác: sự áp
chế của giới cầm quyền và sự thống trị của các giáo sĩ bà la môn. Ở
miền quê, dân chúng có bị giới hương hào áp chế cũng không thể kêu
ca vào đâu được. Kinh thành xa quá, với lại ở kinh thành họ cũng
không quen biết ai.
Siddhatta nhìn những em bé ốm tong teo, hai chân khẳng khui như
những ống sậy và cái bụng phình to vì giun sán. Siddhatta nhìn những
kẻ tàn tật và bệnh hoạn ăn xin ở các ngả đường. Những cảnh tượng này
làm cho thái tử mất hết mọi niềm vui. Chàng thấy con người bị kềm
hãm trong một tình thế không có lối thoát. Chàng thấy dù chàng có
quyền lực của một vị quốc vương chàng cũng không thể thay đổi tình
trạng. Siddhatta biết khá rõ về tình trạng triều đình. Người quyền
quý làm đủ mọi cách để bảo vệ quyền thế và lợi lộc của mình, không
đếm xỉa gì đến khổ đau của người khác. Họ lại còn lấn áp nhau, ganh
tỵ nhau, và những tranh chấp của họ làm cho Siddhatta chán ngán cảnh
chính trường. Quyền lực của phụ vương chàng rất giới hạn và mỏng
manh, Siddhatta thấy rất rõ điều ấy. Làm vua như phụ vương chàng
không thật sự có tự do. Vua bị ràng buộc đủ thứ, và quyền bính lại
chính là tù ngục đang giam hãm vua. Phụ vương chàng biết trong triều
đình có những vị đại thần hư hỏng và nhiều tham vọng, nhưng lại phải
dựa vào những người ấy cho tình thế ổn định. Chàng nghĩ nếu chàng
đứng vào địa vị của cha, có thể chàng cũng phải làm như thế. Chàng
thấy chỉ khi nào con người chuyển đổi được nội tâm mình, đập tan
được những tham vọng và ganh tỵ trong nội tâm mình thì cảnh huống
con người mới có thể thay đổi. Và niềm ước ao ngày xưa bừng dậy
trong chàng: tìm ra được một lối thoát cho tâm linh.
Yasodhara là một cô gái rất thông minh. Nàng hiểu được tâm trạng
chồng. Nàng có đức tin nơi Siddhatta: nàng biết nếu Siddhatta quyết
tâm tìm kiếm con đường giải thoát thì chàng sẽ tìm ra. Nhưng nàng
cũng là một cô gái rất thực tế: cuộc tìm kiếm này có thể kéo dài
trong nhiều tháng, nhiều năm, trong khi những khổ đau hiện thực vẫn
xảy ra hàng ngày trong cuộc sống. Vì vậy nàng nghĩ phải làm một cái
gì ngay trong giờ phút hiện tại. Và nàng bàn với Siddhatta những
phương pháp có thể làm vơi bớt nỗi khổ của những người thiếu may mắn
nhất trong vương quốc. Công việc này nàng đã bắt đầu từ hơn hai năm
nay ở các xóm nghèo. Công việc ấy một mặt có thể thoa dịu bớt khổ
đau của một số người, một mặt có thể đem lại chút ít bình an và hạnh
phúc cho tự tâm nàng. Yasodhara tin rằng tình yêu của Siddhatta có
thể là lưng tựa vững chãi và lâu dài cho công việc ấy.
Từ thủ đô Kapilavatthu, các vật dụng cần thiết cho cuộc sống tại Hạ
cung vẫn được chở tới đều đều. Trong cung số người hầu cận, nấu
nướng, dọn dẹp và chăm sóc rất đông. Siddhatta và Yasodhara gửi bớt
những người này về thành. Họ chỉ giữ lại một số người đủ để chăm sóc
vườn cảnh, nấu nướng và dọn dẹp. Và cố nhiên là họ giữ lại Channa.
Yasodhara tổ chức lại đời sống hàng ngày cho thật đơn giản. Nàng hay
vào bếp chỉ dẫn cách thức nấu những món ăn đơn giản mà hạp với khẩu
vị của Siddhatta. Nàng ưa tự tay săn sóc sự ăn uống và sự phục sức
của chàng. Nàng luôn luôn tham khảo ý kiến của Siddhatta về những
công việc xã hội mà nàng dự tính tiếp tục khi trở về thủ đô.
Siddhatta hiểu biết được nhu cầu hành động của nàng và luôn luôn tỏ
ý quan tâm về những dự án này khiến cho Yasodhara càng lúc càng thêm
tin tưởng.
Tuy hiểu được Yasodhara và biết giá trị của công việc nàng làm,
Siddhatta vẫn thấy con đường của nàng chưa phải là con đường có thể
thực sự đem lại an lạc cho tâm linh. Lối thoát mà nàng nghĩ đã tìm
ra chỉ là một phương thuốc thoa dịu có tính cách tạm bợ. Con người
bị trói buộc không những bởi những điều kiện xã hội mà còn bởi những
phiền não nội tâm nữa. Yasodhara hiện có thể làm được một ít công
việc giúp người nghèo khó và bị áp bức, nhưng trong xã hội mấy ai có
được những điều kiện thì giờ và vật chất để làm được như nàng ? Và
nếu Yasodhara bị kẹt vào một trong những tâm lý sợ hãi, ganh tỵ, cay
đắng hoặc oán thù, liệu nàng có đủ nghị lực để tiếp tục công việc ?
Tự thân Siddhatta cũng đã trải qua những giai đoạn nghi ngờ, bất
mãn, khổ đau và bực tức khi nhận ra được thực trạng trong triều và
ngoài nội. Không vượt thoát được những khổ đau của nội tâm, không
đạt tới được sự an bình của nội tâm thì hành động xã hội lấy đâu làm
căn cứ xuất phát ? Chàng nghĩ như thế nhưng chàng không nói với
Yasodhara. Chàng không muốn nàng lo âu và nghi nan trong giai đoạn
này.
Khi hai vợ chồng trẻ trở về kinh đô vào mùa Đông năm ấy, các anh em
và bạn bè tới thăm hỏi thật đông. Tại cung mùa Đông, Yasodhara tiếp
đãi khách khứa và bạn bè rất ấm cúng và chu đáo. Những câu chuyện mà
nàng nghe Siddhatta nói với các bạn bên lò sưởi thường là câu chuyện
tư tưởng triết học và đạo học có liên hệ tới tình trạng chính trị và
xã hội. Đi lại trong phòng và hướng dẫn các thị nữ mang trà nước cho
khách, nàng không bỏ sót một câu chuyện nào. Nàng để ý tìm trong số
các bạn và người thân thích xem có ai là người đồng điệu có thể mời
cộng tác với mình trong công tác cứu tế người cùng khổ, nhưng nàng
không thấy được mấy ai. Đa số bạn bè thường ưa ăn to nói lớn, có
người thì quá phù phiếm, có người thì chỉ chú trọng đến chuyện tổ
chức những cuộc vui. Nhưng Siddhatta phải kiên nhẫn ngồi tiếp hết
mọi người.
Khách khứa tuy vậy cũng thưa dần. Yasodhara bắt đầu tổ chức trở lại
công việc cứu tế của nàng với sự phụ giúp của mấy người thị nữ hầu
cận. Nàng sung sướng lắm, bởi vì ngoài Siddhatta, nàng đã có thêm
một người hiểu nàng, thương nàng và yểm trợ công việc của nàng: đó
là phu nhân Gotami, tức là hoàng hậu Mahapajapati. Hoàng hậu rất
quan tâm đến hạnh phúc của nàng, bởi bà biết nếu nàng có hạnh phúc
thì Siddhatta cũng có hạnh phúc. Nhưng không phải chỉ vì lý do đó mà
bà ủng hộ công tác cứu trợ của Yasodhara. Bà là một người có lòng
nhân từ, và ngay trong chuyến đầu đi với Yasodhara vào xóm cùng dân,
bà đã thấy ngay được giá trị của công việc Yasodhara đang làm. Giá
trị ấy không phải là những vật dụng mà người cứu trợ đem tới như
gạo, bột mì, vải và thuốc men ... Giá trị ấy là cái nhìn, hai bàn
tay và tình thương của người đã chịu đi tới tiếp xúc với những người
kém may mắn. Hoàng hậu Mahapajapati không phải là một người đàn bà
tầm thường. Bà thường nói với Yasodhara rằng người đàn bà cũng có đủ
trí tuệ và sức khỏe để đảm nhiệm những trách vụ trong xã hội không
thua gì người đàn ông. Người đàn bà có khả năng tạo ra khung cảnh ấm
áp và hạnh phúc của gia đình nhưng không phải vì vậy mà người đàn bà
sinh ra là để ở suốt ngày trong bếp núc. Gotami đã tìm thấy nơi
người con dâu một người bạn đồng chí, bởi vì Yasodhara vốn là một cô
gái có chí khí và có nhận thức độc lập. Không những bà muốn yểm trợ
tinh thần cho Yasodhara mà bà còn hứa sẽ làm việc chung với nàng.
C10.
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Trong khi đó thì quốc vương Suddhodana tỏ ý muốn Siddhatta thân cận
với vua hơn để có cơ hội thực tập về chính sự. Thái tử được mời dự
những buổi họp quốc sự, khi thì riêng với phụ vương, khi thì chung
với quần thần. Chàng để hết tâm ý vào các vấn đề chính trị, kinh tế
và quân sự được đưa ra và chàng nhận ra rằng căn bản của các vấn đề
nằm ở nhận thức và tư dục của người làm chính sự. Khi mà tâm người
đã trấn ngự bởi ý thức về quyền lợi cá nhân, gia đình và dòng họ rồi
thì mọi quyết định về chính sách không thể nào còn khách quan nữa,
và như vậy chính sách không còn thực sự nhắm vào việc lợi nước lợi
dân. Siddhatta ngồi nghe và đoán biết được tâm lý của những người
cộng sự với phụ vương chàng. Chàng thấy được những tư dục của họ. Có
khi chàng thấy được cái mặt trái giả đạo đức của họ và đồng thời
cũng thấy một niềm tức giận nảy sinh và tràn dâng trong lòng. Nhưng
Siddhatta biết mình phải kìm chế niềm tức giận ấy. Chàng biết chàng
có thể nói huỵch toẹt ra giữa triều đình những điều không mấy tốt
đẹp ấy nhưng chàng đã ngậm miệng không nói, bởi vì chàng không có
hoặc chưa có phương pháp gì để đối trị. Nói ra chỉ là để gây đổ vỡ
mà thôi, và như vậy lại tạo thêm những khó khăn cho phụ vương chàng.
- Tại sao con không góp ý kiến với triều thần mà chỉ ngồi im lặng
thế? Vua Suddhodana hỏi chàng, sau một buổi chầu trong đó các quan
đã bàn luận rất lâu về chính sự.
Siddhatta nhìn cha:
- Không phải là con không ý kiến. Nhưng những ý kiến của con, nếu
nói ra, cũng không có ích lợi gì, vì chúng chỉ có thể nêu ra chứng
bệnh mà chưa phải là phương thuốc trị bệnh. Con thấy con chưa có đủ
khả năng để thay đổi tâm trạng của các quan. Tư dục của họ còn nặng
nề lắm và con biết con chưa có thể làm việc được với họ. Phụ vương
nghĩ xem. Quan phụ chính đại thần Vessamitta là một người có quyền
lực rất lớn trong triều đình. Phụ vương biết rằng ông ta không liêm
khiết và nhiều khi ông ta lấn cả quyền của phụ vương. Ấy vậy mà phụ
vương vẫn phải dùng ông ta. Tại sao? Tại phụ vương biết nếu không
dùng ông ta thì triều đình có thể rối loạn.
Vua Suddhodana nhìn con, im lặng một hồi lâu. Rồi vua nói:
- Nhưng con cũng biết là để cho yên nước yên nhà, nhiều khi ta phải
chịu đựng. Ta biết quyền lực ta có giới hạn, nhưng nếu con tập làm
chính sự, sau này con sẽ giỏi hơn ta và con sẽ có đủ tài năng để
thanh lọc lại hàng ngũ của chính quyền mà không gây ra những xáo
trộn cho xứ sở.
Siddhatta đưa tay lên trán. Chàng thở dài:
- Con không tin rằng tài năng là yếu tố căn bản. Con nghĩ rằng vấn
đề căn bản là giải phóng được cho tâm mình. Con biết là chính con,
con cũng còn bị khuynh đảo bởi những tình cảm như buồn giận, ganh
ghét, sợ hãi và những ham muốn dung thường.
Những cuộc đàm luận ngắn như thế giữa hai cha con càng ngày càng làm
cho vua Suddhodana lo lắng. Vua thấy Siddhatta là một người có nhận
thức rất sâu sắc nhưng cũng là một người ưa đòi hỏi cái tuyệt đối.
Vua thấy được sự khác biệt giữa mình và thái tử. Tuy vậy trong lo
lắng, vua vẫn cố nuôi hy vọng. Vua hy vọng rằng nếu Siddhatta tiếp
xúc lâu ngày với người và với việc, thái tử sẽ có thể một ngày nào
đó chấp nhận cái tương đối trong cuộc đời.
Trong lúc ấy, Siddhatta không bao giờ ngưng học hỏi. Ngoài công việc
học tập chính sự và giúp đỡ Yasodhara, chàng tìm cách tiếp xúc với
các vị bà la môn và sa môn nổi tiếng trong xứ để học hỏi thêm. Chàng
biết rằng học đạo không phải chỉ là học những tư tưởng uyên áo chứa
đựng trong các thánh thư mà còn là học phép thiền định để đạt tới sự
giải phóng tâm ý. Chàng rất ưa đi tìm những vị sa môn ẩn cư để học
hỏi và thực tập. Và chàng đem những gì đã được học về để thực tập
ngay trong cung điện. Thỉnh thoảng Siddhatta cũng đem những điều
mình đã học và đang thực tập ra để chia xẻ với Yasodhara. Chàng hay
nói với nàng:
- Này Gopa, có lẽ em phải thực tập thiền định thì tâm em sau này mới
an được và em mới có thể làm việc xã hội được lâu dài.
Gopa là tên nhỏ của Yasodhara, chàng hay gọi nàng bằng tên này một
cách âu yếm.
Yasodhara nghe lời chàng. Tuy bận rộn công việc, nàng vẫn thường
chịu thiền tập. Có khi hai người ngồi chung trong im lặng. Tất cả
các người hầu cận đều phải rút lui trong những giờ giấc ấy. Những
đoàn ca vũ được hai người cho đi làm việc ở những nơi khác.
Từ hồi ấu thơ, Siddhatta đã từng được nghe về bốn giai đoạn trong
đời sống của một người bà la môn. Tuổi trẻ, người con trai bà la môn
phải học kinh Vệ Đà. Đó là giai đoạn đầu. Giai đoạn thứ hai, thành
người, là giai đoạn lập gia đình, nuôi dưỡng con cái và phục vụ xã
hội. Giai đoạn thứ ba, khi con cái đã lớn khôn, thì có thể rút lui
làm ẩn sĩ. Và trong giai đoạn thứ tư, buông bỏ mọi ràng buộc với
cuộc đời, người bà la môn có thể sống đời sống xuất thế. Siddhatta
nghĩ rằng bốn giai đoạn ấy của cuộc đời đã được chia ra một cách quá
rạch ròi. Đợi đến già mới học đạo thì sẽ trễ tràng quá. Chàng không
thể chờ đợi được.
- Tại sao ta không thể sống bốn cách ngay trong một giai đoạn? Tại
sao ta không tập sống đời xuất thế ngay khi ta còn có gia đình?
Nghĩ vậy, Siddhatta cố ý bắt đầu học đạo và hành đạo ngay trong đời
sống hiện tại. Tuy nhiên, chàng không thể không nghĩ tới những đạo
sĩ nổi danh đang hành đạo ở phương xa, mãi tận Savatthi hay
Rajagaha. Chàng tin rằng nếu được du phương học đạo với những bậc
thầy nổi danh chàng sẽ có thể đạt đạo mau chóng. Các bạn và ngay các
vị sa môn ẩn cư mà chàng đi thăm đều có nhắc đến tên những sa môn
nổi tiếng như Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Ai cũng ước mong
được tiếp xúc và học hỏi với các vị này. Càng ngày Siddhatta càng
thấy niềm mong ước của mình trở nên thúc bách. Một buổi chiều
Yasodhara đi làm việc về mặt buồn rười rượi. Nàng đăm chiêu không
nói. Em bé bị thương hàn mà nàng chăm sóc từ hơn một tuần nay vừa
mới chết. Mấy hôm nay nàng đã làm đủ mọi cách mà không rứt em ra
khỏi tay tử thần. Buồn quá, nàng ngồi thiền định. Trong lúc ngồi
thiền, nước mắt nàng ràn rụa chảy. Nàng không ngăn được cảm xúc.
Siddhatta vừa dự một buổi họp triều chính về. Trông thấy chàng,
Yasodhara òa lên khóc. Siddhatta ôm nàng trong hai tay và hỏi han cớ
sự. Chàng tìm cách an ủi nàng:
- Gopa, ngày mai ta sẽ đi với em để dự đám tang của em bé. Em cứ
khóc đi cho nhẹ bớt nỗi khổ trong lòng. Sinh, già, bệnh và chết là
những gánh nặng đè lên vai của tất cả mọi người. Những gì xảy đến
cho em bé đều có thể xảy ra cho chúng ta, bất cứ lúc nào.
Yasodhara thổn thức:
- Càng ngày em càng thấy điều điện hạ nói là đúng. Khổ đau thì vô
cùng mà hai bàn tay em thì nhỏ bé. Lòng em cũng đầy sự bất an. Anh
ơi, anh chỉ cho em cách nào để em đối trị được những khổ đau và lo
lắng trong lòng đi anh.
Siddhatta ôm Yasodhara chặt trong hai tay chàng:
- Em ơi, chính anh cũng đang đi tìm con đường để đối trị những khổ
đau và lo lắng trong anh. Anh đã nhìn thấy thực trạng của xã hội và
của con người. Nhưng anh chưa thấy được nẻo thoát dù anh đã bỏ công
học hỏi và tìm kiếm. Tuy nhiên anh tin rằng một ngày nào đó anh sẽ
tìm ra được con đường cho tất cả chúng ta. Gopa, em hãy có lòng tin
nơi anh.
- Em bao giờ mà không có lòng tin nơi anh. Em biết một khi đã quyết
định một điều gì thì anh sẽ đi đến cùng để thực hiện cho kỳ được
điều ấy. Em biết một ngày nào đó anh sẽ bỏ hết phú quý giàu sang và
ngai vàng để ra đi tìm đạo. Nhưng anh ơi, xin anh đừng bỏ em trong
giai đoạn này. Em rất cần anh.
Siddhatta nâng cằm Yasodhara lên, nhìn vào mắt nàng:
- Không, không, anh không bỏ em bây giờ đâu. Chừng nào, chừng nào
...
Yasodhara bịt miệng Siddhatta lại:
- Siddhatta anh, anh đừng nói gì vội. Em muốn hỏi anh điều này: nếu
anh có một đứa con với em, thì anh muốn đó là con trai hay là con
gái?
Siddhatta giật mình, chàng nhìn Yasodhara chăm chú:
- Em nói sao, Gopa? Có phải em đã, em đã ...
Yasodhara gật đầu, nàng chỉ vào bụng và nói:
- Em rất sung sướng vì em đang được mang trong em hoa trái của tình
yêu chúng ta. Em muốn nó sẽ là con trai, và có khuôn mặt giống anh,
thông minh như anh, và hiền đức như anh.
Siddhatta đưa hai vòng tay ôm lấy Yasodhara vào lòng. Trong nỗi vui
mừng lớn lao, chàng chợt nhận ra những hạt giống của sự lo lắng. Tuy
nhiên chàng tươi cười nói với Yasodhara:
- Em sinh con trai hay con gái thì anh cũng mừng như nhau. Miễn là
con chúng ta sẽ vừa nhân từ vừa thông tuệ như em. À này Gopa, em đã
báo tin này cho mẹ biết chưa?
- Em chưa cho ai biết hết, trừ anh ra. Chiều nay em sẽ vào cung
Thánh Từ báo cho lệnh bà Gotami. Nhân tiện để em học hỏi với Mẹ về
cách nuôi dưỡng thai nhi. Em cũng sẽ báo tin này cho phu nhân Pamita
mẹ của em ngày mai. Chắc mọi người sẽ mừng lắm.
Siddhatta gật đầu. Chàng biết là khi nghe tin này, di mẫu chàng sẽ
báo tin ngay cho phụ vương chàng. Phụ vương sẽ rất hài lòng và sẽ tổ
chức một lễ ăn mừng lớn. Siddhatta có cảm tưởng là những sợi dây
ràng buộc chàng với cuộc đời ở cung điện càng ngày càng siết chặt
lại.
Xem
tiếp>> |