Ba tôi
Bữa ăn tối đã sẵn sàng, gia đình chờ mãi mà
không thấy ba tôi ngồi vào bàn. Thì ra, sau khi nghe bản tin tối, có
thông cáo của Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố kêu gọi đăng ký học tập, ba tôi
không thiết gì chuyện ăn uống nữa. Khi ngày 29 tháng tư 1975 trôi qua mà
gia đình tôi bị kẹt lại, ba tôi đứng ngồi không yên, một tình trạng càng
trầm trọng thêm với lệnh đầu hàng của ông đại tướng tổng thống. Nay lại
thêm cái thông cáo độc hại kia!
Từng bước cô
đơn trên đường sỏi đá,
Bỏ vợ con mình ở lại bơ vơ!!
Ðịa ngục trần gian bây giờ cửa mở,
Mình bước chân vào... Cứ ngỡ là mơ!!
(Hồng Yến-Điệp Minh Hoàng)
Lưu luyến với gia đình và để an ủi gia đình
trước một cuộc chia phôi không hẹn được ngày tái ngộ, ba tôi lần lữa
mãi, dự tính để đến ngày cuối cùng của hạn kỳ sẽ đi trình diện. Trong
khoảng thời gian lối hai tuần lễ trước hạn kỳ trình diện, cứ một đôi
ngày là hết phường đội đến quận đội, súng dài, súng ngắn, đến nhà gọi là
thăm nom nhưng chính ra là để hạch hỏi ba tôi tại sao chưa đi trình diện
và canh chừng xem ba tôi có trốn lệnh đăng ký hay không.
Những tên bộ đội đến nhà tạo ra những cảnh
khôi hài hết ý, nhưng tôi cũng chẳng còn bụng dạ nào để cười. Họ ngồi
lên chiếc ghế bành phòng khách, hai chân co rút lại để lên ghế, ngồi
theo kiểu nước lụt. Có khi họ ngồi hai người vào một chiếc ghế vì thấy
ghế bành rộng quá chăng hay là vì sợ bóng sợ vía, khi bộ đội chưn ướt
chưn ráo về thành?
Lúc bấy giờ, có một sự trùng hợp kỳ lạ là
những ngày đăng ký cuối cùng lại là những ngày không may mắn, thứ sáu
mười ba và ngày thứ bảy kế tiếp lại nhằm ngày mười bốn âm lịch! Theo tục
lệ Pháp còn lưu lại thì thứ sáu mười ba, cũng như theo truyền thống dị
đoan của người Việt Nam thì những ngày mùng năm, mười bốn hăm ba là
những ngày cấm kỵ, "đi chơi còn lỗ, nữa là đi buôn". Nên chi, ba tôi
quyết định sẽ đi trình diện vào ngày cuối cùng, chủ nhựt 15 tháng 6 năm
1975, ngày rằm với hy vọng là một ngày lành, dù để đi tù!
Một ngày chủ nhựt buồn thật là buồn, buồn
nhất cho gia đình tôi kể từ khi tôi biết buồn, biết vui đến lúc bấy giờ!
Sáng ngày, không ai nói với ai một lời nào như chừng sợ tan vỡ một bầu
không khí thân thương đang hồi mong manh như thủy tinh cực mỏng. Hai em
tôi, đứa lên chín, đứa lên tám, cũng không đùa giỡn vui chơi như mọi
ngày, mà mỗi đứa im lặng ở một góc nhà. Một số người trong gia đình hai
bên nội ngoại kéo đến nhà đông đảo nhưng cũng không làm cho bầu không
khí vui nhộn lên được.
Sau bữa ăn trưa, thức ăn thừa mứa nhưng vô
vị, ba tôi buồn buồn kiểm lại những gì phải mang theo, "đủ dùng trong
một tháng" đúng như lời dặn trong thông cáo. Rồi giây phút chia ly dễ sợ
cũng đến! Me tôi, thường thường rất dễ nước mắt nhưng hôm đó tôi chỉ
thấy đôi mắt hoen đỏ, như chừng tâm tư bị đơ cứng, cười cười nói nói với
họ hàng nhưng tâm trí cứ đâu đâu.
Thế rồi cái gì phải đến đã đến. Ba tôi bảo:
- Huy, con lấy Honda đưa ba đi.
Tôi vô cùng ngạc nhiên vì từ ngày nhà có
chiếc xe gắn máy đến lúc bấy giờ, tôi chưa hề mó đến, ít nhứt trước mặt
ba me tôi. Trong quá khứ cho đến mấy ngày trước đó, chuyện di chuyển của
những người trong gia đình đều được chú tài xế phụ trách. Ðiều ngạc
nhiên kế tiếp là ba tôi để tôi cầm lái xe chớ không ngồi phía trước như
mọi khi. Ðèo một khối lượng quý giá ở phía sau, tôi vô cùng hồi hộp. Qua
một vài đoạn đường, tôi bắt đầu cảm thấy vững tin nên bình tỉnh mà chạy,
dĩ nhiên là không dám lượn qua lượn lại.
Trên quãng đường từ nhà ở Gia Ðịnh đến khu
đại học xá Minh Mạng ở miệt Chợ Lớn, hai cha con chúng tôi không có lấy
một lời, chỉ sợ làm tan biến tình hình mong manh của lúc chia tay. Xe
dừng trước khu đại học xá, kẽm gai chằng chịt từ ngoài lề đường đến
cổng. Ngay cổng là một tên bộ đội súng dài đang ngồi gác, một lối canh
gác quái đản vì trước kia tôi chỉ thấy người lính Việt Nam Cộng Hòa đứng
gác mà thôi.
Xuống xe, ba tôi đứng tần ngần một lúc rồi
móc bóp đưa tôi tờ giấy năm trăm và dặn:
- Con cầm lấy tiêu xài lặt vặt. Ở nhà ráng
coi chừng hai em phụ me. Trở về cẩn thận nghe con.
Hôm nay sao ba tôi ít nói, không như trước
kia. Chiếc va-li con và chiếc chiếu cuộn tròn ở một tay, một tay trống,
ba tôi lẩn thẩn đi vào đại học xá, không quay lại nhìn tôi. Tôi đứng
nhìn cho đến lúc người khuất biệt sau bức tường rào.
"Rồi đất nước đắm chìm trong đêm tối
"Cha vào tù trả nợ những chiến công... (Yên Sơn)
Nhìn từ phía sau, tướng đi của ba tôi vẫn
còn phảng phất cái oai hùng của những ngày xa xưa, nhưng cũng không khỏi
nói lên đôi chút bực dọc và buồn nản vì không cưỡng lại được hoàn cảnh.
Dưới nhãn quan cá nhân, ba tôi vẫn còn là một anh hùng trong một hoàn
cảnh gượng ép. Gương phấn đấu của người mãi mãi ở trong tôi nên tôi
không tài nào chấp nhận tư tưởng thua cuộc của một thế hệ. Từ một học
sinh hiền lành, ngoan ngoãn, nghe lời mẹ cha, tuân hành chỉ dạy của thầy
cô, tôi thấy cần có một hướng đi mới tuy rằng ở tuổi mười sáu.
Mang danh "con ngụy quân", tôi không còn
được chấp nhận ở băng ghế nhà trường của chế độ vừa thắng cuộc được nữa.
Làm gì đây, khi tôi bị ném vào một cuộc sống ngoại lai mà tôi không được
chuẩn bị? Dứt khoát là tôi không thể đứng vào hàng ngũ của những thằng
bạn hung hăng con bọ xít, mang băng vải đỏ ở cánh tay mà làm "những tên
cách mạng ba mươi", tiếp tay với quân cộng sản vào thành. Ăn cơm nhà vác
ngà voi, chạy chọt đầu này ngõ kia chỉ điểm, tịch thu sách báo "phản văn
hóa", tom góp "nhạc vàng" để trao cho "cách mạng" lập công à? Ðâu phải
là chó mà ăn cứt không biết thối?
Sau một thời gian tìm tòi và trong khi chờ
cơ hội quyết định, tôi theo một người anh họ đi làm thợ, một thứ thợ
linh tinh hạng bét, không chuyên, nghề gì cũng làm. Miễn sao đừng bị
công an phường khóm quấy rầy, hạch hỏi lôi thôi. Hai em tôi, còn trong
tuổi tiểu học nên "cách mạng" tha Tào cho đi học tiếp. Me tôi cũng phải
đăng ký vào tổ đan lát của phường để "bà vợ ngụy" được yên thân chớ
chẳng phải để có đồng ra đồng vào, vì lương chẳng có là bao. Một lon gô
(hộp nhôm của sữa Guigoz) nước, một lon gô cơm với vài miếng thịt hay cá
kho mặn, ra đi từ sáng sớm, tôi cứ làm cho đủ "tám tiếng vàng ngọc", tìm
cho kỳ được cái mà "cách mạng" ngày đêm ra rả rêu rao "lao động là vinh
quang". Mấy năm làm thợ, hai tay chai sạn, vinh quang đâu chưa thấy mà
lại thấy lăm le lịnh bắt lính vào nghĩa vụ để đi chiến trường Cam Bốt.
"Con ngụy" mà lại làm bộ đội cho "cách mạng" sao đây? Chẳng còn nghịch
lý nào hơn!
Với tình hình như vậy, me tôi cũng băn
khoăn không ít. Mấy tháng liền tôi thấy như me tôi có điều gì phải suy
tính. Một hôm bà hỏi tôi có sợ đi chui không?
- Chết, con cũng đi.
Thế là bao nhiêu quý kim giấu giếm được, me
tôi tung ra để lo cho chuyến đi xa của tôi. Thêm một cuộc giả từ gay go.
Ngày tôi lên đường, gia đình chẳng dám có chút biểu hiện gì đưa tiễn. Me
tôi âm thầm gạt nước mắt tiễn đưa ngay trong nhà, không dám đưa tôi ra
xe. Một bọc quần áo thô sơ, tôi lẳng lặng rời mái nhà tổ ấm, rời me, lìa
em yêu thương để đi đến một vùng trời mờ mịt, không có bảo đảm ở cuối
đường, như lao người vào chân không.
Khác với những chuyến vượt biển thông
thường, tôi xuống tàu ở một giòng sông xứ bưởi. Chuyến đi của tôi được
cho là một cuộc vượt biển "bán chánh thức", có công an nhúng tay - do đó
phải mất nhiều "cây" hơn và được me tôi nghĩ là bảo đảm hơn - nên những
người ra đi mang giấy tờ ngụy tạo dưới tên gọi của một người Hoa nào đó.
Tôi đã trở thành Nhan Sỹ Huy, may mắn thay vẫn còn là tên của tôi nhưng
với một họ cha căng chú kiết hoàn toàn xa lạ. Xuyên suốt chuyến đi tôi
phải nằm lòng danh tánh mật mã để đáp ứng khi cần.
Khi con tàu ra đến cửa sông Cần Giờ thì
giấy tờ tùy thân ngụy tạo đều được thu lại, để dành cho chuyến làm ăn
khác, và thân phận của hành khách được giao phó cho biển cả và cá mập.
Từ đây trở đi, chuyện vượt biển của chúng tôi cũng giống như muôn ngàn
chuyến đi khác.
Sau 3 ngày 3 đêm nhảy sóng, nhịn khát và
đói ăn thì chân trời hy vọng bắt đầu xuất hiện qua bóng mờ của bờ biển
xa xôi. Chưa kịp vui mừng thì một chiếc tàu tuần dương của Mã Lai đã
hùng hổ rẽ nước chạy đến làm thủ tục kéo tàu của chúng tôi đến một nơi
gần đảo để chờ biện pháp. Thời gian chờ đợi sao mà miên man, tuy ngắn mà
dài. Bờ biển trông thấy đó, tuy gần mà xa. Rồi như thương tình, ngày hôm
sau người ta lại lôi chiếc tàu tỵ nạn đến bên kia hòn đảo và thả tàu
cách bờ vài mươi thước vì mắc cạn. Thật ra, chẳng phải vì lòng nhân đạo
mà vì họ muốn tránh một điều vô luân chưa kết thúc, xảy ra trước đó độ
mươi ngày. Hôm đó, họ cũng kéo một chiếc tàu tỵ nạn ra khơi, gặp lúc
sóng giận biển hờn nên tàu tỵ nạn chìm, khiến cho 70 người chết đuối,
đang bị HCR điều tra.
Ðoàn người tỵ nạn chúng tôi, áo quần lôi
thôi lếch thếch, trông chẳng giống ai, tay khăn, tay gói uể oải nhảy tòm
xuống nước lội vô bờ. Bến bờ của một nửa vùng trời tự do. Tương lai như
thế nào chưa cần biết, chủ yếu là thoát được cảnh "không có gì quý hơn
độc lập tự do" của cộng sản Việt Nam cái đã. Ðổ bộ lên một vùng đất gần
như hoang vắng của đảo, với vài ba lều vải thô sơ, những người tỵ nạn
phải đi tìm phương tiện để che thêm chòi ở. Những ngày tốt trời, sóng
yên biển lặng thì có tiếp tế thực phẩm còn những hôm thiên nhiên nổi
giận thì thiếu trước hụt sau. Do đó phải rút kinh nghiệm, có ăn và có
để, bù trừ lại những lúc túng thiếu. Theo me tôi kể lại, sau những
chuyến thăm nuôi, cuộc sống của tôi trên đảo không kém gì sinh hoạt của
ba tôi trong môi trường "học tập cải tạo".
Với một ít vốn liếng ngoại ngữ Pháp lẫn
Anh, tôi tình nguyện làm thông dịch viên giữa các phái đoàn người nước
ngoài đến phỏng vấn và người tỵ nạn trên đảo, với hy vọng được rời đảo
đi Hoa Kỳ càng sớm càng hay. Thế nhưng, không đủ tài liệu để chứng minh
quá khứ của ba tôi - bị đốt mất khi chế độ cộng hòa ra đi - nên phái
đoàn cứ chần chờ, cần có thời gian để xác minh. Cứ như vậy mà sáu tháng
qua đi không mấy hồi, tôi càng nôn nóng muốn rời bỏ kiếp sống của
Robinson Crusoe để sớm thoát khỏi cảnh cơ cực của thời tỵ nạn trên đảo.
Mức độ hy vọng ngày một cạn kiệt mà tương lai thì cứ diệu vợi:
"Ở đây nhớ khói quê nhà
"Nhớ khi chiều xuống buồn tha thiết buồn!
(Lâm Hảo Dũng)
Dịp may đến cho tôi là có tin phái đoàn
Pháp chọn người đi mà không cần phải chứng minh quá khứ. Thế là tôi được
đưa đi Singapore để lên phi cơ bay đến miền đất của "Công Bình - Bác Ái
- Tự Do".
Xuất thân từ trường Lê Quí Ðôn, qua một
chương trình học hỗn hợp Việt-Pháp, tôi có được một ít vốn liếng về ngôn
ngữ và văn minh, văn hóa Pháp. Hơn nữa, trong buổi hưng thời của ba tôi,
qua sách vở, tài liệu và đồ vật trang trí trong nhà, môi trường sinh
sống của nước Pháp đã gây một ấn tượng tốt trong tâm khảm tôi từ buổi
thiếu thời. Dư luận trên đảo cho rằng đi Mỹ "sướng hơn", vì sẽ được Mỹ
chăm nuôi, cấp dưỡng đủ điều, vì "nó chịu trách nhiệm trong chuyện thua
cuộc của Sài Gòn". Còn Pháp thì đâu có ăn nhằm gì thì họ sẽ coi người tỵ
nạn như con nuôi, con ghẻ. Nhưng, trong đầu óc của thằng trai mười chín
tuổi ở tôi, những điều đó đâu có gì là quan trọng, miễn sao sớm thoát
được cảnh cùng khổ một thời trên hoang đảo là được. Với đôi tay nhiều
nghị lực mình sẽ làm nên tất cả, thì cần quái gì chuyện nằm chờ sung
rụng, biết có thực hay không.
Sau hai tuần lễ làm thủ tục di trú tại một
trung tâm của "France-Terre d'Asile" ở Créteil (ngoại ô Paris), tôi được
đưa đi tạm cư ở Strasbourg, một thị xã miền cực Ðông nước Pháp, giáp
ranh với Ðức. Tôi bắt đầu một khoảng đời tỵ nạn lưu vong bằng lao động
chân tay, cực thì có cực nhưng tâm trí được tự do và cảm thấy hạnh phúc
trong nội tâm vì:
"Hạnh phúc
"Là được sống với trái tim mới lạ
"Cởi bỏ hận thù, một cõi xót xa...
(Nguyên Lý)
Cái gương khổ cực của ba tôi trong rừng rậm
lao cải đã trang bị cho tôi lòng can đảm để gánh chịu mà đạt lấy mục
tiêu. Một thời gian sau, tôi ghi tên học nghề chuyên môn và sau trắc
nghiệm về trình độ văn hóa, người ta đưa tôi về Champs-sur-Marne, một
vùng ngoại ô xa của Paris, để học về điện toán. Sau một năm đào tạo, tôi
được giữ lại trường phụ tá cho các giáo sư giảng huấn trong một năm và
sau đó tôi bắt đầu hành nghề trong phạm vi chuyên môn đã học được, với
quyết tâm sẽ mang tất cả gia đình sang Pháp sinh sống.
Khoảng mười năm sau, ba tôi được phóng
thích, vì đã "học tập tốt", cùng lúc với hàng ngàn người tù khác, qua
đợt tha do sự can thiệp với Hà Nội của tướng Vessey, đặc phái viên của
tổng thống Hoa Kỳ. Tôi nôn nóng tìm cách bắt đầu thủ tục để bảo lãnh ba
me và hai em tôi sang Pháp. Thế nhưng, thân tôi còn ở trọ trong một căn
phòng bé nhỏ của một Foyer Pour Travailleurs Immigrants (Cư xá cho lao
công di trú) thì làm sao mà đưa gia đình tôi sang Pháp cho được.
Trong khi đang bâng khuâng và thắc mắc thì
nhận được thơ của ba tôi bảo đi tìm ông François P., một người Pháp bạn
thân của ba tôi, để may ra nhờ ông này can thiệp. François trước kia làm
giám đốc cơ quan thông tấn AFP ở Sài Gòn trong khi ba tôi giữ một chức
vụ thứ yếu, nhưng không kém phần quan trọng trong nội các "dân nghèo".
Gởi thơ đến hãng tin AFP của Paris thì tiếc thay ông François đã về hưu,
nhưng người ta vẫn có lòng tốt cố gắng tìm ra. Y như rằng, một thời gian
sau ông François tìm gặp tôi. Thế là thủ tục xin chiếu khán nhập cảnh
Pháp cho gia đình tôi có kết quả trong vòng một tháng. Nhưng, ở phía
Việt Nam phải chờ một năm sau mới được chiếu khán xuất cảnh.
Gia đình chúng tôi đoàn tụ trên đất Pháp
vào một ngày hè năm đó (1990), trong nổi vui sướng và niềm tự hào của
riêng tôi. Vui sướng vì sau mười mấy năm xa cách, qua những bước thăng
trầm của lịch sử đau thương đầy mất mát và sàng lọc của định mệnh mà gia
đình chúng tôi còn trọn vẹn để xây dựng lại tất cả từ con số không to
tướng, trên xứ lạ quê người. Tự hào vì đã có một quyết định đúng và đã
có một tấm gương để phấn đấu cho lý tưởng của chính mình.
Ngày ôm chầm lấy ba tôi ở phi trường
Roissy-Charles de Gaulle, tôi thấy buồn lòng vì thân xác ba tôi hơi tiều
tụy, nhưng gương mặt còn phảng phất một nét tinh anh thầm kín, chưa mất
hẳn. Cả me và các em tôi cũng vậy. Phải chăng sau mười mấy năm trời sống
trong o ép của xã hội xã hội chủ nghĩa, con người đã bị xóa mờ đi? Chỉ
còn lại một bóng dáng của chính mình. Thế nhưng, trong thâm tâm tôi, ba
tôi vẫn cứ là một anh hùng như trong bài "Sau trận chiến" của Victor
Hugo: "Ba tôi, người anh hùng đó,
với nụ cười hiền hòa..." (Mon père, ce héros au sourire si doux).
Với một tinh thần phấn đấu vượt gian khổ, gia đình tôi lần hồi huy hoàng
trở lại, bằng năm, bằng mười xưa kia. Trời Ðất quả không phụ lòng những
người có thiện tâm và biết kiên trì.
|
bút
việt
hồn
quê

|