.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

Bài vở cho trang này xin gửi về:
nhà văn PHONG THU
phongthu@mindspring.com

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Nguyễn Thị Thanh Dương | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Võ Thị Trúc Giang | Nguyễn Thế Hà | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Thạch Lang | Đại Lãn | LLâm Kim Loan | Vũ Nam | Nguyên Nhung | Chân Y Nghiêm | Pháp Nhật | | Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Anh Thư | Diệu Trân | Tiểu Tử | Nguyễn Ước Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

  Phong Thu

Thu Paris,
tình yêu và những nụ hôn

Thu ơi ta chào mi!

Thu đã về rồi phải không thu? Trên thinh không đã có những đàn chim di bay lang thang về phương Nam sớm hơn mọi năm. Những hàng cây bên đường đã chuyển màu. Tôi có thể nhìn thấy những chiếc lá còn xanh có chen lẫn với màu vàng chanh, màu rượu chát, màu nâu, đỏ bầm, hồng, vàng uá, xám như hàng triệu đoá hoa muôn màu bừng lên trong sắc trời u buồn và dai dẳng những cơn mưa rả rít. Mùa thu đẹp và buồn não nùng khiến lòng tôi se thắt lại một cảm giác nôn nao, xao xuyến khó tả. Tôi yêu mùa thu lạ lùng vì nét đẹp quyến rũ của thu, của bầu trời xám đục màu chì, của những chiếc lá vàng rơi rụng bay giữa lưng trời trong sắc thu êm ả, tịch liêu. Hàng ngày đi làm về, tôi thường ngồi bên song cửa nhìn ra vườn và bâng khuâng nhìn những hàng cây trút lá rơi âm thầm trên cỏ uá. Mười ngày nay, trời u ám, trở lạnh, mưa gió tơi bời và nhiệt độ xuống thấp kỷ lục đã được những nhà khí tượng học ghi nhận rằng đây là mùa thu lịch sử của Hoa Kỳ. Nhiệt độ xuống thấp nhất trong vòng 130 năm qua. Người bạn đời của tôi cũng mê viết lách. Anh suốt ngày vùi đầu trên máy computer, biên tập những quyển sách dầy cộm cho hai nhà xuất bản lớn ở New York và Florida gởi đến. Nhưng anh cũng thích thú dành thời gian ngắm bầu trời thu đầy lá chết và những cơn mưa buốt giá. Anh đã nói với tôi rằng Washington D.C nhiệt độ dưới 45 độ F. Nhưng nhiều tiểu bang khác có tuyết rơi nhẹ.  Hàng cây phong trong sân nhà tôi lá ửng lên màu vàng cam hực lửa, lá phong vào thu đẹp như những chùm cúc mâm sôi đang mọc bên thềm.

Sau những ngày âm u, trời ửng lên chút nắng, cũng là lúc tâm trạng u hoài của tôi vơi đi. Tôi liên tưởng và nhớ lại những ngày “Thu Tao Ngộ”, lần đầu tiên tôi đặt chân đến Paris. Tôi gặp lại khuôn mặt bạn bè thân quen và xa lạ. Paris bây giờ lá có vàng thêm trên những hàng cây dọc theo hai bờ sông Seine êm ả, dịu dàng. Hay bây giờ Paris đang mưa để tiếng reo của gió làm héo uá những hàng cây dọc theo đại lộ Khải Hoàn Môn? Nắng có rộn ràng theo những bước chân của khách lãng du không? Hay Paris đã lặng im, chìm trong những ngày mưa rã rít. Đêm đầu tiên ở Paris, chúng tôi đi bộ dọc trên viã hè. Những quán cà phê, quán ăn bên đường đèn sáng choang. Quán nào cũng đông người. Những quán cà phê trên viã hè với những chiếc ghế và những cái bàn con con là nét độc đáo, riêng biệt của Parsi. Nhìn Paris, tôi nhớ Sài Gòn da diết bởi kiến trúc xây dựng, phố xá và  phong cách sống của người Paris mang dáng nét của người Sài Gòn. Nhiều nơi tôi đi qua, tôi cứ ngở Đà Lạt ngàn thông. Paris là thành phố nửa cổ kính, nửa hiện đại. Những con đường lát đá hàng ngàn năm vẫn giữ nguyên hình dáng cũ. Nhiều con đường nhỏ uốn lượn trên những con dốc cao và đỗ xuống những con đường lớn. Người Paris sống rất nhàn hạ, họ đi thong thả trên trên đường phố, họ ăn uống, vui chơi bình thản trên những con phố cổ ồn ào, náo nhiệt.

Những ngày ở Paris, người bạn đồng hành với chúng tôi là giáo sư Nguyễn Ngọc Chân, ông là một người sinh trưởng tại Cam Bốt, sang Pháp trên 30 năm nhưng vẫn nói tiếng Việt rất sỏi. Ông dẫn chúng tôi đi thăm nhiều nơi như: Chams-Élysées, Opéra, Sacré Coeur, Tour Eiffel, Trocadéro, L’Obélisque, Notre-Dame... Ông giải thích cho chúng tôi biết những di tích lịch sử, những nhà thờ và những kiến trúc đặc biệt, nổi tiếng. Ông còn nhớ cả những bài ca dao, dân ca và những bài thơ trữ tình. Ông nói với chúng tôi về tình hình đất nước, sự tàn ác ngu xuẩn của chế độ cộng sản. Tôi không những phục ông về kiến thức mà còn kính trọng giáo sư vì trong trái tim ông vẫn nuôi dưỡng, hun đúc tình yêu sâu đậm đối với quê hương, dân tộc đau khổ mang tên Việt Nam. Chị Mây Thu và anh Nguyễn Thanh giản dị, hiền hậu và nhiệt tâm. Hai vợ chồng chị đã cùng với anh Đỗ Bình, anh Nguyễn Thùy, chị Mai Ling, vợ chồng chị Thi Như đã đón chúng tôi từ sân bay và đi theo giúp đỡ chúng tôi trong suốt cuộc hành trình.

Ngày thứ hai, với sự hướng dẫn của anh Võ Hùng Anh và phu nhân, và nhà thơ Đỗ Bình cùng phu nhân, đã cho chúng tôi một chuyến du thuyền trên dòng sông Seine.

Buổi chiều trên sông Seine làm tôi nhớ lại bài hát “Chiều Trên Sông Seine” của nhà thơ Đỗ Bình. Dòng sông huyền diệu đã đi vào thơ ca của nhiều thế hệ. Tôi chưa đọc hết những thi phẩm Pháp nói về dòng sông Sein. Nhưng bài hát của nhạc sĩ Đỗ Bình đã diễn đạt thật đầy đủ nét đẹp gợi cảm của dòng sông: “Chiều tà ươm nắng tơ. Thu về soi bóng sông Seine lững lờ. Chuyện tình như áng mây. Theo cánh chim xưa bay về phương nao....” Và bao năm trôi qua trên xứ lạ quê người, tác giả cảm nhận rằng “...kiếp tha hương buồn tênh. Người quanh ta hửng hờ...”, xa lạ. Những dư âm của tình yêu, tình người lãng đãng, rơi rụng như những chiếc lá bay ngang dòng sông Seine. Những gì êm đềm của ngày xưa chỉ còn trong cõi mộng. Anh từ nhà tù trở về, chỉ còn thân xác của một kẻ tật nguyền. Đôi mắt anh không còn sáng sau những năm tháng tù đày.

Từ con thuyền trôi dòng sông Seine, chúng tôi có thể nhìn thấy những biệt thự, những ngôi giáo đường cao ngất với những cấu trúc rất tinh vi. Nắng chiều rơi trên dòng sông một màu vàng óng ả, mượt như nhung.

 

Nụ hôn và tình yêu

Nụ hôn là biểu hiện của tình bạn, tình thương mến, tình yêu, tình người. Nếu loài người ban phát cho nhau nhiều nụ hôn thì thế giới nầy bớt ganh ghét, hận thù, tranh giành và chém giết lẫn nhau. Người Mỹ biểu hiện tình cảm bạn bè bằng cách bắt tay hoặc ôm vai nhau và thân thiết hơn họ hôn nhau trên má. Nhiều người Việt ở Mỹ trên 30 năm vẫn làm bộ đạo đức giả cho rằng không tốt, không đứng đắn. Đến Paris, tôi mới thấy nụ hôn thật sự có ý nghiã. Những người bạn tôi gặp là những trí thức nổi tiếng, tài hoa họ đã dành cho chúng tôi những nụ hôn thật đằm thắm “Ôm chầm lấy và đặt má của tôi áp vào má họ ở cả hai bên”. Tôi cảm thấy ấm áp tình bạn, gần gủi và xúc động. Nhà thơ Đỗ Bình ôm tôi và nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung trên sân bay, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên chạy đi kiếm chúng tôi trong khách sạn và ôm hôn lên má. Nhạc sĩ lão thành Lê Trạch Lựu đã gởi trên má tôi hai nụ hôn chia tay, vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên, nhà phê bình Nguyễn Thùy cũng tặng tôi những vòng tay thân ái và những nụ hôn, chị Thi Như cũng áp má hôn tôi từ giả. Tiến sĩ Hải Yến và phu quân đã hướng dẫn chúng tôi đến Place Vendôme nơi Tổng Trưởng Tư Pháp cư ngụ và khách sạn Vint, nơi công chúa Diana sinh ở sống lúc sinh thời. Chị cũng chỉ cho tôi xem nơi văn hào lừng danh Victor Hugo sinh sống. Hải Yến trông giản dị, mộc mạc, dễ mến. Chị có tài ca vọng cổ  rất mùi làm tôi thích thú. Chị đã ôm hôn tôi hai bên má khi chia tay. Nghệ sĩ Bích Xuân không biết về tôi nhiều. Nhưng ngày chia tay chị hôn tôi nhiều nhất (có lẽ gần mười nụ hôn). Tôi cầu mong chị tìm được sự bình an, hạnh phúc trong cuộc sống đơn độc. Nhiều khi cuộc sống lứa đôi chỉ là một tấm bình phong che mắt thế gian. Còn đàng sau là những tiếng gào, thét, những lời nói không đẹp và hành hạ nhau cả cuộc đời. Đó cũng là bi kịch của những nụ hôn không trọn vẹn. Hay nơi đó, chúng ta chỉ tìm thấy nửa nụ hôn hờ hững, giả tạo.

Ngày 3 tháng 10, giáo sư Nguyễn Ngọc Chân và chị Thu Mây hướng dẫn chúng tôi đến viếng thăm nhà thờ Notre Dam De Paris. Ngôi nhà thờ mà tôi mơ ước một lần đặt chân đến từ khi còn là một cô bé con mười hai tuổi. Tác phẩm lừng danh “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” văn hào tài hoa Victor Hugo đã cuốn hút hàng triệu người say mê trong nhiều thập kỷ. Ông là thần tượng văn học mà tôi yêu thích, ngưỡng mộ. Khi vào trường Đại Học, tôi học hai chương trình văn học: Văn Học Việt Nam và Văn Học Thế Giới. Văn Học Việt Nam do giáo sư Lê Trí Viễn giảng dạy. Nhưng Văn Học Thế Giới lại là con gái của thầy là cô Phương Thảo hướng dẫn. Cô có giọng nói êm ái và có tài kể chuyện rất thu hút khiến cho mấy anh sinh viên trong lớp say mê. Cô kể liên tục tiểu thuyết “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà và Những Người Khốn Khổ” vào cuối giờ học làm cho tôi mơ ước và nuôi dưỡng một ngày nào đó sẽ dặt chân trong ngôi giáo đường đã đi vào lịch sử nền văn học Pháp. Notre Dame de Paris có nghĩa là 'Our Lady of Paris' in French”, là ngôi nhà thờ bắt đầu xây dựng từ năm 1163, và thời gian xây dựng kéo dài qua nhiều giai đoạn.  Có thể tóm gọn cho các bạn cùng tìm hiểu “Timeline of construction”:

  • 1160 Maurice de Sully (Bishop of Paris), Đức Giám Mục - Maurice de Sully ở Paris đã có ý định phá huỷ ngôi nhà thờ nhỏ để xây dựng ngôi nhà thờ lớn (orders the original cathedral to be demolished).
  • 1163 Viên gạch đầu tiên đặt nền móng để xây dựng Notre Dam (Cornerstone laid for Notre Dame de Paris - construction begins).
  • 1182 Thánh đường và nơi hát thánh ca hoàn thành (Apse and choir completed)
  • 1196 Đức Giám Mục Maurice de sully qua đời và Đức Giám Mục Eudes de Sully tiếp tục xây dựng (Bishop Maurice de Sully dies. Bishop Eudes de Sully (no relation) takes over the project.
  • c.1200  Bắt đầu xây dựng mặt tiền của hướng Tây (Work begins on western façade).
  • 1208 Đức Giám Mục Eudes de Sully qua đời. Gian giữa của giáo đường xây dựng gần xong ( Bishop Eudes de Sully dies. Nave vaults nearing completion)
  • 1225 Mặt tiền hướng Tây đã hoàn thành (Western façade completed)
  • 1250 Vòm mái hướng Tây và cánh cửa Hoa Hồng hướng Bắc đã hoàn chỉnh (Western towers and north rose window completed)
  • c.1245–1260s Những họa tiết trên cửa Hoa Hồng được trang trí trở lại bởi hai họa sĩ- kiến trúc sư Jean De Chelles và Pierre de Montreuil (Transepts remodelled in the Rayonnant style by Jean de Chelles then Pierre de Montreuil)
  • 1250–1345  Nhà thờ đã xây dựng hoàn chỉnh (Remaining elements completed).

Notre Dam của Paris nổi tiếng thế giới không chỉ kiến trúc độc đáo của nó mà Notre Dam còn là một trong những kiến trúc đầu tiên đã sử dụng flying buttress (arched exterior supports) như những cánh tay nhỏ vươn ra như những cánh bướm để nâng đỡ, bảo vệ ngôi nhà thờ thêm vững chắc (Notre Dame de Paris was among the first buildings in the world to use the flying buttress (arched exterior supports).

Đặc biệt trong nhà thờ có một giàn nhạc rất vĩ đại có 7.800 pipes, với 900 classified đã có từ mấy trăm năm, 109 phím đàn phiá trên, có đến năm dãy 56 phím manual và một dàn phím đàn bằng chân có 32 phím (The organ has 7,800 pipes, with 900 classified as historical. The organ has 109 stops, five 56-key manuals and a 32-key pedalboard). Giàn nhạc độc nhất vô nhị nầy rất khó sử dụng và chỉ có một số nhạc sĩ tài ba nhất Paris mới có thể chơi được nhạc cụ nầy (có dịp tôi sẽ trở lại).

Chị Mây Thu và tôi vào bên trong nhà thờ. Mắt chúng tôi chạm phải những ánh nến lung linh đặt trên những chiếc dĩa tròn màu bạc có trụ bằng sắt của dãy hành lang bên phải, được nối tiếp nhau bằng những sợi dây xích chia thành từng ngăn để mọi người vào cầu nguyện. Có hai người tuổi trẻ đang âu yếm bên nhau. Cô gái người Pháp có khuôn mặt trang nhã, mái tóc dài vàng óng đứng tựa đầu vào vai của người tình. Người thanh niên tuấn tú, cao lớn choàng tay qua vai người yêu và cả hai thì thầm cầu nguyện. Tôi đi một vòng nhà thờ, xem các bức tranh, tượng chạm trổ cầu kỳ, những hoa vân trên các cửa sổ, trên tường và nghe lời cầu kinh vang vọng. Nhà thờ đông nghẹt người nhưng mọi người nói chuyện rất khẻ và không gây náo động trong buổi cầu kinh. Giữa thánh đường rộng thênh thang những hàng ghế đông nghẹt người đến cầu kinh. Vị linh mục da đen mặc áo choàng màu trắng và bốn cô gái mặc áo choàng màu xanh dương đang hát thánh ca. Một làn khói trắng từ dưới bục gỗ bay lên nghi ngút khiến cho buổi cầu kinh thêm phần long trọng. Khi tôi đi ra đến cửa và chụp hình khung cảnh nhà thờ thì tôi gặp lại hai người trẻ tuổi. Hình như đối với những người trẻ tuổi yêu nhau, không gian đang dừng lại, những đám đông xung quanh không làm cho tâm trí họ bị chi phối. Cả hai đang say đắm bên nhau. Họ quấn quýt, âu yếm, hôn nhau. Hình ảnh đó thật sống động, thật kỳ diệu và thật tuyệt vời khiến tôi xúc động. Tôi chụp hình của họ như một biểu tượng cho cái đẹp, cái thanh khiết vĩnh cữu để tôn vinh tình yêu. Cầu mong họ mãi mãi bên nhau trong êm ái và hạnh phúc

 

Gặp bạn hiền

Trước khi đi Paris, tôi có dự định ngoài việc viếng thăm gia đình nhà thơ Đỗ Bình, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và vài người bạn khác tại Paris. Nhưng thời gian và những yếu tố khách quan không cho phép. Cuối cùng tôi chỉ còn gặp được Lê Nguyên, Chủ Biên Phù Sa online. Website của anh đã thu hút tôi ngay từ những ngày đầu tiên Phù Sa ra đời.  Thế nhưng mấy năm gần đây, tôi mới bắt đầu gởi bài cho Phù Sa. Anh dành cho tôi một Mục Thư riêng trên trang Văn Học. Lần đầu tiên gặp Lê Nguyên, tôi đã có cảm tình ngay do phong cách giản dị, giọng nói miền Nam gần gủi, chân thật. Chúng tôi đi uống cà phê và nói chuyện về vấn nạn của Bát Nhã ở Lâm Đồng, Đà Lạt. Một vấn đề nổi cộm gây chấn động lương tâm mọi người trong và ngoài nước. Nó phơi bày bàn tay tàn độc, hiểm ác và vô nhân đạo của chế độ cầm quyền Hà Nội đối với Phật Giáo. Lê Nguyên quan tâm nhiều về sự tụt hậu của những giá trị văn hóa, và suy trầm về mặt đạo đức trong xã hội ngày nay. Lê Nguyên vượt lên những quan niệm dung tục, dễ dãi tầm thường, anh quan niệm văn - nghệ phải chuyên chở được những giá trị sống; phải thật, lành, và đẹp. Nếu văn học không có những chức năng đó thì khó mà giữ nổi bản sắc trong chu trình toàn cầu hóa hiện nay. Nhiều người viết văn, làm thơ để có chút danh. Họ sẽ cười chê, chế ngạo quan điểm của anh. Thế nhưng, văn học nghệ thuật nếu không phản ánh được xã hội, lịch sử và thân phận con người, để giúp con người hướng thiện và tìm ra chân thiện mỹ thì người cầm bút đã không đóng trọn chức năng của mình một cách đầy đủ. Hay đúng hơn họ chẳng hiểu gì về vai trò của văn học nghệ thuật.

Lê Nguyên cho tôi biết cuộc triển lãm đặc biệt cảnh báo sự “Bức Tử của dòng MeKong” làm tôi tò mò. Anh lái xe đưa tôi đi xem. Những bức ảnh chụp về dòng sông MeKong được phóng lớn và treo thành hàng dọc trên bờ rào rào của vườn Luxembourg. Những bức hình được lựa chọn từ các nước có liên quan đến dòng MeKông: Tây Tạng, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Điện... Những bức hình nầy đang báo động với thế giới về sự nguy hại của dòng MeKong khi con người khai thác nó quá đáng.

Dự án con đập Pa-Mong ở hạ lưu sông Mekong là con đập lớn giữa biên giới Thái – Lào nằm trên dòng chính sông Mekong. Nó sẽ cung cấp nguồn điện trên 2.000 MW, cải thiện thủy lộ giao thông, phát triển kinh tế cho toàn vùng đông bắc Thái Lan và Lào với hồ chứa dài hơn 300 km.

Thượng lưu sông MeKong, Trung Cộng xây đập Tiểu Loan (Xiaowan) trên dòng chính sông Lan Thương, đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Công suất đập Tiểu Loan là 4,200 MW là con đập cao nhất thế giới (292 mét), tương đương với tòa nhà chọc trời cao 100 tầng, với dung lượng hồ chứa lên tới 15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông MeKong, sẽ bắt đầu hoạt động từ năm 2010, cung cấp điện cho tỉnh Quảng Đông và các tỉnh lân cận.

Theo tài liệu của Ủy Ban Sông Mekong có trụ sở ở Bangkok, Trung Cộng đã xây dựng mười bốn con đập trên dòng chính thượng nguồn sông Mekong, chưa kể vô số những con đập ở phụ lưu như: Xiaowan (Tiểu Loan), Manwan (Mạn Loan), Daichaosan (Đại Chiếu Sơn), Nuozhado; Jinghong (Cảnh Hồng), Gunlanba và Mengsong. Liutongsiang; Jiabi; Wunenglong; Tuoba; Huangdeng; Tiemenkan; Guongguoqio.

Dòng MeKong sẽ bị bức tử trong một thời gian không xa và những hiện tượng điạ chấn gây động đất có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Câu chuyện thần thoại về ngọn sóng thần của những con đập bị vỡ sẽ cuốn theo hàng triệu triệu sinh linh sống dưới hạ nguồn không còn nằm trong tiểu thuyết. Thật kinh hoàng cho sự tham lam, cuồng vọng và tàn ác của Trung Cộng.

Hai chúng tôi đi vòng quanh Luxembourg, anh chỉ cho tôi xem ngôi nhà của Thượng Viện của Pháp đồ sộ nằm trong khuôn viên Luxembourg. Mặt tiền của Thượng Viện đối diện với con đường đông đúc xe cộ nhưng bên trong là một vườn hoa xinh đẹp, có đặt những chiếc ghế cho mọi người nghĩ chân, có quán ăn, giải khát nằm khuất dưới những hàng cây xanh tươi. Và mọi người bình thản chạy bộ, tập thể dục thể thao. Chúng tôi đi dưới những hàng cây đầy lá chết. Lê Nguyên kể cho tôi nghe về cuộc đời mồ côi của anh, về những chuyến vượt biên bất thành khiến anh mất trên 265 cây vàng trước khi vượt thoát ra hải ngoại. Anh kể về nỗi buồn và nỗi nhục nhằn của đời tị nạn, bị vu oan, bị chụp mủ cộng sản... đã khiến anh quyết định đến với cửa Phật. Anh đã tìm ra quê hương tâm linh của mình. Nhìn anh, tôi lại nhớ đến Đinh Ban Thuận, người chị, người bạn luôn gần gủi bên tôi. Mùa thu nầy chị sẽ rời trụ sở đài truyền hình ABC của Hoa Kỳ để về hưu non. Trong khi nhiều người bon chen tìm danh lợi thì chị dứt bỏ tất cả để tìm đến cửa thiền. Chị sống đơn độc hơn mười lăm năm từ khi người bạn đời đã về cõi miên viễn. Chị yêu anh đến mức không bao giờ còn tìm được người thứ hai thay thế cho anh. Giữa cuộc sống sôi động, đầy cám dỗ, với địa vị xã hội trí thức cao trọng chị vẫn giản dị, khiêm tốn, chung thủy, tử tế với mọi người. Chị chơi với tôi không bao giờ so bì hơn thiệt, được không. Đối với chị tiền tài, danh vọng chỉ là phù du, cát bụi. Tôi cảm ơn cuộc đời còn cho tôi những người bạn hiền. Bửa tiệc cuối cùng sẽ diễn ra vào ngày 31 tháng 10 để chị từ giã bạn bè về hưu trí, từ bỏ cương vị của một nhân viên uy tín, tận tụy với đài trên 30 năm. Tôi bỗng lo lắng khi chị mong muốn rời khỏi Hoa Kỳ trong một thời gian khá dài và tôi sẽ rất hiếm hoi gặp lại chị. Tôi gọi điện thoại nói với chị về nỗi lo của tôi. Chị cười và nói rằng “Chị sẽ cho Phong Thu biết tin chị sẽ làm gì và đi đâu?”. 

Ngày 7 tháng 10, tôi và nhà thơ Đỗ Bình gặp lại Lê Nguyên lần sau cùng bên quán cà phê đối diện toà nhà Thượng Viện. Anh tặng tôi một gói nấm Linh Chi. Nấm Linh Chi mang theo tình bạn lần gặp gỡ đầu tiên của tôi và Lê Nguyên.
 


Đỗ Bình và Thu tao ngộ

Với đôi mắt đã mờ theo những năm lao tù và những bịnh tật đeo đẳng, nhà thơ Đỗ Bình vẫn muốn gởi lại cho đời những rung cảm của con tim qua những vần thơ, những bài hát. Anh vẫn giữ vai trò Chủ Tịch Câu Lạc Bộ Văn Học Paris và hàng năm tổ chức những buổi họp mặt văn nghệ, ra mắt sách cho các văn nghệ sĩ ở Paris và nơi khác đến.

Năm nay, “Thu Tao Ngộ” đã đến với anh bằng những cơn bão, những trận mưa rào làm anh ướt áo, nhức đầu, sổ mũi?!... Nhưng anh đã thành công một cách ngoạn mục do sự linh động và tài điều hợp chương trình của anh với sự cộng tác của nữ sĩ Vân Hải và Ban Tổ Chức.

Thu Tao Ngộ quy tụ được một lực lượng tri thức, chất xám đáng kể của Paris. Những người tôi chỉ nghe tên tuổi, tài năng nhưng chưa bao giờ biết mặt: Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hướng tức nhà thơ Hoài Việt và phu nhân Huệ Châu, ông bà Bác Sĩ Phan Khắc Tường, Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Paris, nhà văn nữ Mai Ling, Bác Sĩ Phạm Hữu Trác (Canada), nhạc sĩ Phạm Đình Liên và phu nhân Minh Cầm, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Chân, Giáo Sư Bùi Sỹ Thành, Giáo Sư Thái Hạc Oanh, nhà văn Tô Vũ, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, nhà văn Hồ Trường An, Nữ nghệ sĩ Diệu Khánh, điêu khắc gia Anh Trần, Bác Sĩ Huỳnh Trung Nhì, Luật Sư Dương Thái Chân, Bác Sĩ  Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Phương Du, Tiến Sĩ Hồ Minh Trâm, Ông Võ Hoài Nam (nhà văn Tiểu Tử), Giáo Sư Như Mai, Bác Sĩ Vũ Thị Thoa, Tiến Sĩ Nguyễn Thị Kim Đàn, Giáo Sư Phạm Thị Nhung, nữ sĩ Vân Hải, nhà báo Phạm Hữu, nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà văn Trọng Lễ, kỹ sư Nguyễn Xuân Lan, nhà thơ Quyên Tâm, hoạ sĩ Nguyễn Đức Tăng, Giáo Sư Tư Trì, Giáo Sư Âm Nhạc Nguyễn Thanh Vân (đàn tranh), nhà thơ Mây Thu và phu quân Nguyễn Thanh dễ mến, vợ chồng nghệ sĩ Võ Hùng Anh và vợ chồng chị Thi Như.  Bên cạnh nhà thơ Đỗ Bình là phu nhân Thúy Hằng, người vợ hiền cũng là một ca sĩ đã sát cánh bên anh trong tất cả các buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật. Nhà thơ Đỗ Bình còn lôi cuốn được hai trí thức nổi tiếng từ nhiều thập niên qua là nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và phu nhân và nhà phê bình văn học lão thành Nguyễn Thùy đến từ Thụy Sĩ. Những ca sĩ yêu văn học nghệ thuật của Paris cũng đã đến tham dự và đóng góp tài năng cho nghệ thuật như: Ca sĩ Minh Nhật, người ca sĩ đã một thời vang danh nay vẫn đến chia sẻ tâm tình và cùng chúng tôi lang thang trên thành phố Parsi, ca sĩ Đỗ Quyên và giáo sư Nicole Rivière, ca sĩ Bích Liên, ca sĩ Ambrosio Laurent, ca sĩ Ngọc Châu. Ngoài ra còn có mặt hai nhà đấu tranh trong cộng đồng người Việt tại Paris là Trần Hồng và Nhất Long và các em thiếu nhi xinh xắn, dễ yêu trong tà áo dài khăn đóng với chiếc lồng đèn trong tay. Hội trường đông nghẹt không còn có chỗ ngồi, ban tổ chức phải xếp ghế hai bên hành lang. Số lượng quan khách Paris đông đảo trong ngày “Thu Tao Ngộ” là để chào đón những tác giả phương xa cùng viết chung tác phẩm “Món Ăn Theo Bước Chân Di Tản” như: Nguyễn Thị Ngọc Dung (Chủ Nhiệm tập san Cỏ Thơm) và Phong Thu (Washington D.C), Vũ Nam (Đức), Tiểu Thu (Canada), Duy An Đông, Ngọc An, Mặc Giao (Califorina). Tháp tùng đoàn còn có nhà danh hoạ Vũ Hối (Washington D.C), nhà biên khảo Nguyễn Văn Nhiệm (Đức), Hồng Phúc và Nguyễn Thuận (TX), Trúc Giang và phu quân (Đức), Chu Kim Oanh và phu quân (Arizona).

Thu Tao Ngộ là nét đặc thù riêng sinh hoạt văn học nghệ thuật của Paris. Cùng một lúc, chương trình đã giới thiệu nhiều tác giả và tác phẩm khác nhau với những nội dung phong phú đa dạng. Chiều Thu Tao Ngộ đã để lại một dư âm ngọt ngào trong lòng mọi người.


Giã từ Paris và những người tôi yêu

Ngày vui qua mau, ngày chia tay cuối cùng chúng tôi còn gặp lại Nguyễn Thùy, nhà phê bình nhỏ nhắn, dễ mến, vui tính, bộc trực và mê thuốc lá. Nhớ Nguyễn Thuỳ, tôi phải làm thơ con cóc “Khói thuốc bay trong chiều lãng đãng. Anh về dệt mộng buổi chiều thu”. Nhà thơ Đỗ Bình bị tôi hành hạ nên phải đón Metro vượt chặng đường dài hơn 60 Km để đến giúp bạn bè. Anh chạy ngược xuôi trên đường Luxambourg trong một tiếng đồng hồ để tìm mua chiếc vé đậu parking. Rồi cả buổi trưa, anh loay quay đi tìm nhà bác sĩ Nguyễn Bá Hậu nhờ làm giúp bạn giấy tờ để tiết kiệm tiền vé máy bay $500 cho bạn. Với đôi mắt đã mờ và thường xuyên chảy nước mắt, anh phải xin lỗi tôi liên tục vì anh không thấy đường để đọc những hàng chữ trên đường. Thương anh, tôi chỉ còn biết im lặng mà nhìn. Tôi cảm thấy mình có lỗi với anh. Vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên và Minh Cầm, Bích Xuân, Hoạ sĩ Vũ Hối, Ngọc An  cũng có mặt trong buổi chia tay. Bửa ăn chia tay cuối cùng là một bửa ăn lịch sử chưa bao giờ xảy ra trong đời tôi. Tôi sẽ trân trọng gìn giữ mãi tình cảm chân thành của bạn bè thân thương trong ký ức. Và tôi cũng dọn dẹp sạch sẽ những cây gai nhọn trên đường tôi đã đi qua. Tạm biệt Paris, thành phố “ánh sáng và nước”, với những người bạn mới gặp gỡ chưa kịp nắm tay nhau đã phải chia tay, của những người hát rong nhảy múa  trên đường phố, của những nụ cười và những nụ hôn. Biết đến bao giờ tôi mới trở lại Paris. Và ngày đó, có còn không nhạc sĩ Lê Trạch Lựu kể cho tôi nghe sự ra đời của bài hát “Em Tôi”, nhà văn Hồ Trường An với những bài thơ trãi rộng tình quê hương, bạn bè trong tuyển tập thơ “Vườn Cau Quê Ngoại”. Nhà phê bình Nguyễn Thùy nói cười rổn rảng, say mê nghiên cứu và viết tiểu thuyết. Bóng chiều đã ngã xuống cuộc đời của những người tài hoa. Niềm mong ước của tôi là cầu chúc cho tất cả bình an trong cuộc sống.

Trở về Washington D.C, hành trang tôi trĩu nặng tình và trĩu nặng tri thức. Thư viện nhỏ trong nhà tôi có thêm những quyển sách và những CD nhạc bạn bè gởi tặng: Cánh Chim Huyền Thoại (Truyện vừa của Nguyễn Thùy và Huy Phong), Đời Cô Thủy (tiểu thuyết của Duy An Đông), Hoa Tâm và Tha Hương (Thơ của Phương Du Nguyễn Bá Hậu), Đường Vào Triết Học Việt Nam (Nguyễn Văn Nhiệm), Tiếng Hót Vành Khuyên (Tập truyện ngắn của Tiểu Thu), CD nhạc của Bích Xuân, CD nhạc của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và CD nhạc của vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên. Niềm vui mới đến với tôi là nhận được quyển sách “Người Đẹp Cung Hằng” của nhà thơ Hoài Việt gởi tặng. Ông viết bằng hai thứ tiếng theo dạng ngụ ngôn. Nội dung quyển sách có giá trị vì mang hai ngôn ngữ và có tính giáo dục và nhân bản.

Lê Nguyên gọi điện thoại líu lo “Hi Phong Thu, mới đó mà đã về nhà rồi. Nhớ nấu linh chi để uống nghen. Bà xã tôi đọc sách cô một lèo rồi khóc...”, rồi anh hướng dẫn cách nấu và dùng Linh Chi. Lê Nguyên đã cho một lời khuyên hữu ích “Những cây nấm độc bên đường mình nên quên nó đi. Tự nó sẽ héo uá và chết”.

Cảm ơn mùa thu trở lại để tôi có thể giở nhanh những trang nhật ký và viết về một chuyến đi đáng nhớ “Thu Tao Ngộ” Paris.
 

Phong Thu
Maryland, 26/10/2009

Tài liệu tham khảo:

Caroline Bruzelius, The Construction of Notre-Dame in Paris, in The Art Bulletin, Vol. 69, No. 4 (Dec., 1987), pp. 540-569

Paul Williamson, Gothic Sculpture, 1140–1300, Yale University Press, 1995

(English) Daniel Stone (2001). The Polish-Lithuanian State, 1386-1795.
Warsaw: University of Washington Press. pp. 119. ISBN 02-95980-93-1
. http://books.google.pl/books?id=LFgB_l4SdHAC&pg=PA119&lpg=PA119&dq=notre
+dame+paris+pacta+conventa&source=web&ots=QiCLWvGmkD&sig=9L4_FPgS3U2FNrTx-ckFb5xSY0k&hl=pl&sa=X&oi=book_result&resnum=3&ct=result
. Retrieved 2008-07-23.

 


PHONG THU

Tên thật: Nguyễn thị Phong Thu, sinh Trưởng tại Bình Dương, Việt Nam.

Cựu học sinh Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, Gia Định, Sài Gòn.

Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn với hai bộ môn Kỹ thuật Văn chương và Tâm Lý Giáo Duc.

Cựu giáo Sư Trường Cao Đẳng Sư Phạm, Bình Dương, Việt Nam.

Bắt đầu cầm bút 1980. Những tác phẩm đã xuất bản tại Hoa Kỳ:

Truyện ngắn:

- Cô Bé Bên Giàn Hoa Giấy Đỏ (2003)

- Đóa Phù Dung (2005)

 Nhà Văn Phong Thu và gia đình hiện đang cư ngụ tại Maryland, WA - DC

Phù Sa.

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.