Thu Paris,
tình yêu và những nụ hôn
Thu
ơi ta chào mi!
Thu đã về rồi phải không thu? Trên thinh không đã có những đàn chim
di bay lang thang về phương Nam sớm hơn mọi năm. Những hàng cây bên
đường đã chuyển màu. Tôi có thể nhìn thấy những chiếc lá còn xanh có
chen lẫn với màu vàng chanh, màu rượu chát, màu nâu, đỏ bầm, hồng,
vàng uá, xám như hàng triệu đoá hoa muôn màu bừng lên trong sắc trời
u buồn và dai dẳng những cơn mưa rả rít. Mùa thu đẹp và buồn não
nùng khiến lòng tôi se thắt lại một cảm giác nôn nao, xao xuyến khó
tả. Tôi yêu mùa thu lạ lùng vì nét đẹp quyến rũ của thu, của bầu
trời xám đục màu chì, của những chiếc lá vàng rơi rụng bay giữa lưng
trời trong sắc thu êm ả, tịch liêu. Hàng ngày đi làm về, tôi thường
ngồi bên song cửa nhìn ra vườn và bâng khuâng nhìn những hàng cây
trút lá rơi âm thầm trên cỏ uá. Mười ngày nay, trời u ám, trở lạnh,
mưa gió tơi bời và nhiệt độ xuống thấp kỷ lục đã được những nhà khí
tượng học ghi nhận rằng đây là mùa thu lịch sử của Hoa Kỳ. Nhiệt độ
xuống thấp nhất trong vòng 130 năm qua. Người bạn đời của tôi cũng
mê viết lách. Anh suốt ngày vùi đầu trên máy computer, biên tập
những quyển sách dầy cộm cho hai nhà xuất bản lớn ở New York và
Florida gởi đến. Nhưng anh cũng thích thú dành thời gian ngắm bầu
trời thu đầy lá chết và những cơn mưa buốt giá. Anh đã nói với tôi
rằng Washington D.C nhiệt độ dưới 45 độ F. Nhưng nhiều tiểu bang
khác có tuyết rơi nhẹ. Hàng cây phong trong sân nhà tôi lá ửng lên
màu vàng cam hực lửa, lá phong vào thu đẹp như những chùm cúc mâm
sôi đang mọc bên thềm.
Sau những ngày âm u, trời ửng lên chút nắng, cũng là lúc tâm trạng u
hoài của tôi vơi đi. Tôi liên tưởng và nhớ lại những ngày “Thu Tao
Ngộ”, lần đầu tiên tôi đặt chân đến Paris. Tôi gặp lại khuôn mặt bạn
bè thân quen và xa lạ. Paris bây giờ lá có vàng thêm trên những hàng
cây dọc theo hai bờ sông Seine êm ả, dịu dàng. Hay bây giờ Paris
đang mưa để tiếng reo của gió làm héo uá những hàng cây dọc theo đại
lộ Khải Hoàn Môn? Nắng có rộn ràng theo những bước chân của khách
lãng du không? Hay Paris đã lặng im, chìm trong những ngày mưa rã
rít. Đêm đầu tiên ở Paris, chúng tôi đi bộ dọc trên viã hè. Những
quán cà phê, quán ăn bên đường đèn sáng choang. Quán nào cũng đông
người. Những quán cà phê trên viã hè với những chiếc ghế và những
cái bàn con con là nét độc đáo, riêng biệt của Parsi. Nhìn Paris,
tôi nhớ Sài Gòn da diết bởi kiến trúc xây dựng, phố xá và phong
cách sống của người Paris mang dáng nét của người Sài Gòn. Nhiều nơi
tôi đi qua, tôi cứ ngở Đà Lạt ngàn thông. Paris là thành phố nửa cổ
kính, nửa hiện đại. Những con đường lát đá hàng ngàn năm vẫn giữ
nguyên hình dáng cũ. Nhiều con đường nhỏ uốn lượn trên những con dốc
cao và đỗ xuống những con đường lớn. Người Paris sống rất nhàn hạ,
họ đi thong thả trên trên đường phố, họ ăn uống, vui chơi bình thản
trên những con phố cổ ồn ào, náo nhiệt.
Những ngày ở Paris, người bạn đồng hành với chúng tôi là giáo sư
Nguyễn Ngọc Chân, ông là một người sinh trưởng tại Cam Bốt, sang
Pháp trên 30 năm nhưng vẫn nói tiếng Việt rất sỏi. Ông dẫn chúng tôi
đi thăm nhiều nơi như: Chams-Élysées,
Opéra, Sacré Coeur, Tour Eiffel, Trocadéro, L’Obélisque,
Notre-Dame... Ông giải thích cho chúng tôi biết những di tích lịch
sử, những nhà thờ và những kiến trúc đặc biệt, nổi tiếng. Ông còn
nhớ cả những bài ca dao, dân ca và những bài thơ trữ tình. Ông nói
với chúng tôi về tình hình đất nước, sự tàn ác ngu xuẩn của chế độ
cộng sản. Tôi không những phục ông về kiến thức mà còn kính trọng
giáo sư vì trong trái tim ông vẫn nuôi dưỡng, hun đúc tình yêu sâu
đậm đối với quê hương, dân tộc đau khổ mang tên Việt Nam. Chị Mây
Thu và anh Nguyễn Thanh giản dị, hiền hậu và nhiệt tâm. Hai vợ chồng
chị đã cùng với anh Đỗ Bình, anh Nguyễn Thùy, chị Mai Ling, vợ chồng
chị Thi Như đã đón chúng tôi từ sân bay và đi theo giúp đỡ chúng tôi
trong
suốt
cuộc hành trình.
Ngày
thứ hai, với sự hướng dẫn của anh Võ Hùng Anh và phu nhân, và nhà
thơ Đỗ Bình cùng phu nhân, đã
cho
chúng tôi
một chuyến
du thuyền trên dòng sông Seine.
Buổi chiều trên sông Seine làm tôi nhớ lại bài hát “Chiều Trên Sông
Seine” của nhà thơ Đỗ Bình. Dòng sông huyền diệu
đã đi vào thơ ca của nhiều thế hệ. Tôi chưa đọc hết những thi phẩm
Pháp nói về dòng sông Sein. Nhưng bài hát của nhạc sĩ Đỗ Bình đã
diễn đạt thật đầy đủ nét đẹp gợi cảm của dòng sông: “Chiều tà ươm
nắng tơ. Thu về soi bóng sông Seine lững lờ. Chuyện tình như áng
mây. Theo cánh chim xưa bay về phương nao....” Và bao năm trôi
qua trên xứ lạ quê người, tác giả cảm nhận rằng “...kiếp tha
hương buồn tênh. Người quanh ta hửng hờ...”, xa lạ. Những dư âm
của tình yêu, tình người lãng đãng, rơi rụng như những chiếc lá bay
ngang dòng sông Seine. Những gì êm đềm của ngày xưa chỉ còn trong
cõi mộng. Anh từ nhà tù trở về, chỉ còn thân xác của một kẻ tật
nguyền. Đôi mắt anh không còn sáng sau những năm tháng tù đày.
Từ con thuyền trôi dòng sông Seine, chúng tôi có thể nhìn thấy những
biệt thự, những ngôi giáo đường cao ngất với những cấu trúc rất tinh
vi. Nắng chiều rơi trên dòng sông một màu vàng óng ả, mượt như
nhung.
Nụ hôn và tình yêu
Nụ hôn là biểu hiện của tình bạn, tình thương mến, tình yêu, tình
người. Nếu loài người ban phát cho nhau nhiều nụ hôn thì thế giới
nầy bớt ganh ghét, hận thù, tranh giành và chém giết lẫn nhau. Người
Mỹ biểu hiện tình cảm bạn bè bằng cách bắt tay hoặc ôm vai nhau và
thân thiết hơn họ hôn nhau trên má. Nhiều người Việt ở Mỹ trên 30
năm vẫn làm bộ đạo đức giả cho rằng không tốt, không đứng đắn. Đến
Paris, tôi mới thấy nụ hôn thật sự có ý nghiã. Những người bạn tôi
gặp là những trí thức nổi tiếng, tài hoa họ đã dành cho chúng tôi
những nụ hôn thật đằm thắm “Ôm chầm lấy và đặt má của tôi áp vào má
họ ở cả hai bên”. Tôi cảm thấy ấm áp tình bạn, gần gủi và xúc động.
Nhà thơ Đỗ Bình ôm tôi và nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung trên sân bay,
nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên chạy đi kiếm chúng tôi trong khách sạn và ôm
hôn lên má. Nhạc sĩ lão thành Lê Trạch Lựu đã gởi trên má tôi hai nụ
hôn chia tay, vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên, nhà phê bình Nguyễn
Thùy cũng tặng tôi những vòng tay thân ái và những nụ hôn, chị Thi
Như cũng áp má hôn tôi từ giả. Tiến sĩ Hải Yến và phu quân đã hướng
dẫn chúng tôi đến Place Vendôme nơi Tổng Trưởng Tư Pháp cư ngụ và
khách sạn Vint, nơi công chúa Diana sinh ở sống lúc sinh thời. Chị
cũng chỉ cho tôi xem nơi văn hào lừng danh Victor Hugo sinh sống.
Hải Yến trông giản dị, mộc mạc, dễ mến. Chị có tài ca vọng cổ rất
mùi làm tôi thích thú. Chị đã ôm hôn tôi hai bên má khi chia tay.
Nghệ sĩ Bích Xuân không biết về tôi nhiều. Nhưng ngày chia tay chị
hôn tôi nhiều nhất (có lẽ gần mười nụ hôn). Tôi cầu mong chị tìm
được sự bình an, hạnh phúc trong cuộc sống đơn độc. Nhiều khi cuộc
sống lứa đôi chỉ là một tấm bình phong che mắt thế gian. Còn đàng
sau là những tiếng gào, thét, những lời nói không đẹp và hành hạ
nhau cả cuộc đời. Đó cũng là bi kịch của những nụ hôn không trọn
vẹn. Hay nơi đó, chúng ta chỉ tìm thấy nửa nụ hôn hờ hững, giả tạo.
Ngày 3 tháng 10,
giáo sư Nguyễn Ngọc Chân và chị Thu Mây hướng dẫn chúng tôi đến
viếng thăm nhà thờ Notre Dam De Paris. Ngôi nhà thờ mà tôi mơ ước
một lần đặt chân đến từ khi còn là một cô bé con mười hai tuổi. Tác
phẩm lừng danh “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà” văn hào tài hoa Victor Hugo
đã cuốn hút hàng
triệu người say mê trong nhiều thập kỷ. Ông là thần tượng văn học mà
tôi yêu thích, ngưỡng mộ. Khi vào trường Đại Học, tôi học hai chương
trình văn học: Văn Học Việt Nam và Văn Học Thế Giới. Văn Học Việt
Nam do giáo sư Lê Trí Viễn giảng dạy. Nhưng Văn Học Thế Giới lại là
con gái của thầy là cô Phương Thảo hướng dẫn. Cô có giọng nói êm ái
và có tài kể chuyện rất thu hút khiến cho mấy anh sinh viên trong
lớp say mê. Cô kể liên tục tiểu thuyết “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà và
Những Người Khốn Khổ” vào cuối giờ học làm cho tôi mơ ước và nuôi
dưỡng một ngày nào đó sẽ dặt chân trong ngôi giáo đường đã đi vào
lịch sử nền văn học Pháp. Notre Dame de Paris có nghĩa là 'Our Lady
of Paris' in French”, là ngôi nhà thờ bắt đầu xây dựng từ năm 1163,
và thời gian xây dựng kéo dài qua nhiều giai đoạn.
Có thể tóm gọn cho các bạn cùng tìm hiểu “Timeline
of construction”:
-
1160
Maurice de Sully (Bishop of
Paris), Đức Giám Mục - Maurice de Sully ở Paris đã có ý định phá
huỷ ngôi nhà thờ nhỏ để xây dựng ngôi nhà thờ lớn (orders the
original cathedral to be demolished).
-
1163
Viên gạch đầu tiên đặt nền móng để xây dựng Notre Dam (Cornerstone
laid for Notre Dame de Paris
-
construction begins).
-
1182
Thánh đường và nơi hát thánh ca hoàn thành (Apse
and
choir completed)
-
1196
Đức Giám Mục Maurice de sully qua đời và Đức Giám Mục Eudes de
Sully tiếp tục xây dựng (Bishop Maurice de Sully dies. Bishop
Eudes de Sully (no relation) takes over the project.
-
c.1200
Bắt đầu xây dựng mặt tiền của hướng Tây (Work begins on western
façade).
-
1208
Đức Giám Mục Eudes de Sully qua đời. Gian giữa của giáo đường xây
dựng gần xong ( Bishop Eudes de Sully dies.
Nave vaults nearing
completion)
-
1225
Mặt tiền hướng Tây đã hoàn thành (Western façade completed)
-
1250
Vòm mái hướng Tây và cánh cửa Hoa Hồng hướng Bắc đã hoàn chỉnh
(Western towers and north rose window completed)
-
c.1245–1260s
Những họa tiết trên cửa Hoa Hồng được trang trí trở lại bởi hai
họa sĩ- kiến trúc sư Jean De Chelles và Pierre de Montreuil
(Transepts remodelled in the
Rayonnant style by
Jean de Chelles then
Pierre de Montreuil)
-
1250–1345
Nhà thờ đã xây dựng hoàn chỉnh (Remaining elements completed).
Notre Dam của Paris nổi tiếng thế giới không chỉ kiến trúc độc đáo
của nó mà Notre Dam còn là một trong những kiến trúc đầu tiên đã sử
dụng
flying buttress (arched
exterior supports) như những cánh tay nhỏ vươn ra như những cánh
bướm để nâng đỡ, bảo vệ ngôi nhà thờ thêm vững chắc (Notre Dame de
Paris was among the first buildings in the world to use the
flying buttress (arched
exterior supports).
Đặc biệt trong nhà thờ có một giàn nhạc rất vĩ đại có 7.800 pipes,
với 900 classified đã có từ mấy trăm năm, 109 phím đàn phiá trên, có
đến năm dãy 56 phím manual và một dàn phím đàn bằng chân có 32 phím
(The organ has 7,800 pipes, with 900 classified as historical. The
organ has 109
stops, five 56-key
manuals and a 32-key
pedalboard). Giàn nhạc độc nhất
vô nhị nầy rất khó sử dụng và chỉ có một số nhạc sĩ tài ba nhất
Paris mới có thể chơi được nhạc cụ nầy (có dịp tôi sẽ trở lại).
Chị Mây Thu và tôi vào bên trong nhà thờ. Mắt chúng tôi chạm phải
những ánh nến lung linh đặt trên những chiếc dĩa tròn màu bạc có trụ
bằng sắt của dãy
hành lang bên phải, được nối tiếp nhau bằng những sợi dây xích chia
thành từng ngăn để mọi
người vào cầu nguyện. Có hai người tuổi trẻ đang âu yếm bên nhau. Cô
gái người Pháp có khuôn mặt trang nhã,
mái tóc dài vàng óng đứng tựa đầu vào vai của người tình. Người
thanh niên tuấn tú, cao lớn choàng tay qua vai người yêu và cả hai
thì thầm cầu nguyện. Tôi đi một vòng nhà thờ, xem các bức tranh,
tượng chạm trổ cầu kỳ, những hoa vân trên các cửa sổ, trên tường và
nghe lời cầu kinh vang vọng. Nhà thờ đông nghẹt người nhưng mọi
người nói chuyện rất khẻ và không gây náo động trong buổi cầu kinh.
Giữa thánh đường rộng thênh thang những hàng ghế đông nghẹt người
đến cầu kinh. Vị linh mục da đen mặc áo choàng màu trắng và bốn cô
gái mặc áo choàng màu xanh dương đang hát thánh ca. Một làn khói
trắng từ dưới bục gỗ bay lên nghi ngút khiến cho buổi cầu kinh thêm
phần long trọng. Khi tôi đi ra đến cửa và chụp hình khung cảnh nhà
thờ thì tôi gặp lại hai người trẻ tuổi. Hình như đối với những người
trẻ tuổi yêu nhau, không gian đang dừng lại, những đám đông xung
quanh không làm cho tâm trí họ bị chi phối. Cả hai đang say đắm bên
nhau. Họ quấn quýt, âu yếm, hôn nhau. Hình ảnh đó thật sống động,
thật kỳ diệu và thật tuyệt vời khiến tôi xúc động. Tôi chụp hình của
họ như một biểu tượng cho cái đẹp, cái thanh khiết vĩnh cữu để tôn
vinh tình yêu. Cầu mong họ mãi mãi bên nhau trong êm ái và hạnh phúc
Gặp bạn hiền
Trước khi đi Paris, tôi có dự định ngoài việc viếng thăm gia đình
nhà thơ Đỗ Bình, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và vài người bạn khác tại
Paris. Nhưng thời gian và những yếu tố khách quan không cho phép.
Cuối cùng tôi chỉ còn gặp được Lê Nguyên, Chủ Biên Phù Sa online.
Website của anh đã thu hút tôi ngay từ những ngày đầu tiên Phù Sa ra
đời.
Thế nhưng mấy năm gần đây, tôi mới bắt đầu gởi bài cho Phù Sa. Anh
dành cho tôi một Mục Thư riêng trên trang Văn Học. Lần đầu tiên gặp
Lê Nguyên, tôi đã có cảm tình ngay do phong cách giản dị, giọng nói
miền Nam gần gủi, chân thật. Chúng tôi đi uống cà phê và nói chuyện
về vấn nạn của Bát Nhã ở Lâm Đồng, Đà Lạt. Một vấn đề nổi cộm gây
chấn động lương tâm mọi người trong và ngoài nước. Nó
phơi bày
bàn tay tàn độc, hiểm ác và vô nhân đạo của chế độ cầm quyền Hà Nội
đối với Phật Giáo. Lê Nguyên quan tâm
nhiều
về
sự tụt hậu của những giá trị văn hóa, và suy trầm về mặt đạo đức
trong xã hội ngày nay.
Lê Nguyên vượt lên những quan niệm dung tục,
dễ dãi
tầm thường, anh
quan niệm
văn
-
nghệ
phải chuyên chở được những giá trị sống; phải thật, lành, và đẹp.
Nếu văn học không
có những
chức năng đó thì khó
mà giữ nổi bản sắc
trong
chu trình toàn cầu hóa hiện nay.
Nhiều người viết văn, làm thơ để
có chút
danh. Họ sẽ cười chê, chế ngạo quan điểm của anh. Thế nhưng, văn học
nghệ thuật nếu không phản ánh được xã hội, lịch sử và thân phận con
người, để giúp con người hướng thiện và tìm ra chân thiện mỹ thì
người cầm bút đã không
đóng trọn
chức năng của mình một cách đầy đủ. Hay đúng hơn họ chẳng hiểu gì về
vai trò của văn học nghệ thuật.
Lê Nguyên cho tôi biết cuộc triển lãm đặc biệt cảnh báo sự “Bức Tử
của
dòng
MeKong” làm tôi tò mò. Anh lái xe đưa tôi đi
xem. Những bức ảnh chụp về dòng sông MeKong được phóng lớn và treo thành
hàng dọc
trên bờ rào
rào của vườn Luxembourg. Những bức hình được lựa chọn từ các nước có
liên quan đến dòng MeKông:
Tây Tạng, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Điện...
Những bức hình nầy đang báo động với thế giới về sự nguy hại của
dòng MeKong khi con người khai thác nó quá đáng.
Dự án con đập Pa-Mong ở hạ lưu sông Mekong là con đập lớn giữa biên
giới Thái – Lào nằm trên dòng chính sông Mekong. Nó sẽ cung cấp
nguồn điện trên 2.000 MW, cải thiện thủy lộ giao thông, phát triển
kinh tế cho toàn vùng đông bắc Thái Lan và Lào với hồ chứa dài hơn
300 km.
Thượng lưu sông MeKong, Trung Cộng xây đập Tiểu Loan (Xiaowan) trên
dòng chính sông Lan Thương, đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp (Three
Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Công suất đập Tiểu
Loan là 4,200 MW là con đập cao nhất thế giới (292 mét), tương đương
với tòa nhà chọc trời cao 100 tầng, với dung lượng hồ chứa lên tới
15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông MeKong, sẽ bắt đầu hoạt động từ
năm 2010, cung cấp điện cho tỉnh Quảng Đông và các tỉnh lân cận.
Theo tài liệu của Ủy Ban Sông Mekong có trụ sở ở Bangkok, Trung Cộng
đã xây dựng mười bốn con đập trên dòng chính thượng nguồn sông
Mekong, chưa kể vô số những con đập ở phụ lưu như: Xiaowan (Tiểu
Loan), Manwan (Mạn Loan), Daichaosan (Đại Chiếu Sơn), Nuozhado;
Jinghong (Cảnh Hồng), Gunlanba và Mengsong. Liutongsiang; Jiabi;
Wunenglong; Tuoba; Huangdeng; Tiemenkan; Guongguoqio.
Dòng MeKong sẽ bị bức tử trong một thời gian không xa và những hiện
tượng điạ chấn gây động đất có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Câu chuyện
thần thoại về ngọn sóng thần của những con đập bị vỡ sẽ cuốn theo
hàng triệu triệu sinh linh sống dưới hạ nguồn không còn nằm trong
tiểu thuyết. Thật kinh hoàng cho sự tham lam, cuồng vọng và tàn ác
của Trung Cộng.
Hai chúng tôi đi vòng quanh Luxembourg, anh chỉ cho tôi xem ngôi nhà
của Thượng Viện của Pháp đồ sộ nằm trong khuôn viên Luxembourg. Mặt
tiền của Thượng Viện đối diện với con đường đông đúc xe cộ nhưng bên
trong là một vườn hoa xinh đẹp, có đặt những chiếc ghế cho mọi người
nghĩ chân, có quán ăn, giải khát nằm khuất dưới những hàng cây xanh
tươi. Và mọi người bình thản chạy bộ, tập thể dục thể thao. Chúng
tôi đi dưới những hàng cây đầy lá chết. Lê Nguyên kể cho tôi nghe về
cuộc đời mồ côi của anh, về những chuyến vượt biên bất thành khiến
anh mất trên 265 cây vàng trước khi vượt thoát ra hải ngoại. Anh kể
về nỗi buồn và nỗi nhục nhằn của đời tị nạn, bị vu oan, bị chụp mủ
cộng sản...
đã khiến anh quyết định đến với cửa Phật. Anh đã tìm
ra quê hương tâm linh của mình.
Nhìn anh, tôi lại nhớ đến Đinh Ban Thuận, người chị, người bạn luôn
gần gủi bên tôi. Mùa thu nầy chị sẽ rời trụ sở đài truyền hình ABC
của Hoa Kỳ để về hưu non. Trong khi nhiều người bon chen tìm danh
lợi thì chị dứt bỏ tất cả để tìm đến cửa thiền. Chị sống đơn độc hơn
mười lăm năm từ khi người bạn đời đã về cõi
miên viễn.
Chị yêu anh đến mức không bao giờ còn tìm được người thứ hai thay
thế cho anh. Giữa cuộc sống sôi động, đầy cám dỗ, với địa vị xã hội
trí thức cao trọng chị vẫn giản dị, khiêm tốn, chung thủy, tử tế với
mọi người. Chị chơi với tôi không bao giờ so bì hơn thiệt, được
không. Đối với chị tiền tài, danh vọng chỉ là phù du, cát bụi. Tôi
cảm ơn cuộc đời còn cho tôi những người bạn hiền. Bửa tiệc cuối cùng
sẽ diễn ra vào ngày 31 tháng 10 để chị từ giã bạn bè về hưu trí, từ
bỏ cương vị của một nhân viên uy tín, tận tụy với đài trên 30 năm.
Tôi bỗng lo lắng khi chị mong muốn rời khỏi Hoa Kỳ trong một thời
gian khá dài và tôi sẽ rất hiếm hoi gặp lại chị. Tôi gọi điện thoại
nói với chị về nỗi lo của tôi. Chị cười và nói rằng “Chị sẽ cho
Phong Thu biết tin chị sẽ làm gì và đi đâu?”.
Ngày 7 tháng 10, tôi và nhà thơ Đỗ Bình gặp lại Lê Nguyên lần sau
cùng bên quán cà phê đối diện toà nhà Thượng Viện. Anh tặng tôi một
gói
nấm Linh Chi. Nấm Linh Chi mang theo tình bạn lần gặp gỡ đầu tiên
của tôi và Lê Nguyên.
Đỗ
Bình và Thu tao ngộ
Với đôi mắt đã mờ theo những năm lao tù và những bịnh tật đeo đẳng,
nhà thơ Đỗ Bình vẫn muốn gởi lại cho đời những rung cảm của con tim
qua những vần thơ, những bài hát. Anh vẫn giữ vai trò Chủ Tịch Câu
Lạc Bộ Văn Học Paris và hàng năm tổ chức những buổi họp mặt văn
nghệ, ra mắt sách cho các văn nghệ sĩ ở Paris và nơi khác đến.
Năm nay, “Thu Tao Ngộ” đã đến với anh bằng những cơn bão, những trận
mưa rào làm anh ướt áo, nhức đầu, sổ mũi?!...
Nhưng anh đã thành công một cách ngoạn mục do sự linh động và tài
điều hợp chương trình của anh với sự cộng tác của nữ sĩ Vân Hải và
Ban Tổ Chức.
Thu Tao Ngộ quy tụ được một lực lượng tri thức, chất xám đáng kể của
Paris. Những người tôi chỉ nghe tên tuổi, tài năng nhưng chưa bao
giờ biết mặt: Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hướng tức nhà thơ Hoài Việt và phu
nhân Huệ Châu, ông bà Bác Sĩ Phan Khắc Tường, Chủ Tịch Cộng Đồng
Người Việt Quốc Gia Paris, nhà văn nữ Mai Ling, Bác Sĩ Phạm Hữu Trác
(Canada), nhạc sĩ Phạm Đình Liên và phu nhân Minh Cầm, Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Chân, Giáo Sư Bùi Sỹ Thành, Giáo Sư Thái Hạc Oanh, nhà
văn Tô Vũ, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu, nhà văn Hồ Trường An, Nữ nghệ sĩ
Diệu Khánh, điêu khắc gia Anh Trần, Bác Sĩ Huỳnh Trung Nhì, Luật Sư
Dương Thái Chân, Bác Sĩ Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Phương Du, Tiến Sĩ
Hồ Minh Trâm, Ông Võ Hoài Nam (nhà văn Tiểu Tử), Giáo Sư Như Mai,
Bác Sĩ Vũ Thị Thoa, Tiến Sĩ Nguyễn Thị Kim Đàn, Giáo Sư Phạm Thị
Nhung, nữ sĩ Vân Hải, nhà báo Phạm Hữu, nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà
văn Trọng Lễ, kỹ sư Nguyễn Xuân Lan, nhà thơ Quyên Tâm, hoạ sĩ
Nguyễn Đức Tăng, Giáo Sư Tư Trì, Giáo Sư Âm Nhạc Nguyễn Thanh Vân
(đàn tranh), nhà thơ Mây Thu và phu quân Nguyễn Thanh dễ mến, vợ
chồng nghệ sĩ Võ Hùng Anh và vợ chồng chị Thi Như. Bên cạnh nhà thơ
Đỗ Bình là phu nhân Thúy Hằng, người vợ hiền cũng là một ca sĩ đã
sát cánh bên anh trong tất cả các buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật.
Nhà thơ Đỗ Bình còn lôi cuốn được hai trí thức nổi tiếng từ nhiều
thập niên qua là nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và phu nhân và nhà phê bình
văn học lão thành Nguyễn Thùy đến từ Thụy Sĩ. Những ca sĩ yêu văn
học nghệ thuật của Paris cũng đã đến tham dự và đóng góp tài năng
cho nghệ thuật như: Ca sĩ Minh Nhật, người ca sĩ đã một thời vang
danh nay vẫn đến chia sẻ tâm tình và cùng chúng tôi lang thang trên
thành phố Parsi, ca sĩ Đỗ Quyên và giáo sư Nicole Rivière, ca sĩ
Bích Liên, ca sĩ Ambrosio Laurent, ca sĩ Ngọc Châu. Ngoài ra còn có
mặt hai nhà đấu
tranh trong cộng đồng người Việt tại Paris là Trần Hồng và Nhất Long
và các em thiếu nhi xinh xắn, dễ yêu trong tà áo dài khăn đóng với
chiếc lồng đèn trong tay. Hội trường đông nghẹt không còn có chỗ
ngồi, ban tổ chức phải xếp ghế hai bên hành lang. Số lượng quan
khách Paris đông đảo trong ngày “Thu Tao Ngộ” là để chào đón những
tác giả phương xa cùng viết chung tác phẩm “Món Ăn Theo Bước Chân Di
Tản” như: Nguyễn Thị Ngọc Dung (Chủ Nhiệm tập san Cỏ Thơm) và Phong
Thu (Washington D.C), Vũ Nam (Đức), Tiểu Thu (Canada), Duy An Đông,
Ngọc An, Mặc Giao (Califorina). Tháp tùng đoàn còn có nhà danh hoạ
Vũ Hối (Washington D.C), nhà biên khảo Nguyễn Văn Nhiệm (Đức), Hồng
Phúc và Nguyễn Thuận (TX), Trúc Giang và phu quân (Đức), Chu Kim
Oanh và phu quân (Arizona).
Thu Tao Ngộ là nét đặc thù riêng sinh hoạt văn học nghệ thuật của
Paris. Cùng một lúc, chương trình đã giới thiệu nhiều tác giả và tác
phẩm khác nhau với những nội dung phong phú đa dạng. Chiều Thu Tao
Ngộ đã để lại một dư âm ngọt ngào trong lòng mọi người.
Giã từ Paris và những người tôi yêu
Ngày vui qua mau, ngày chia tay cuối cùng chúng tôi còn gặp lại
Nguyễn Thùy, nhà phê bình nhỏ nhắn, dễ mến, vui tính, bộc trực và mê
thuốc lá. Nhớ Nguyễn Thuỳ, tôi phải làm thơ con cóc “Khói thuốc
bay trong chiều lãng đãng. Anh về dệt mộng buổi chiều thu”. Nhà
thơ Đỗ Bình bị tôi hành hạ nên phải đón Metro vượt chặng đường dài
hơn 60 Km để đến giúp bạn bè. Anh chạy ngược xuôi trên đường
Luxambourg trong một tiếng đồng hồ để tìm mua chiếc vé đậu
parking.
Rồi cả buổi trưa, anh loay quay đi tìm nhà bác sĩ Nguyễn Bá Hậu nhờ
làm giúp bạn giấy tờ để tiết kiệm tiền vé máy bay $500 cho bạn. Với
đôi mắt đã mờ và thường xuyên chảy nước mắt, anh phải xin lỗi tôi
liên tục vì anh không thấy đường để đọc những hàng chữ trên đường.
Thương anh, tôi chỉ còn biết im lặng mà nhìn. Tôi cảm thấy mình có
lỗi với anh. Vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên và Minh Cầm, Bích Xuân,
Hoạ sĩ Vũ Hối, Ngọc An cũng có mặt trong buổi chia tay. Bửa ăn chia
tay cuối cùng là một bửa ăn lịch sử chưa bao giờ xảy ra trong đời
tôi. Tôi sẽ trân trọng gìn giữ mãi tình cảm chân thành của bạn bè
thân thương trong ký ức. Và tôi cũng dọn dẹp sạch sẽ những cây gai
nhọn trên đường tôi đã đi qua. Tạm biệt Paris, thành phố “ánh sáng
và nước”, với những người bạn mới gặp gỡ chưa kịp nắm tay nhau đã
phải chia tay, của những người hát rong nhảy múa trên đường phố,
của những nụ cười và những nụ hôn. Biết đến bao giờ tôi mới trở lại
Paris. Và ngày đó, có còn không nhạc sĩ Lê Trạch Lựu kể cho tôi nghe
sự ra đời của bài hát “Em Tôi”, nhà văn Hồ Trường An với những bài
thơ trãi rộng tình quê hương, bạn bè trong tuyển tập thơ “Vườn Cau
Quê Ngoại”. Nhà phê bình Nguyễn Thùy nói cười rổn rảng, say mê
nghiên cứu và viết tiểu thuyết. Bóng chiều đã ngã xuống cuộc đời của
những người tài hoa. Niềm mong ước của tôi là cầu chúc cho tất cả
bình an trong cuộc sống.
Trở về Washington D.C, hành trang tôi trĩu nặng tình và trĩu nặng
tri thức. Thư viện nhỏ trong nhà tôi có thêm những quyển sách và
những CD nhạc bạn bè gởi tặng: Cánh Chim Huyền Thoại (Truyện vừa của
Nguyễn Thùy và Huy Phong), Đời Cô Thủy (tiểu thuyết
của Duy An Đông), Hoa Tâm và Tha Hương (Thơ của Phương Du Nguyễn Bá
Hậu), Đường Vào Triết Học Việt Nam (Nguyễn Văn Nhiệm), Tiếng Hót
Vành Khuyên (Tập truyện ngắn của Tiểu Thu), CD nhạc của Bích Xuân,
CD nhạc của nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên và CD nhạc của
vợ chồng nhạc sĩ Phạm Đình Liên. Niềm vui mới đến với tôi là nhận
được quyển sách “Người Đẹp Cung Hằng” của nhà thơ Hoài Việt gởi
tặng. Ông viết bằng hai thứ tiếng theo dạng ngụ ngôn. Nội dung quyển
sách có giá trị vì mang hai ngôn ngữ và có tính giáo dục và nhân
bản.
Lê Nguyên gọi điện thoại líu lo “Hi Phong Thu, mới đó mà đã về nhà
rồi. Nhớ nấu linh chi để uống nghen. Bà xã tôi đọc sách cô một lèo
rồi khóc...”, rồi anh hướng dẫn cách nấu và dùng Linh Chi. Lê Nguyên
đã cho một lời khuyên hữu ích “Những cây nấm độc bên đường mình nên
quên nó đi. Tự nó sẽ héo uá và chết”.
Cảm ơn mùa thu trở lại để tôi có thể giở nhanh những trang nhật ký
và viết về một chuyến đi đáng nhớ “Thu Tao Ngộ” Paris.
Phong Thu
Maryland, 26/10/2009
Tài liệu tham khảo:
Caroline Bruzelius, The Construction of Notre-Dame in Paris,
in The Art Bulletin, Vol. 69, No. 4 (Dec., 1987), pp. 540-569
Paul Williamson, Gothic Sculpture, 1140–1300, Yale University
Press, 1995
(English)
Daniel Stone (2001).
The Polish-Lithuanian State, 1386-1795.
Warsaw: University of Washington Press. pp. 119.
ISBN 02-95980-93-1.
http://books.google.pl/books?id=LFgB_l4SdHAC&pg=PA119&lpg=PA119&dq=notre
+dame+paris+pacta+conventa&source=web&ots=QiCLWvGmkD&sig=9L4_FPgS3U2FNrTx-ckFb5xSY0k&hl=pl&sa=X&oi=book_result&resnum=3&ct=result.
Retrieved 2008-07-23.
|