Nhớ một dòng sông
Hai mươi năm cánh lục bình nhung nhớ
Nhớ dòng sông con nước vẫn chờ mong
Tôi đợi mãi một bóng người xa thẳm
Chiều mênh mang chìm vào cõi xa xăm
(Chiều Cuối Năm)
Năm 2002, tôi quyết
định trở về thăm gia đình sau mười hai năm xa quê hương. Chuyến bay
24 tiếng đồng hồ từ Hoa Kỳ về Sài Gòn và cuối cùng tôi đã trở về quê
nhà. Dù tôi đã thấm mệt, nhưng tôi không thích ngủ. Không khí náo
nức của ngày Tết cuốn hút bước chân tôi. Thế là tôi leo lên xe cùng
chị tôi đi chợ Hoa Xuân.
Mỗi năm,
khi đến ngày Tết Nguyên Đáng là chợ Hoa Xuân bắt đầu nhóm họp. Những
người trồng hoa ở miệt vườn quanh thị xã Thủ Dầu Một, Lái Thiêu,
Búng, Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hoà và những chiếc ghe miền Tây chở
kiểng, và hoa lên chợ Thủ bán. Chợ Hoa Xuân Thủ Dầu Một tuy nhỏ
nhưng cũng rộn rịp và có nhiều loại hoa khác nhau được bày bán dọc
theo bờ sông Bạch Đằng. Dạo chợ Hoa Xuân, cũng là một thú vui của
tôi khi còn sống tại Việt Nam. Tôi đếm lịch Ta mới biết chỉ còn một
tuần nửa là đến ngày Tết Nguyên Đán. Và đêm nào tôi cũng đi lang
thang ra chợ Thủ để xem chợ Tết. Đêm ẩm ướt và giá lạnh. Cái rét
hiếm thấy vào những ngày cuối năm ở miền đông Nam Bộ. Cảnh vật, con
người đã đổi thay. Những ngày giáp Tết làm sao mà ngủ được. Lúc nào
chị Ba tôi làm biếng lái xe thì chị gọi Minh, bạn tôi lái xe van đến
chở chúng tôi đi chợ Tết. Chợ rộn ràng, tập nập suốt ngày đêm. Tôi
đi qua những gian hàng bánh mức, trái cây, dưa hấu chất đầy
chợ…Nhưng nơi tôi thích đến nhất là chợ Hoa Xuân kéo dài từ ngã ba
đường Bạch Đằng đến tận cuối chợ cá. Những ngày cuối xuân, ngày cũng
như đêm, nơi đây đông đúc và nhộn nhịp. Hoa đủ loại được bày bán la
liệt: Cúc mâm sôi với những cánh hoa nhỏ từng chùm đan kín, xoè rộng
đủ màu, đủ sắc. Hoa cúc vàng thì to như bàn tay óng ả, yếu điệu. Hoa
sứ có màu hồng đài các, hoa thược dược, hoa phong lan tím trang đài,
u ẩn, hoa huệ trắng thơm ngát…Tôi thích hàng bông thọ nở vàng rực và
tỏa mùi hương thôn dã làm tôi ngây ngất. Tôi không hiểu vì sao tôi
không thể gọi là hoa thọ mà chỉ thích gọi là bông thọ vì vẻ đơn sơ,
mộc mạc của nó. Nhưng bông thọ tượng trưng cho sự tôn kính, thanh
cao mà những bà mẹ quê thường mua về cúng ông bà, hay trang trí
trên bàn thờ tổ tiên trong ngày giỗ, hay Tết. Dù xa quê hương đã hai
mươi năm, tôi vẫn nhớ bông thọ và mùi thơm riêng biệt của nó. Đặc
biệt là các chậu hoa mai thì được những bàn tay nhà nghề của nghệ
nhân uốn cong và cắt tỉa theo nhiều hình thái khác nhau rất đẹp mắt.
Các chậu hoa mai được trồng trong các chậu sành có nhiều hoa vân và
giá rất đắc. Chỉ có người giàu mới dám mua về để chưng bày. Mọi
người nhộn nhịp đi xem hoa, mua hoa và ngã giá. Tiếng xe chạy, tiếng
người mua kẻ bán, tiếng cười nói xôn xao khắp nơi. Không khí ngày
Tết thật rộn ràng, ấm áp vui vui.
Con đường
Bạch Đằng bây giờ thay đổi nhiều quá. Dọc theo bờ sông đã trồng
nhiều cây dừa và kiểng, có những chiếc ghế đá để ngồi hóng mát. Bạn
tôi thèm cà phê nên anh đến cái quán cà phê bên đường ngồi uống.
Minh nói chúng tôi đi chừng nào muốn về thì cho anh biết. Chị ba tôi
thích đi chọn bánh mứt, trái cây, và rau. Còn tôi đi một vòng chợ
rồi thích ngồi nghĩ chân bên một chiếc ghế đá trống và nhìn sang
chiếc cầu bên kia thành Công Binh. Chiếc cầu xa xa, đen thẩm như một
sợi dây thừng dài vắt qua mặt nước dưới ánh đèn đêm khi mờ, khi tỏ.
Một thời khói lửa xa xưa, nó đã trở thành mục tiêu của nhà văn quân
đội, kiêm đặc công Chu Lai đặt mìn đánh sập. Mấy chục năm, nó hư
hỏng và người dân hai bên bờ sông muốn thăm nhau phải đi bằng những
chuyến đò đưa khách sang sông. Bến đò nằm ngay chợ cá, gần nhà thủy
tạ. Khi tôi trở về, chiếc cầu đã được xây lại cho tử tế, nên tôi mới
có dịp sang bên kia sông để ăn cá nướng trui. Trên con đường nầy,
sát bờ sông có trường Mỹ Thuật. Bên kia đường đối diện cây đa là
HVHNT tỉnh Bình Dương. Cây đa lá xanh rì, tàng xoè rộng che bóng mát
cho người qua lại. Và cây đa cũng xõa những sợi dây dài như tóc của
người con gái độ tuổi tròn trăng.
Nơi đây,
bạn bè tôi thường tụ họp tán dóc và nói những chuyện trời trăng mây
nước trong lúc bụng đói meo, cơm áo, gạo tiền vẫn còn oằn nặng trên
đôi vai, nỗi khắc khổ hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Nói đến
đây, tôi nhớ đến nhà thơ Trần Bình Dương, người bạn tài hoa của tôi
đã vĩnh viễn rời bỏ kiếp con tầm nhả tơ để mang mơ ước viễn vu về
cõi thiên thai. Có thể nơi xa xăm, bồng bềnh sương khói mong lung,
anh đang ngồi làm thơ, viết văn, và kể cho những người bạn mới quen
về cuộc đời khổ hạnh, về những năm tháng gian truân của một kiếp
người. Tài sản của anh là con chữ, là những bài thơ, những bài văn
bán đi chẳng ai mua. Châu ơi! Giờ đây, dù anh có đi về đâu trong
khoảng không gian vô hình nào đó, thì những nếp nhăn và nỗi lo lắng
vẫn luôn ẩn hiện trong đôi mắt anh. Làm sao tôi có thể quên cái dáng
còm cõi của anh trên chiếc xe đạp có giàn ngang cũ mèm rong ruỗi
trên những con đường chợ Thủ. Rồi những ngày tháng anh lang thang để
hồn thơ bay cao trên dòng sông lộng gió. Thông thường, người ta nhớ
về những người có địa vị, danh vọng, giàu sang hay quyền thế, còn
tôi lại nhớ những người bạn nghèo. Sự đổi ngôi của cuộc đời nầy đâu
có gì lạ! Và có ai biết được ngày mai mình sẽ là ai? Và khi mình
xuôi tay nhắm mắt, mình sẽ để lại cho xã hội những gì?
Tôi ngồi
trên chiếc ghế đá lạnh lẽo và nhìn nhà hàng nổi trên con tàu trước
mặt. Đèn sáng choang, tiếng nhạc, tiếng ồn ào cười nói vang vọng
trên sóng nước. Những chiếc ghe từ miền Tây lên đây bán cá mắm linh,
mắm lóc, nếp, gạo cho những nhà buôn trong chợ cá đậu kín hết bờ
sông. Những người dân quê tôi vẫn lam lũ, nhọc nhằn. Họ bán thân xác
trên những mảnh ruộng vườn cằn cỗi hay bơi xuồng dọc ngang trên
những chiếc đò xuôi dòng sông lên chợ Thủ. Cái bến đò chợ Thủ là nơi
hò hẹn của những mối tình trai gái, là nơi người dân quê tôi từ bên
nầy hay bên kia sông đón đò đưa họ sang thăm nhau, buôn bán, trao
đổi hàng hoá. Bến đò đã trở thành nơi quen thuộc hàng trăm năm nay
và vẫn tập nập tàu bè qua lại.
Trước 1975,
hạm đội Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà đóng quân tại đây. Đối diện là
ngọn đồi cao trồng nhiều cây xanh là dinh Tỉnh Trưởng. Những con tàu
sắt ngày đêm tuần tra trên sông làm mặt nước gợn sóng. Bên kia sông
là những mảnh vườn cây trái tiếp nối với cánh rừng dầy đặc. Dọc theo
bờ sông Bạch Đằng còn có nhà thủy tạ xây hình vuông với chiếc cầu
bằng sắt bắt ra sông. Khi còn bé tôi và bạn bè thường đạp xe hoặc đi
bộ ra đây chơi. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đá sơn màu vôi
trắng đặt dưới chân một giàn hoa giấy màu đỏ, màu hồng. Đối diện là
dinh tỉnh Trưởng, dinh thự nầy xây từ thời Pháp thuộc. Những cây dầu
cao lớn, lá xanh rì quanh năm lao xao trong gió và tung xuống mặt
đường những cánh hoa dầu xoay tít. Dòng sông ngày đó, nước trong
xanh như gương vào những ngày nước biển tràn về. Ngồi trên bờ, tôi
có thể nhìn thấy đáy sông, cát, đá và những viên cuội trắng phau.
Tôi có thể nhìn thấy những con cá cơm, cá liềm kiềm, nho nhỏ tung
tăng bơi lội. Nơi đây, tôi đã có những ngày hẹn hò với bạn bè, với
những người thân yêu. Chúng tôi ngồi hàng giờ bên nhau, dưới ánh
trăng, nhìn trăng rơi trên mặt nước lung linh, huyền ảo. Nơi đây đã
chôn sâu những kỷ niệm từ thuở ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành.
Dòng sông nầy đã một thời gợi cho tôi bao mơ mộng, nhung nhớ, tiếc
thương. Nhưng dòng nước kia cũng đã song hành với thời gian và trôi
đi không bao giờ trở lại bến sông xưa.
Bạn bè tôi
thường hỏi vì sao gọi chợ Bình Dương là Thủ Dầu Một? Theo tài liệu
của Bách khoa toàn thư – Wikipedia, thì
Bình Dương
là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng hòa
thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956. Tỉnh lỵ là
Phú Cường. Vào ngày 30/8/1957, Tỉnh Bình Dương bao gồm 5 quận, 10
tổng, 60 xã.
Bình Dương là một phần của
tỉnh Thủ Dầu Một
xưa kia được thành lập vào tháng 12 năm
1899 từ
Sở Tham Biện
Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh
Biên Hòa.
Tháng 10 năm
1956
chính quyền
Việt Nam Cộng hòa
giải thể tỉnh Thủ Dầu Một để thành lập các tỉnh Bình Dương, và một
phần tỉnh
Bình Long.
Năm 1974
dân số tỉnh Bình Dương là 260.008 người.
Thủ Dầu Một là thị xã tỉnh lỵ tỉnh
Bình
Dương,
cách trung tâm Quận 1, Sài Gòn khoảng 31 km về phía bắc. Thủ Dầu Một
có diện tích 11.881 ha, gồm 11 phường: Phú Cường, Phú Thọ, Chánh
Nghĩa, Hiệp Thành, Phú Hòa, Phú Lợi, Phú Mỹ, Phú Tân, Hòa Phú, Định
Hòa, Hiệp An, và 3 xã: Tương Bình Hiệp, Chánh Mỹ, Tân An.
Địa danh Thủ Dầu Một có từ bao giờ? Câu hỏi nầy vẫn còn nhiều người
tò mò muốn biết.
Theo nhà soạn từ điển Lê Văn Đức, nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ, ở phần
địa danh (trang 260) trong “Việt Nam từ điển” (Sài gòn TB 1970) có
nguồn gốc từ tiếng Campuchia. Ông cho rằng tên Thủ Dầu Một do âm
Việt đọc tiếng Cao Miên “Thun Doán Bôth” có nghĩa là gò có đỉnh cao
nhất vì lỵ sở Thủ Dầu Một ở trên ngọn đồi ven sông Sài gòn.
Các tác giả khác nghĩ Thủ Dầu Một là một cụm từ tiếng Việt được hình
thành từ sự kết hợp giữa hai thành tố: “Thủ” là từ Hán - Việt có
nghĩa là “giữ”vì nơi đây có đồn binh để canh giữ, kiểm soát; “Dầu
Một” là tên đất, được cấu tạo theo cách: “Tên một loài thảo mộc.
Theo truyền khẩu vì đồn binh canh giữ tại huyện lỵ Bình An nằm trên
ngọn đồi có cây dầu lớn quen gọi là “cây dầu một” nên tên gọi THỦ
DẦU MỘT ra đời.
Học giả Vương Hồng Sển trong từ điển “Tiếng nói miền Nam” xuất bản
năm 1997 (trang 645) cho rằng người Campuchia gọi tên Thủ Dầu Một là
“Chhocutal MucyDoem” (Chhocutal: gỗ dầu; Mucy: một; Doem: cây) có
nghĩa là “cây dầu một”. Người Hoa cũng dùng tên “Thổ Long Mộc” (cây
rồng đất: có thể hiểu đây là cây dầu rái hay dầu lông có chứa chất
nhựa rất dễ cháy gọi là “mãnh hỏa du”, để chỉ vùng đất Thủ Dầu Một.
Trong hồi ký viết về vùng đất Thủ Dầu Một (xuất bản tại Paris 1863),
đại úy L.C Grammont, một viên sĩ quan Pháp đánh chiếm và quân quản
Thủ Dầu Một trong thời gian 1861-1862), cũng hiểu “thủ” là “giữ”;
“dầu một” là một loại cây nên đã dùng cụm từ Pháp để chuyển nghĩa
tên Thủ Dầu Một “garde - un arbre” (garde: giữ, un arbre: một cây).
Riêng chữ “thủ” còn có người hiểu theo nghĩa là “đầu”, đứng đầu như
trong các từ kép “thủ sở”, “thủ phủ” là nơi đặt trụ sở một đơn vị
hành chính. Trong “Kỷ yếu Thủ Dầu Một - Bình Dương 300 năm hình
thành...” (xuất bản năm 1998), nhà nghiên cứu địa bạ Nguyễn Đình Đầu
giải thích địa danh Thủ Dầu Một: “Trong địa phận làng này xưa có thủ
sở gần cây dầu lớn nhất...” (trang 49) (ngưng trích).
Nếu nói về cây dầu thì Bình Dương trước đây có rất nhiều cây dầu.
Ngay ngã Sáu nhìn lên dốc con Cò, ngày nay loại cây này vẫn còn khá
nhiều trên khu đồi UBND Tỉnh ủy Bình Dương. Chắc rằng tên Thủ Dầu
Một, bắt nguồn từ tên loài cây này mà ra.
Thị xã Thủ
Dầu Một nằm bên tả ngạn
sông Sài Gòn.
Phía Đông giáp các huyện Tân Uyên và Thuận An, phía Tây giáp thành
phố Sài Gòn, Nam giáp huyện Thuận An, Bắc giáp huyện Bến Cát và Tân
Uyên.
Sông Sài Gòn dài 256 km, chảy dọc trên địa phận thành phố khoảng
80km, có lưu lượng trung bình khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố
225m đến 370 m, độ sâu nhiều nơi 20m, diện tích lưu vực trên 5.000
km². Sông Sài Gòn bắt nguồn từ lưu vực cao nguyên Hớn Quảng, tỉnh
Bình Phước chảy qua địa phận tỉnh
Bình
Dương,
Sài Gòn, rồi đổ vào
sông
Đồng Nai
ở mũi Đèn Đỏ, thuộc huyện
Nhà Bè
gọi là sông Nhà Bè với dòng hợp lưu của hai sông Đồng Nai và
Sài Gòn.
Vì chảy qua nhiều vùng nên sông mang nhiều tên khác nhau: Từ đầu
nguồn đến gần chợ
Thủ Dầu
Một,
Bình
Dương,
gọi là sông Ngã Cái.
Đoạn từ chợ
Thủ Dầu Một đến cư xá Thanh Đa Sài Gòn gọi là sông Thủ Khúc
(ngưng trích).
Có một thời
gian, chính quyền đã đổi tên Bình Dương là tỉnh Sông Bé. Nhưng đâu
có ai thích cái tên nầy. Cuối cùng thì cũng phải đổi lại là tỉnh
Bình Dương. Cũng như Sài Gòn. Cái tên đã có trên 300 năm. Dù cho có
ai muốn nó mất đi cũng không thể được vì tên gọi của nó đã ăn sâu
trong tim óc của nhiều thế hệ nối tiếp.
Rời chợ Hoa
Xuân, tôi đến ngồi với Minh. Anh hỏi tôi có đói không. Tôi gật đầu.
Chị ba tôi mua quá nhiều đồ ăn và hoa nên Minh phải lái xe đưa chị
về. Còn tôi cảm thấy đói bụng. Tôi muốn tìm cái gì đó để ăn. Minh
đưa tôi đến quán bánh xèo Sài gòn nằm dọc trên con đường Bạch Đằng
gần bờ sông. Minh hỏi “Bạn có nhớ nơi nầy là không?” Tôi lắc đầu.
Minh cười nói “Bên kia đường là nhà của bạn đó. Ngày xưa tôi thường
đến đây thăm bạn. Con sông nhỏ chảy qua đây là nhà hàng nầy.” Tôi
nhìn quanh và nhận ra chốn cũ. Tôi còn nhớ như in chi nhánh con sông
nhỏ chảy, nước sông dâng cao và bầy vịt con tôi nuôi mỗi mùa hè bơi
lội tung tăng trong đám lục bình. Tôi còn nhớ con vịt mái lông trắng
như tuyết đã ấp trứng trong cái ổ tôi lót dưới giàn mướp. Mỗi ngày
nó đẻ trứng rồi ấp trứng. Tôi rình xem những chú vịt con có bộ lông
tơ vàng óng, với đôi mắt to đen, cái mỏ nhỏ xíu xinh xắn nở ra từ
cái trứng đã bóc võ như một kỳ quan lạ lùng của thiên nhiên làm tôi
khoái chí cười vang. Tôi nâng niu từng chú vịt bé bỏng, mình còn đầy
nhớt nhao, ướt nhẹp rồi đem chúng đi sưởi ấm trong cái ổ rơm. Hàng
ngày, sau khi đi học về tôi tha hồ chơi đùa với chúng. Mùa hè, tôi
đi hái rong, hái bèo, và lục bình thả trên trong chiếc lưới mắt cáo
trên sông để cho chúng bơi lội, bì bỏm tìm mồi. Rồi chúng lớn lên,
Má tôi phải năn nỉ tôi đem đi làm thịt khi có khách quý đến nhà. Tôi
cứ nằm lăn ra đất khóc hu hu…Tôi nuôi con gì là thương con vật đó
như người. Sau nầy tôi lớn lên, gia đình bắt đầu kháng kiệt, tôi mới
biết rằng gà vịt nuôi trong nhà không phải để làm kiểng. Tôi kể cho
Minh nghe chuyện ngày tôi còn bé và kỷ niệm ngây thơ về dòng sông.
Minh cười và nói: “Dòng sông nầy đang cạn dần, lòng sông chứa đầy
rác mà người ta thay nhau đem ném xuống sông. Nước sông bị ô nhiễm
nặng. Bạn không còn dám bơi lội như xưa nữa đâu. Bao nhiêu năm nay
rồi tôi nhìn dòng nước đen và ô nhiễm mà buồn trong bụng. Tôi
gật đầu đồng tình: “Hồi nảy tôi thấy nước lớn nên thích ngồi trên
ghế đá nhìn ra sông. Gió lùa hơi nước xông lên mũi mùi hôi thối. Tôi
hơi ngạc nhiên vì tưởng mùi bùn. Nhưng không, nước đang lên. Anh nói
đúng dòng sông đang ô nhiễm nặng…chị tôi và các cháu nói rằng họ
không dám thò chân xuống nước, nói chi tới chuyện bơi lội như ngày
chúng tôi còn bé.”
Mấy hôm
sau, nhà thơ Trần Bình Dương, chị Xuyến và nhà thơ Nguyễn Công Dinh
cũng mời chúng tôi đi ăn bánh xèo Sài Gòn. Năm 2008, tôi trở về Thủ
Dầu Một lần thứ hai, nhạc sĩ Võ Đông Điền và chị Mai cũng mời chị em
tôi đi ăn trong cái nhà hàng nầy. Chị Ba tôi chỉ tay sang bên đường
nói: “Hồi đó nhà tôi ở đây đó”. Hình như không ai để ý lời
chị tôi nói vì không ai biết được rằng gia đình tôi đã sống nơi đó.
Cái nhà hàng nầy đã dựng lên trên một nhánh nhỏ của con sông đã bị
san lấp bằng phẳng chẳng còn để lại một vết tích nào. Nhìn sang con
đường đối diện là căn nhà cũ của tôi. Người ta đã dựng lên những căn
chòi bằng cỏ tranh và buôn bán những tấm phên lợp vách bằng lá dừa
đan lại. Cỏ tranh, lá dừa khô vương vãi khắp nơi trong sân trước,
sân sau. Nhánh sông cũng đã bị san lấp bằng phẳng và dùng cho việc
kinh doanh, buôn bán. Tôi hỏi thăm bà chủ quán về những người quen
cũ, nhưng bà hầu như không biết ai. Những người hàng xóm thân quen
đã từ từ rời bỏ nơi nầy ra đi. Họ đi đâu và về đâu nào ai biết. Cũng
như gia đình tôi đã mất hết gia sản và phải dọn về một dãy phố chật
hẹp mà xung quanh thiếu vắng tình người. Giờ đây, gần hai mươi năm
xa quê hương, tôi trở lại nhìn cảnh cũ nhớ người xưa. Căn nhà tuổi
ấu thơ sao hoang phế, tiêu điều. Khu vườn nho nhỏ, có bụi mía lau,
hoa dâm bụt, hoa nhài, hàng chuối sứ, cây ổi, cây dừa, cây mận, cây
mít…đã biến mất từ lâu. Người chủ mới đã xây một bức tường kiên cố
bao quanh. Giàn hoa giấy đỏ, tím lay lay trong gió mà thuở bé tôi
thường nghịch ngợm hái phơi khô kết thành những vòng hoa nhỏ để chơi
đã không còn để lại một dấu vết. Người xưa đã khuất bóng và bể dâu
cuộc đời đã đưa họ trôi dạt về đâu? Khuôn mặt những người bạn ấu thơ
như còn quanh quẩn đâu đây trong trí nhớ của tôi. Nhưng âm thanh,
giọng nói, tiếng cười và hình bóng họ chỉ còn là dĩ dãng. Thời gian
đã xoá sạch vết tích cũ. Tôi tự hỏi “vì sao tâm trí con người ghi
lại làm chi những kỷ niệm mốc meo để lòng trĩu nặng nỗi buồn?”
Tôi hỏi tôi hay hỏi ai đó, những người tham dự vào dòng chảy của
cuộc đời ngắn ngủi nầy, sao lại nghĩ ra chi cuộc chiến tranh tương
tàn, để thế hệ tôi bị chia ly vì ý thức hệ? Và giờ đây dù chiến
tranh đã khép lại từ lâu, những con người có trái tim và bộ óc nhỏ
như hột mít vẫn nuôi dưỡng lòng thù hận, ghét bỏ nhau? Lủ trẻ thế hệ
chúng tôi vẫn chưa tìm ra được tình tự dân tộc để mơ ước ngày trở về
sống yên bình trên quê hương thân yêu.
Đã nhiều
năm tháng trôi qua, tôi mãi đi tìm những trái tim chân thành, biết
ghét và yêu đúng nghĩa đã thật sự khó khăn. Từng bước chân tôi đi
qua trong suốt những năm tháng của tuổi hoa niên và trưởng thành là
nhìn thấy ly tán, đau buồn và nghiệt ngã nhiều hơn hạnh phúc và bình
an. Tôi cũng nghiệm ra rằng mỗi người Việt Nam trên quê hương tôi
niềm đau và nỗi buồn lặn sâu vào tâm hồn của họ.
Ba ngày Tết
rồi cũng đi qua. Đường phố trở nên vắng lặng. Sau những ngày chuẩn
bị tống cựu, nghinh tân, mua sắm, chuẩn bị cho ba ngày Tết, mọi
người lại bắt đầu cho ngày Rằm Tháng Giêng cũng nhộn nhịp không kém.
Chị Ba tôi và các cháu muốn tôi ở lại ăn Rằm Tháng Giêng, xem múa
lân và viếng thăm chùa bà Thiên Hậu. Nhưng tôi không có thời gian.
Tôi đã chuẩn bị hành trang trở lại Hoa Kỳ. Đêm cuối cùng tôi không
ngủ. Tôi lại ra bờ sông ngồi nhìn con nước trôi xuôi. Đi tìm một ghế
đá trống lúc nầy thật khó khăn. Tất cả các ghế đá đều kín người.
Người ta yêu con sông nầy và thích ra đây đổi gió, tâm sự. Nhưng
không ai để ý đến cái chết âm thầm của một dòng sông.
Lòng tôi
xao xuyến khi biết rằng ngày mai mình lại ra đi. Tôi đã mang dòng
sông và đám lục bình có màu hoa tím nhạt nhoà, chập chờn trên sóng
nước vào những câu chuyện kể, những áng văn thơ và trong cả những
giấc mơ. Tôi ao ước dòng sông sẽ xanh trong như ngày xưa để tôi được
một lần trở lại trầm mình trong dòng nước mát, được bơi lội như ngày
còn thơ bé, được uống một ngụm nước trong lành và nằm nghe dòng sông
hát những lời tình tự dưới trăng.
Đêm nay,
ngồi viết những dòng tâm sự cho người chợ Thủ, như nhớ như thương
một tình nhân đã chia ly. Tôi thì thầm một mình “Hãy ngủ đi sông
ơi! Ngày mai đời đôi ngã. Hồn tôi sao buốt giá. Thương quê nhà thiết
tha.”
Phong Thu
Chú
thích:
Tài liệu Bách Khoa Toàn Thư-Wikipedia online có ghi chép nhiều chi
tiết quan trọng về tỉnh Bình Dương. |